Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc: Cần đa dạng hóa danh mục hàng xuất khẩu sang Trung Quốc và nên tính đến việc xây dựng và phát triển những sản phẩm mới sao cho phù hợp với thực lực quốc gia; các doanh nghiệp của Việt Nam cần quan tâm, chú trọng đến bản quyền, thương hiệu sản phẩm trong nước cần được đăng ký cẩn thận, đặc biệt với những hàng hóa truyền thống đã có tên tuổi; hạn chế việc kinh doanh chênh lệch giá từ những thương lái Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch không chính thức; Giảm chi phí kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đánh giá lại khả năng cung cấp dịch vụ và mức giá dịch vụ để có hướng giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tạo môi trường thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho doanh nghiệp. Chuyển hướng thị trường nhập khẩu (đặc biệt là máy móc, công nghệ) sang các thị trường khác, nhất là các thị trường có công nghệ cao như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ; hạn chế nhập khẩu những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được và có chính sách tích cực đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu từ Trung Quốc; Tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong việc nhập khẩu hàng hóa, nguyên liệu sản xuất từ các thị trường của các nước khác, không chỉ phụ thuộc vào một thị trường nhập khẩu Trung Quốc như hiện nay. Sử dụng hàng rào kỹ thuật thương mại để tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu; kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu đã qua sử dụng thuộc diện cấm nhập khẩu vào Việt Nam. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hoá, an toàn thực phẩm đối với hàng nhập từ Trung Quốc, ban hành quy định về biện pháp kiểm dịch động và thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm bao gồm quy định về kiểm tra chứng nhận, dư lượng, bao bì, ghi nhãn sản phẩm; quy định về hóa chất, phụ gia; quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bảo vệ môi trường. Tập trung các ưu đãi để khuyến khích doanh nghiệp trong nước sản xuất nhiều các mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng trong nước, nhanh chóng thay thế nhập khẩu các mặt hàng này tự thị trường Trung Quốc. Chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên, cửa khẩu giáp với Trung Quốc Các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hóa, tăng năng suất lao động, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh hàng hóa Việt Nam với hàng hóa ngoại nhập trong thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thương mại Việt Nam – Trung Quốc: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế & Chính sách
173TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Bùi Thị Minh Nguyệt1, Trần Văn Hùng2, Lê Thị Mai Hương3
1TS. Trường Đại học Lâm Nghiệp
2ThS. Trường Đại học Lâm Nghiệp
3NCS. Đại học Kinh tế Luật
TÓM TẮT
Bài viết nêu lên thực trạng thương mại Việt Nam – Trung Quốc trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu và thương
mại hàng hóa. Dựa trên các nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ Tổng Cục Hải quan, bài viết nêu bật được tình
hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với Trung Quốc giai đoạn 2005-2014, cụ thể kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 2005-2014; kim ngạch xuất nhập khẩu của các thị
trường lớn của Việt Nam; tình hình nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Trung Quốc. Kết quả cho thấy, hoạt
động thương mại của Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc và đáng lo ngại là tình trạng nhập siêu
từ Trung Quốc ngày một gia tăng. Ngoài ra, bài viết còn nêu lên những vấn đề đặt ra đối với thương mại Việt
Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết nêu lên một số khuyến nghị góp phần hạn
chế nhập khẩu từ Trung Quốc.
Từ khóa: Những vấn đề, thực trạng, thương mại, Trung Quốc, Việt Nam.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam ngày càng có quan hệ sâu rộng
với Trung Quốc trong hầu hết các lĩnh vực, đặc
biệt là lĩnh vực kinh tế thương mại. Kể từ khi
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa
quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế
thương mại giữa hai nước được khôi phục và
phát triển nhanh chóng. Theo số liệu của Tổng
cục Hải quan kim ngạch thương mại giữa hai
nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5
tỷ USD năm 2009 và đạt 58,64 tỷ USD vào
năm 2014. Hiện Trung Quốc là một trong
những thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng về thương
mại trong 10 năm gần đây (giai đoạn 2005 –
2014) luôn ổn định và đạt trung bình khoảng
25%/năm đã cho thấy những nhân tố thuận lợi
trong quan hệ thương mại hai nước như tính bổ
sung lẫn nhau về cơ cấu kinh tế, vị trí địa lý
thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa, sự đa
dạng hóa trong hình thức trao đổi thương mại
đã được phát huy hiệu quả và đem lại những
lợi ích thiết thực cho hợp tác giữa hai bên,
thương mại song phương đã mang lại nhiều lợi
ích cho hai nước. Mặc dù quan hệ hợp tác kinh
tế thương mại giữa hai nước vẫn trên đà phát
triển ổn định, bền vững và thu được kết quả khả
quan, đã phát huy được tiềm năng và thế mạnh
kinh tế của hai nước. Tuy nhiên, không thể phủ
nhận một thực tế khách quan đó là vẫn còn một
số tồn tại những vấn đề phức tạp gây trở ngại cho
quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên.
Do đó, việc thúc đẩy phát triển thương mại song
phương theo hướng cân bằng và có lợi cho cả
Việt Nam và Trung Quốc đang là vấn đề đặt ra
hiện nay.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động thương
mại của Việt Nam và Trung Quốc.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Bài viết chủ yếu sử dụng nguồn số liệu thứ
cấp thu thập từ Tổng cục Hải quan để sử dụng
phân tích, đánh giá. Cụ thể nguồn dữ liệu về
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và
Trung Quốc, cán cân thương mại của Việt
Nam và Trung Quốc, kim ngạch xuất nhập
khẩu của các thị trường lớn của Việt Nam như
Kinh tế & Chính sách
174 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ số liệu về
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam từ Trung Quốc.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng
trong nghiên cứu này là phương pháp thống kê
mô tả, phương pháp tổng hợp kết hợp với bảng
biểu đồ thị...
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng thương mại Việt Nam –
Trung Quốc
3.1.1. Vị trí thương mại của Việt Nam –
Trung Quốc
Bảng 1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của các thị trường lớn của Việt Nam
(ĐVT: Tỷ USD)
Quốc gia
Năm 2013 Năm 2014
Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng
kim
ngạch
XNK
Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng
kim
ngạch
XNK
Trị
giá
Tỷ
trọng
(%)
Trị
giá
Tỷ
trọng
(%)
Trị
giá
Tỷ
trọng
(%)
Trị
giá
Tỷ
trọng
(%)
Trung Quốc 13,23 10,02 36,94 28 50,17 14,93 9,9 43,71 29,6 58,64
Hoa Kỳ 23,84 18,06 5,23 4 29,07 28,64 19,1 6,3 4,3 34,94
Hàn Quốc 6,2 5,01 20,7 15,7 26,9 7,14 4,8 21,76 14,7 28,9
Nhật Bản 13,63 10,32 11,61 8,8 25,24 14,69 9,8 12,93 8,7 27,62
Đài Loan 2,22 1,68 9,42 7,1 11,64 2,31 1,5 11,08 7,5 13,39
Thái Lan 3,1 2,35 6,32 4,8 9,42 3,48 2,3 7,09 4,8 10,57
Singapore 2,66 2,01 5,69 4,3 8,35 2,94 2 6,84 4,6 9,78
Malaysia 4,92 3,73 4,1 3,1 9,02 3,93 2,6 4,21 2,8 8,14
Đức 4,74 3,59 2,96 2,2 7,7 5,18 3,4 2,62 1,8 7,8
Nguồn: Niên giám thống kê về hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam của Tổng Cục Hải quan 2013,2014
Kể từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc vẫn
giữ vững vị trí là đối tác thương mại lớn nhất
của Việt Nam và Việt Nam cũng là một trong
những đối tác thương mại quan trọng của
Trung Quốc trong khối ASEAN. Với thị
trường Trung Quốc, Việt Namđạt tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2013 lên
tới 50,2 tỷ USD và năm 2014 đạt 58,64 tỷ
USD, chiếm gần 20% trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, Trung
Quốc luôn đứng đầu trong các thị trường xuất
nhập khẩu lớn của Việt Nam. Trong đó, đáng
chú ý là tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc
chiếm 28% trong năm 2013 và 29,6% trong
năm 2014.
3.1.2. Thực trạng thương mại Việt Nam –
Trung Quốc
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt
Nam, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt
Nam và Trung Quốc tăng qua các năm. Cụ thể,
năm 2005 tổng kim ngạch thương mại Việt
Nam và Trung Quốc đạt 9,13 tỷ USD, đến năm
2010 đạt 27,31 tỷ USD, tăng gần 2 lần so với
năm 2005. Năm 2013 kim ngạch thương mại
hai chiều Việt Nam – Trung Quốc đạt 50,2 tỷ
USD tăng 21,9% so với năm 2012, trong đó
Việt Nam xuất khẩu 13,2 tỷ USD tăng 7,03%,
nhập khẩu đạt 36,9 tỷ USD tăng 28,3%. Năm
2014 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc đạt 14,93 tỷ USD, tăng
13,1% so với năm 2013. Về kim ngạch nhập
Kinh tế & Chính sách
175TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
khẩu trong năm 2014 Việt Nam nhập khẩu từ
Trung Quốc trị giá 43,71 tỷ USD, tăng 16,8%
so với năm 2013.
Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2014
Cụ thể như sau:
Tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Trung Quốc: Về kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong
những năm vừa qua tăng nhưng không đáng
kể. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang Trung Quốc đạt 3,23 tỷ USD vào
năm 2005, đến năm 2010 đạt 7,31 tỷ USD và
đến năm 2014 đạt 14,93 tỷ USD, tăng 13,1%
so với năm 2013 và tăng 1,04 lần so với năm
2010. So với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa sang thị trường Trung Quốc chiếm không
đáng kể, dao động từ 7,52 % đến 11,48%.
Bảng 2. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 2005 – 2014 (tỷ USD)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Kim ngạch
xuất khẩu VN
sang TQ
3,23 3,24 3,65 4,85 5,40 7,31 11,13 12,39 13,20 14,93
Tổng kim
ngạch XK của
VN
32,44 39,83 48,56 62,69 57,10 72,24 96,91 114,53 132,03 150,22
Tỷ lệ (%) 9,96 8,13 7,52 7,74 9,46 10,12 11,48 10,82 10,00 9,94
Nguồn: Niên giám thống kê về tình hình xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến các hoạt
động xuất khẩu qua biên giới, Việt Nam có 29
cửa khẩu biên giới với Trung Quốc tại 7 tỉnh
miền núi biên giới Bắc, chưa kể các cửa khẩu
phụ, đường mòn, lối mở. Việc kiểm soát
thương mại xuất nhập khẩu qua tất cả các cửa
khẩu chính - phụ, lối mở này là một thách thức
đối với các cơ quan quản lý để làm lành mạnh
hóa hoạt động thương mại với thị trường quan
trọng này.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu: Trong 10
năm qua, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
Kinh tế & Chính sách
176 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
sang Trung Quốc dù tăng đều, nhưng thấp hơn
nhiều so với mức tăng của nhập khẩu. Xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường này tập
trung nhiều nhất ở nhóm hàng trung gian
(chiếm 51,5%, bao gồm nhiên liệu thô, khoáng
sản, cao su), tiêu dùng (chiếm 22,4%, bao
gồm rau quả, gạo), xăng dầu (17,9%) Cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu nói trên không mang
lại nhiều lợi nhuận cho Việt Nam, do các sản
phẩm xuất khẩu đều có giá trị gia tăng không
cao và việc xuất khẩu một lượng lớn các loại
hàng hóa này sang Trung Quốc có thể ảnh
hưởng không tốt tới quỹ tài nguyên đang dần
trở nên hạn hẹp của Việt Nam (đặc biệt là với
nhóm nguyên liệu thô) hoặc khiến một bộ phận
dân cư nhạy cảm bị phụ thuộc vào những biến
động tại thị trường này (như trường hợp với
nhóm hàng nông sản). Ngoài ra, cũng phải kể
đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc chủ yếu là nhóm hàng nông - lâm
- thủy sản, chiếm tỷ trọng 20,9% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả
nước, việc xuất khẩu nhóm hàng này Việt Nam
phải đối mặt với nhiều thủ thuật từ phía Trung
Quốc về giá cả, thủ thuật thương mại... Thực tế
cho thấy, xuất khẩu nông sản của Việt Nam
đang phụ thuộc rất nhiều vào thị trường Trung
Quốc, nhiều nông sản của Việt Nam xuất khẩu
sang Trung Quốc gặp khó khăn khi các thương
nhân Trung Quốc đột ngột ngừng thu mua
hoặc ép giá nhằm gây khó khăn và tạo sức ép
về kinh tế đối với Việt Nam.
Tình hình nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam từ Trung Quốc: Nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam từ Trung Quốc tăng mạnh qua các
năm. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Trung
Quốc đạt 5,9 tỷ USD năm 2005, trong năm
2010 đạt 20 tỷ USD. Năm 2014 đạt 43,71 tỷ
USD, tăng 18,45% so với năm 2013 và tăng
1,18 lần so với năm 2010. Trung Quốc luôn là
thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam
trong những năm vừa qua, chiếm tỷ trọng
29,56% so với tổng kim ngạch nhập khẩu của
cả nước trong năm 2014.
Bảng 3. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Trung Quốc
giai đoạn 2005 – 2014 (tỷ USD)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Kim ngạch nhập
khẩu của VN từ
TQ
5,90 7,39 12,71 15,97 16,44 20,00 24,59 28,79 36,90 43,71
Tổng kim ngạch
NK của VN
36,98 44,89 62,68 80,71 69,95 84,84 106,75 113,78 132,03 147,85
Tỷ lệ (%) 15,95 16,46 20,28 19,79 23,50 23,57 23,04 25,30 27,95 29,56
Nguồn: Niên giám thống kê về tình hình xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu: Phần lớn
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc nhóm
hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng
xuất khẩu và hàng phụ trợ công nghiệp. Với cơ
cấu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng khoảng
20%, hàng tư liệu sản xuất chiếm khoảng 35%,
hàng công nghiệp phụ trợ và máy móc phụ
tùng vận tải chiếm 35%, có thể thấy khoảng
70% hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào
Việt Nam để phục vụ hoạt động sản xuất của
các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt
Nam. Điều này cho thấy các doanh nghiệp
đang nhập phần lớn các sản phẩm cơ bản, cốt
yếu phục vụ sản xuất hàng hóa của mình từ thị
trường Trung Quốc. Có thể nói, nếu không có
gì thay đổi trong cơ cấu hàng hóa với Trung
Quốc thì khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập càng
sâu, nhập siêu các loại hàng hóa này càng lớn.
Riêng năm 2013, nhập khẩu nhóm máy
móc, thiết bị, phụ tùng, dụng cụ chiếm khoảng
Kinh tế & Chính sách
177TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
18% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị
trường này; tiếp theo là nhóm nguyên phụ liệu
dệt may da giày chiếm 15%; nhóm điện thoại
các loại và linh kiện chiếm 15%; nhóm máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm 12%;
nhóm sắt thép các loại và sản phẩm chiếm 9%;
còn lại là các nhóm hàng hóa khác. Nhập khẩu
điện từ Trung Quốc cũng lên tới 4,65 tỷ KWh
trong năm 2012, chiếm khoảng 4% tổng sản
lượng điện thương phẩm của Việt Nam. Riêng
mặt hàng rau quả và thịt phẩm sơ chế chiếm
gần 50% tổng kim ngạch nhập nhóm hàng này
từ Trung Quốc và phát sinh nhiều vấn đề như
chất lượng sản phẩm, rau quả tươi sống không
được kiểm dịch, sản phẩm có độc tố
Đứng ở góc độ kinh doanh, lợi thế của Việt
Nam khi nhập khẩu các mặt hàng này từ Trung
Quốc là giá hợp lý hơn so với nhiều thị trường
khác, chi phí vận chuyển thấp hơn, từ đó tác
động tích cực tới năng lực cạnh tranh của các
ngành này. Nhưng với cơ cấu hàng nhập khẩu
như vậy, có thể thấy sản xuất của Việt Nam
đang chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc (đặc
biệt là trong một số ngành xuất khẩu mũi nhọn
như dệt may, da giày), nhất là khi thị trường
này có biến động. Hơn nữa, điều này cũng sẽ
ảnh hưởng đến động lực đầu tư vào công
nghiệp phụ trợ, công nghệ mới - sạch của các
doanh nghiệp trongvà ngoài nước tại Việt Nam.
Với thực trạng nền kinh tế còn yếu và đang
phát triển như Việt Nam, việc phải nhập siêu
từ các thị trường là điều dễ hiểu. Với Trung
Quốc – quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế
giới, Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ khi
nhập quá nhiều hàng hóa từ thị trường này.
Vấn đề cốt yếu là do năng lực sản xuất của
Việt Nam còn kém, nếu không nhập từ Trung
Quốc cũng phải nhập từ các thị trường khác.
Các doanh nghiệp của Việt Nam chủ yếu làm
gia công, nhất là xuất khẩu, lại không có ngành
công nghiệp phụ trợ nên muốn sản xuất phải
nhập nguyên phụ liệu đầu vào. Nếu giảm phụ
thuộc vào kinh tế Trung Quốc thì sẽ nhập khẩu
từ thị trường nào và nếu nhập khẩu nguyên
liệu, máy móc thiết bị từ các nước khác thì
hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sản
xuất ra liệu có tính cạnh tranh cao hay không.
Đây là vấn đề đáng quan tâm hiện nay.
Nhiều ngành sản xuất của Việt Nam đang
có mức độ phụ thuộc rất cao vào Trung Quốc
về yếu tố đầu vào như vật tư, nguyên liệu sản
xuất và cả yếu tố đầu ra là thị trường tiêu thụ;
với khoảng 80% nguyên vật liệu đầu vào của
Việt Nam đang phụ thuộc vào Trung Quốc.
Trong số 110 nhóm mặt hàng Việt Nam nhập
khẩu từ Trung Quốc, có rất nhiều sản phẩm là
nguyên liệu đầu vào, linh kiện lắp ráp, gia
công, máy móc thiết bị phục vụ khẩu, trang
thiết bị cho các dự án đang đầu tư. Hiện Trung
Quốc đang kiểm soát chặt chẽ nền công nghiệp
Việt Nam qua nguyên liệu, thành phẩm và thu
về trên 20 tỷ USD mỗi năm.
Việc nhập khẩu hàng hóa quá nhiều và phụ
thuộc vào thị trường Trung Quốc của Việt
Nam đặc biệt là vật tư, nguyên liệu đầu vào
cho sản xuất sẽ gây ra những tác động không
nhỏ đối với nền kinh tế nước ta nhất là trong
bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đi vào
thiết lập sự ổn định các yếu tố kinh tế vĩ mô.
3.2. Đánh giá chung về hoạt động thương
mại của Việt Nam với Trung Quốc
Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ
năm 1991, hoạt động thương mại đã gia tăng
nhanh chóng nhưng diễn biến theo các chiều
hướng khác nhau. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam với Trung Quốc trong thập niên 90
của thế kỷ trước đạt gần 4,9 tỷ USD, nhập
khẩu đạt gần 4,3 tỷ USD, xuất siêu 600 triệu
USD. Nhưng từ đầu thế kỷ XXI, quan hệ mậu
dịch giữa hai nước diễn ra theo chiều hướng
ngược lại. Năm 2001, xuất khẩu đạt hơn 1,4 tỷ
USD, nhập khẩu đạt hơn 1,6 tỷ USD, nhập siêu
gần 200 triệu USD. Từ đó đến nay, bình quân
hàng năm, kim ngạch nhập khẩu tăng 28,6%,
Kinh tế & Chính sách
178 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 18%, nên tình
trạng nhập siêu gia tăng nhanh chóng. Cán cân
thương mại của Việt Nam thâm hụt trị giá 23,7
tỷ USD vào năm 2013 và 28,78 tỷ USD vào
năm 2014, cao gần gấp đôi xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường này. Việc Trung
Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thương
mại của Việt Nam hơn hẳn so với các thị
trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn
Quốc, các nước thuộc khu vực ASEAN là điều
cần được quan tâm. Những biến động từ đối
tác này, nếu có, sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tức
thời tới thương mại Việt Nam, tới cả hoạt động
của các doanh nghiệp với mức độ lớn nhỏ khác
nhau tùy thuộc vào từng ngành, từng lĩnh vực.
Trong 10 năm qua, xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc dù tăng đều, nhưng thấp hơn
nhiều so với mức tăng của nhập khẩu. Xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường này tập
trung nhiều nhất ở nhóm hàng trung gian, hàng
tiêu dùng, xăng dầu Với cơ cấu hàng xuất
khẩu này không mang lại nhiều lợi nhuận cho
Việt Nam. Trong khi đó, phần lớn nhóm hàng
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất
khẩu của Việt Nam lại được nhập khẩu từ
Trung Quốc. Tính cho đến nay, Trung Quốc
vẫn là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt
Nam. Cán cân thương mại của Việt Nam đối
với thị trường này vẫn trong xu hướng thâm
hụt lớn do sự chênh lệch về tốc độ tăng xuất
khẩu, nhập khẩu ngày càng đáng kể. Cụ thể
như năm 2014, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng
18,45% trong khi xuất khẩu chỉ tăng 13,1%
nên mức nhập siêu đối với thị trường này đã
lên tới 28,78 tỷ USD, tăng mạnh so với năm
các năm trước.
Thông qua các số liệu về tình hình xuất
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với Trung
Quốc có thể nhận thấy hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nước đang phụ thuộc rất lớn vào
Trung Quốc. Nếu không đa dạng hóa cả thị
trường xuất khẩu lẫn nhập khẩu, Việt Nam sẽ
ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều
hơn về lĩnh vực thương mại. Nếu Trung Quốc
có những thay đổi như điều chỉnh chính sách
thương mại hoặc áp dụng các biện pháp bảo hộ
hàng xuất khẩu trong nước, hỗ trợ xuất khẩu,
cấm hoặc hạn chế mặt hàng xuất nhập khẩu cụ
thể nào đó thì nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp
nhiều khó khăn đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp sản xuất.
Quan hệ thương mại song phương Việt
Nam – Trung Quốc trong mười năm qua đều
nghiêng lợi ích về phía Trung Quốc, khi Trung
Quốc chủ yếu xuất siêu hàng tinh chế và nhập
tài nguyên, nguyên liệu thô. Trong khi đó, Việt
Nam chưa được hưởng lợi nhiều và chưa tận
dụng được lợi thế của mình trong mối quan hệ
thương mại này.
Ngoài việc nhập khẩu hàng hóa từ Trung
Quốc chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho các
doanh nghiệp sản xuất thì hàng tiêu dùng được
nhập từ Trung Quốc cũng cần được quan tâm.
Mặc dù không phủ nhận hàng hóa của Trung
Quốc có mẫu mã, kiểu dáng khá hấp dẫn, giá
cả khá cạnh tranh, chi phí vận chuyển về Việt
Nam thấp hơn các thị trường khác, nên quần
áo, đồ chơi, hoa quả, thực phẩm Trung Quốc
đã tràn vào thị trường nước ta, góp phần thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng của một số tầng lớp dân
cư. Tuy nhiên, tình trạng nhập khẩu quá nhiều
hàng tiêu dùng từ Trung Quốc chủ yếu thông
qua tiểu ngạch, một phần là buôn lậu qua biên
giới đã kìm hãm sự phát triển của công nghiệp
nước ta và điều đáng quan tâm nữa là không ít
mặt hàng kém chất lượng, độc hại có xuất xứ
Trung Quốc cũng được bán trên thị trường, ảnh
hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam.
Một số quốc gia giàu tài nguyên hoặc có
trình độ công nghiệp hóa thấp hơn Trung Quốc
như Việt Nam thường bị hấp dẫn bởi việc xuất
khẩu tài nguyên, hàng hóa thô, sơ chế. Trong
khi đó, Trung Quốc lại xuất khẩu thành phẩm
có khả năng cạnh tranh rất tốt sang quốc gia
Kinh tế & Chính sách
179TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
xuất khẩu tài nguyên. Hậu quả là sản xuất công
nghiệp của quốc gia xuất khẩu tài nguyên bị
thu hẹp, thậm chí không thể phát triển được do
bị gắn chặt vào việc xuất khẩu tài nguyên và
các hàng hóa có hàm lượng kĩ thuật thấp và về
lâu dài, nền kinh tế sẽ mất khả năng cải thiện
năng suất do sản xuất công nghiệp bị mai một
và thiếu đổi mới, sáng tạo.
3.3. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết trong
thương mại Việt Nam – Trung Quốc
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường
xuất khẩu sang Trung Quốc: Cần đa dạng hóa
danh mục hàng xuất khẩu sang Trung Quốc và
nên tính đến việc xây dựng và phát triển những
sản phẩm mới sao cho phù hợp với thực lực
quốc gia; các doanh nghiệp của Việt Nam cần
quan tâm, chú trọng đến bản quyền, thương
hiệu sản phẩm trong nước cần được đăng ký
cẩn thận, đặc biệt với những hàng hóa truyền
thống đã có tên tuổi; hạn chế việc kinh doanh
chênh lệch giá từ những thương lái Trung
Quốc theo con đường tiểu ngạch không chính
thức; Giảm chi phí kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ, đánh giá lại khả năng
cung cấp dịch vụ và mức giá dịch vụ để có
hướng giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tạo môi
trường thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi
phí trung gian cho doanh nghiệp.
Chuyển hướng thị trường nhập khẩu (đặc
biệt là máy móc, công nghệ) sang các thị
trường khác, nhất là các thị trường có công
nghệ cao như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ; hạn chế
nhập khẩu những mặt hàng Việt Nam đã sản
xuất được và có chính sách tích cực đẩy mạnh
sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu
từ Trung Quốc; Tuyên truyền, khuyến khích
các doanh nghiệp chủ động trong việc nhập
khẩu hàng hóa, nguyên liệu sản xuất từ các thị
trường của các nước khác, không chỉ phụ thuộc
vào một thị trường nhập khẩu Trung Quốc như
hiện nay.
Sử dụng hàng rào kỹ thuật thương mại để
tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa
nhập khẩu từ Trung Quốc, xây dựng và thực
thi các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc đối với
máy móc, thiết bị nhập khẩu; kiểm soát chặt
chẽ các mặt hàng máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu
đã qua sử dụng thuộc diện cấm nhập khẩu vào
Việt Nam.
Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hoá,
an toàn thực phẩm đối với hàng nhập từ Trung
Quốc, ban hành quy định về biện pháp kiểm
dịch động và thực vật, vệ sinh an toàn thực
phẩm bao gồm quy định về kiểm tra chứng
nhận, dư lượng, bao bì, ghi nhãn sản phẩm;
quy định về hóa chất, phụ gia; quy định về truy
xuất nguồn gốc sản phẩm, bảo vệ môi trường.
Tập trung các ưu đãi để khuyến khích doanh
nghiệp trong nước sản xuất nhiều các mặt hàng
thiết yếu cho tiêu dùng trong nước, nhanh
chóng thay thế nhập khẩu các mặt hàng này tự
thị trường Trung Quốc.
Chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên,
cửa khẩu giáp với Trung Quốc
Các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao năng
lực sản xuất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật,
công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hóa,
tăng năng suất lao động, đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh hàng hóa
Việt Nam với hàng hóa ngoại nhập trong thời
kỳ đất nước hội nhập quốc tế.
IV. KẾT LUẬN
Thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã đạt
được nhiều thành tựu trong những năm vừa
qua. Những nhân tố thuận lợi trong quan hệ
thương mại hai nước như tính bổ sung lẫn nhau
về cơ cấu kinh tế, vị trí địa lý gần gũi thuận
tiện cho vận chuyển hàng hóa, sự đa dạng hóa
trong hình thức trao đổi thương mại đã được phát
huy hiệu quả và đem lại những lợi ích thiết thực
cho hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt đạt được thì Việt Nam cần chủ động
xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ thông
qua những lộ trình cụ thể để có thể đối phó với
Kinh tế & Chính sách
180 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 2-2016
những rủi ro do phụ thuộc quá nhiều vào Trung
Quốc. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc mà cụ
thể là hạn chế hoạt động nhập khẩu và sự phụ
thuộc vào Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Chỉnh, Nguyễn Phú Tụ, Nguyễn Hữu
Lộc: Giáo trình Kinh tế Quốc tế, Nxb. Giáo dục, 1998.
2. Dương Phú Hiệp và các tác giả: Toàn cầu hóa
kinh tế, Nxb. Khoa học Xã hội, 2001.
3. John H. Jackson: Hệ thống thương mại thế giới –
Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc tế, dịch
giả: Phạm Viêm Phương, Huỳnh Văn Thanh. Nxb.
Thanh Niên, 2001.
4. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld: Kinh tế học
quốc tế – Lý thuyết và chính sách, tập I (Những vấn đề
về thương mại quốc tế) – bản dịch. Nxb. Chính trị quốc
gia, 1996.
5. Tổng cục Hải quan. Niên giám thống kê về tình
hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Tổng cục Hải quan
qua các năm.
6. Trung tâm thông tin tư liệu, CIEM (2014). “Thực trạng
sự phụ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc”.
TRADE BETWEEN VIET NAM – CHINA
THE ACTUAL SITUATION AND SOLUTIONS
Bui Thi Minh Nguyet, Tran Van Hung, Le Thi Mai Huong
SUMMARY
The article reveals on the actual situation of Viet Nam and China trading on import and export branch and
commercialization. Based on secondary data which is collected from General Department of Vietnam Customs,
the article highlights the situation of import-export, goods between Viet Nam and China from 2005 to 2014
namely: the import and export turnovers of Viet Nam and China in 2005 - 2014, import-export value of Viet
Nam large markets; import condition from China. The result shows that trade of VietNam is too dependent on
China very much and the big problem is the excess of imports over exports from China increasingly grew.
Besides, the article gives data about problems for trade between VietNam and China nowadays. Hence, the
article offers some recommendations lessen to goods imported from China.
Keywords: China, problems, situation, trade, Viet Nam.
Người phản biện : PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấn
Ngày nhận bài : 17/12/2015
Ngày phản biện : 12/3/2016
Ngày quyết định đăng : 25/3/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuong_mai_viet_nam_trung_quoc_thuc_trang_va_giai_phap.pdf