Quốc tịch của thương nhân
Theo tiêu chí này, thương nhân được
chia thành thương nhân Việt Nam và thương
nhân nước ngoài. Thương nhân Việt Nam là
thương nhân được đăng ký thành lập theo
quốc tịch Việt Nam; theo đó, các chủ thể thoả
mãn các điều kiện cần và đủ để đăng ký kinh
doanh thì hoàn toàn có thể trở thành thương
nhân. Thương nhân nước ngoài là thương
nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc
được pháp luật nước ngoài công nhận29.
Theo quy định của khoản 2 Điều 16 Luật
Thương mại năm 2005, thương nhân nước
ngoài được đặt Văn phòng đại diện, Chi
nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
các hình thức do pháp luật Việt Nam quy
định. Bên canh đó, khi doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được thương nhân nước
ngoài thành lập tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên thì được coi là thương nhân Việt
Nam. Quy định này cũng phù hợp với bản
chất của thương nhân Việt Nam là được đăng
ký thành lập theo quy định của pháp luật.
Việc xác định thương nhân có quốc tịch Việt
Nam hay quốc tịch nước ngoài có ý nghĩa đối
với việc xác định luật áp dụng trong quan hệ
giữa các thương nhân, không những vậy nó
còn có “ý nghĩa trong việc xác định chế độ
đãi ngộ hay chế độ bảo hộ trong quan hệ
giữa nhà nước với thương nhân”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 13 (413) - T7/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm về thương nhân
Trong cuốn Business Law có viết, “Một
người được gọi là thương nhân khi người đó
hành động trong khả năng thương mại, sở
hữu hoặc sử dụng chuyên môn liên quan cụ
thể đến hàng hóa được bán”1. Thương nhân
trong trường hợp này được hiểu là người có
chuyên môn, hiểu biết nhất định về hoạt động
thương mại của mình. Cách tiếp cận này hoàn
toàn phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của mỗi
thương nhân bởi hoạt động thương mại luôn
gắn với yếu tố “lợi nhuận - rủi ro” nếu
thương nhân không có chuyên môn thì khó có
thể hành nghề cũng như tồn tại trên thương
trường. Cách tiếp cận của Luật Thương mại
Việt Nam cũng hướng đến yếu tố này khi mà
nhà làm luật quy định tính chất “thành lập
hợp pháp, hoạt động thường xuyên”. Cụ thể,
khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại quy
định2,“thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh”. Bên cạnh đó,
pháp luật doanh nghiệp cũng tồn tại khái niệm
“doanh nghiệp” có nội hàm gần giống với
khái niệm “thương nhân”. Theo đó, doanh
nghiệp “là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng
ký thành lập theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích kinh doanh”3. Cụm từ “chủ
THƯƠNG NHÂN THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
ThS. Lê Văn Tranh*
*Giảng viên, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Thương nhân, phân loại
thương nhân.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/05/2020
Biên tập : 28/05/2020
Duyệt bài : 08/06/2020
Article Infomation:
Key words: The merchant,
classification of merchant.
Article History:
Received : 18 May. 2020
Edited : 28 May. 2020
Approved : 08 Jun. 2020
Tóm tắt:
Sau hơn ba mươi năm đổi mới, tầng lớp “thương nhân” của Việt Nam
đã và đang khẳng định được vai trò của mình trong việc tạo công ăn
việc làm cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế, sự thịnh vượng của
quốc gia. Vì thế, việc ghi nhận chế định thương nhân trong pháp luật
thương mại là một sự ghi nhận hợp lý của Nhà nước đối với chủ thể
này. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày về nhận
diện thương nhân ở ba góc độ: i) khái niệm, ii) đặc điểm, iii) phân
loại về thương nhân theo pháp luật hiện hành.
Abstract:
After more than thirty years of reform, the “merchant” of Vietnam
has been asserting its role in job generation as well as economics
development and nation prosperity. Therefore, the recognition of the
institution of merchant in the commercial law is a reasonable
recognition of the State to this subject. Within the scope of this article,
the author focuses on discussions on identification of merchant in
three aspects: i) definition, ii) characteristics, iii) classification of
merchant under current law.
1 Nguyên văn “A person is a merchant when she or he acting in a mercantile capacity, possesses or uses an
expertise specifically related to the goods being sold”. Xem thêm: Clarkson. Miller. Cross, Business law –
Text and cases (thirteenth Edition), p.380.
2 Luật Thương mại năm 2005.
3 Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, có hiệu lực thi hành 01/01/2021.
51Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thể kinh doanh” không được luật hoá nhưng
cũng được sử dụng trong một số giáo trình và
được hiểu là “những tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động kinh doanh mang tính nghề
nghiệp, hoạt động dưới một hình thức pháp
lý nhất định theo quy định của pháp luật”4.
Trên thực tế, cụm từ này được sử dụng khá
phổ biến với nội hàm bao gồm tất cả các tổ
chức, cá nhân kinh doanh trên thị trường.
“Thương nhân”, “doanh nghiệp” hoặc
“chủ thể kinh doanh” đều là những thuật ngữ
chỉ các chủ thể thực hiện hoạt động kinh
doanh, thương mại nhằm mục đích sinh lợi.
Trong đó, khái niệm “chủ thể kinh doanh”
được xem là khái niệm có nội hàm rộng nhất,
nó bao hàm cả “thương nhân” và “doanh
nghiệp”. Thực tế còn có nhiều tên gọi khác
như thương gia5, doanh nhân6, nhà buôn
nhưng tựu chung lại thì các thuật ngữ này đều
chỉ một chủ thể tiến hành hoạt động kinh
doanh, thương mại nhằm mục đích sinh lợi7
và lấy đó làm nghề nghiệp chính của mình
trên cơ sở kết hợp các nguồn lực và thế mạnh
khác nhau của mỗi thương nhân.
Mở rộng quy định liên quan đến đại vị
pháp lý của thương nhân, chúng ta thấy Hiến
pháp8 năm 1992 ghi nhận quyền tự do kinh
doanh của công dân; theo đó, công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Đến Hiến pháp năm 2013 thì
quyền tự do kinh doanh được mở rộng theo
nguyên tắc “mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm”9. Quy định này cho thấy, tự
do kinh doanh được mở rộng theo hướng
“được kinh doanh những gì mà pháp luật
cho phép” sang “được kinh doanh những gì
mà pháp luật không cấm”. Cùng với việc
ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến
pháp, Luật Thương mại năm 1997, Luật
Thương mại năm 2005 đã xây dựng một chế
định thương nhân với các quy định về quyền
và nghĩa vụ của thương nhân. Cụ thể, khoản
6 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 quy
định,“Thương nhân bao gồm cá nhân, pháp
nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký
hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên”. Luật Thương mại năm 2005
thay đổi định nghĩa về thương nhân theo
hướng “rút gọn” khi liệt kê ít chủ thể hơn
so với Luật Thương mại năm 1997 nhưng
vẫn giữ nguyên thuộc tính cơ bản của
thương nhân. Theo đó, thương nhân chỉ bao
gồm hai nhóm “tổ chức kinh tế” và “cá
nhân” hoạt động thương mại một cách độc
lập thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh10, các chủ thể được công nhận là
thương nhân khi đáp ứng yếu tố có đăng ký
kinh doanh” và “hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên”. Tại đây, tư
cách thương nhân được xác lập bước đầu
thông qua thủ tục “đăng ký” với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (ở công đoạn này chủ
thể không cần phải chứng minh rằng mình
đã, đang hoặc sẽ hoạt động thương mại đối
với cơ quan đăng ký kinh doanh). Quy định
về “đăng ký kinh doanh” này được xem là
bước “khai sinh” ra chủ thể thương nhân, và
theo lẽ đó, những chủ thể không tiến hành
đăng ký với cơ quan có thẩm quyền thì sẽ
không được gọi là “thương nhân”.
Quy định “thương nhân là tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp...” có những
điểm không rõ ràng khi cụm từ “tổ chức kinh
tế” không được luật giải thích và có độ vênh
nhất định khi đối chiếu với cụm từ “tổ chức”
4 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, tr.16.
5 Thương gia là thuật ngữ được sử dụng nhiều lần (chính) trong Bộ luật Thương mại Việt Nam cộng hoà năm 1972.
6 Hiện nay, doanh nhân là thuật ngữ được sử dụng, tuyên dương trong ngày truyền thống (13/10 hàng năm)
của những người hoạt động kinh doanh, thương mại. Tuy vậy, xét trên tính tổng quát thì quy định “ngày
thương nhân” sẽ hợp lý và thuyết phục hơn.
7 Không chỉ hướng đến lợi ích vật chất thuần tuý mà còn bao gồm cả yếu tố phi vật chất (uy tín, hình ảnh,
thương hiệu).
8 Tính đến nay đã có năm bản Hiến pháp Việt Nam qua các năm: 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.
9 Điều 33 Hiến pháp năm 2013.
10 Xem thêm: khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005.
trong pháp luật doanh nghiệp và đầu tư. Hoặc,
quy định “được thành lập hợp pháp có
đăng ký kinh doanh” trong điều luật là có sự
trùng lặp. Bên cạnh đó, quy định thương nhân
phải hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên nhưng luật lại không quy định
thế nào là hoạt động thương mại độc lập và
thường xuyên. Hoặc có thể thấy, khái niệm
thương nhân với nhiều tiêu chí như pháp luật
hiện hành là không cần thiết, chưa rõ ràng có
thể làm hạn chế quyền kinh doanh của một số
tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại. Chế
định thương nhân được một số nước trên thế
giới quy định đều dựa trên những tiêu chí đơn
giản, đi sâu vào bản chất khái niệm. Ví dụ
Luật thương mại Cộng hòa Pháp quy định
thương nhân là người thực hiện những hành
vi thương mại và có là nghề thường xuyên
của họ. Theo pháp luật Hoa Kỳ, khái niệm
“thương nhân (thương gia)” được định nghĩa
trong Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ (Uniform
Commercial Code -1990). Theo Luật này, có
3 loại hình thương nhân chủ yếu là cá nhân
kinh doanh (sole propration), công ty đối
nhân (partnership) và công ty đối vốn
(corporation). Ngoài ra, chế định thương nhân
một số nước còn quy định thương nhân phải
thực hiện các hành vi thương mại nhân danh
mình và lợi ích của chính mình. Vì vậy, trong
pháp luật các nước thường xác định điều kiện
trở thành thương nhân dựa trên yếu tố cơ bản
nhất là thực hiện hoạt động thương mại.
Thông lệ này có thể là một tham khảo cho
Luật Thương mại Việt Nam khi sửa đổi có thể
tiếp cận theo hướng này.Љ
2. Đặc điểm của thương nhân
Thứ nhất, các chủ thể có thể trở thành
thương nhân gồm 2 nhóm là cá nhân và tổ
chức kinh tế. Việc xác định cá nhân là ai phải
căn cứ theo pháp luật dân sự; theo đó, cá
nhân với tư cách là chủ thể pháp luật dân sự
kể từ lúc sinh ra và chấm dứt sự tồn tại khi
chết. Đây là con người cụ thể có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện
các hoạt động thương mại, đồng thời tự mình
gánh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về hoạt động thương mại đó. Theo
quy định chung, thương nhân là cá nhân phải
từ đủ mười tám tuổi trở lên và không thuộc
các trường hợp pháp luật cấm kinh doanh. Ở
đây, cá nhân khác biệt với “công dân” bởi
lẽ, “công dân” là người có quốc tịch của
một hoặc một số quốc gia hoặc vùng lãnh
thổ có chủ quyền. Vì thế, theo pháp luật Việt
Nam thì cá nhân có thể trở thành thương
nhân không chỉ là công dân Việt Nam mà
còn có thể là công dân nước ngoài, thậm chí
cả người không có quốc tịch11.
Tổ chức kinh xét về bản chất là tổ chức
được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật, đó có thể là doanh nghiệp, hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức
khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh.
Ngoài ra, với chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam hiện nay thì tổ chức kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài (tổ chức kinh tế
có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc
cổ đông) đóng vai trò quan trọng. Tổ chức
kinh tế là chủ thể nhân tạo, được lập dựa trên
các quy định của pháp luật mà mục đích
thành lập để tiến hành các hoạt động kinh
doanh, thương mại với khách thể là “nhằm
mục đích sinh lợi”. Đối với tổ chức khác như
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị,
hiệp hội không thuộc phạm trù “tổ chức kinh
tế”, vì thế sẽ không có tư cách thương nhân.
Có thể nói, quy định về thương nhân
theo dạng liệt kê các nhóm (chủ thể) của
quan hệ thương mại theo cách mà pháp luật
thương mại Việt Nam đang sử dụng cũng
phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ, theo cơ
sở dữ liệu pháp luật trực tuyến West Law thì
thương nhân bao gồm:
“1. Thương nhân; nhà bán lẻ; người
mua hàng hóa để bán nhằm mục đích lợi
nhuận.
2. Người bán hàng hóa chủ yếu theo
hình thức mà họ được mua; người đã không
Số 13 (413) - T7/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
11 Về nguyên tắc, để trở thành thương nhân thì cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc
trường hợp cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Đối với cá nhân
nước ngoài và người không có quốc tịch muốn trở thành thương nhân Việt Nam cũng phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ theo pháp luật Việt Nam. Một số tài liệu có nêu thương nhân là cá nhân cũng đồng nghĩa
với thương nhân là thể nhân. Tuy vậy, pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “thể nhân” vì thế bài
viết không đi sâu phân tích về vấn đề này.
53Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
chuyển đổi hàng hóa thành một dạng tài sản
khác bằng kỹ năng và lao động.
3. Người mà với tư cách là thành viên
của một sàn giao dịch chứng khoán mua và
bán chứng khoán trên sàn giao dịch hoặc
cho các nhà môi giới hoặc trên tài khoản
của chính họ.
4. Người mua và bán hàng hóa và hàng
hóa tương lai cho người khác hoặc cho
chính mình để đón đầu lợi nhuận đầu cơ”12.
Thứ hai, để trở thành thương nhân thì
các chủ thể phải đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật. Về nguyên tắc, pháp luật
Việt Nam không trực tiếp quy định về thành
lập thương nhân, mà thương nhân chỉ được
thành lập thông qua thủ tục gián tiếp. Theo
đó, tổ chức và cá nhân kinh doanh có những
quy định khác nhau để xác lập tư cách
thương nhân. Đối với thương nhân là tổ
chức kinh tế (thành lập doanh nghiệp) thì
đăng ký tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc
Sở Kế hoạch và Đầu tư. Việc thành lập
doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh
nghiệp là quyền của nhà đầu tư, song để
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, nhà đầu tư phải thỏa mãn những điều
kiện nhất định. Đối với thương nhân là cá
nhân (hộ kinh doanh) thì đăng ký tại Phòng
đăng ký kinh doanh cấp huyện. Hộ kinh
doanh13 do một cá nhân hoặc một nhóm
người gồm các cá nhân là công dân Việt
Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ
được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh. Như vậy, có thể thấy
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
đăng ký hộ kinh doanh là văn bản khai sinh
ra chủ thể pháp luật mới là thương nhân.
Thứ ba, thương nhân phải thực hiện hoạt
động thương mại14 với tư cách là một nghề
nghiệp. Hoạt động thương mại với thương
nhân là mối quan hệ gắn bó không thể tách
rời bởi không thể gọi là thương nhân khi mà
chủ thể đó không thực hiện hoạt động thương
mại, thực hiện hoạt động thương mại được
xem là thuộc tính cơ bản của thương nhân.
Hoạt động thương mại “là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”15. Hoạt động thương mại luôn
chịu ảnh hưởng tác động bởi các yếu tố kinh
tế, chính trị, xã hội, vì thế chúng luôn ở trạng
thái động theo bối cảnh xã hội. Không chỉ
vậy, các cá nhân, tổ chức kinh tế được xem
là thương nhân chỉ khi tiến hành hoạt động
thương mại một cách độc lập, điều này có
nghĩa là các chủ thể này phải tham gia vào
hoạt động thương mại với tư cách là một chủ
thể pháp luật độc lập16. Theo đó, sự phụ thuộc
về mặt tài chính, kinh tế của các chủ thể
không làm mất đi tính độc lập về mặt pháp
lý của nó. Vì vậy, các công ty con hay công
ty liên kết trong nhóm công ty là các chủ thể
pháp luật độc lập với công ty mẹ và đều là
thương nhân theo pháp luật thương mại17.
Bên cạnh đó, cần ghi nhận rằng, hoạt
động thương mại của thương nhân phải liên
tiếp, liên tục mang tính nghề nghiệp và theo
logic đó đây sẽ là nơi tạo ra nguồn thu nhập
chính, thường xuyên cho thương nhân.
Thương nhân phải thực hiện hành vi thương
12 Nguyên văn “trader (16c) 1. A merchant; a retailer; one who buys goods to sell them at a profit. 2. Someone
who sells goods substantially in the form in which they are bought; one who has not converted them into
another form of property by skill and labor. 3. Someone who, as a member of a stock exchange, buys and
sells securities on the exchange floor either for brokers or on his or her own account. 4. Someone who
buys and sells commodities and commodity futures for others or for his or her own account in anticipation
of a speculative profit. Nguồn: Westlaw. © 2019 Thomson Reuters. No Claim to Orig. U.S. Govt. Works.
13 Thuật ngữ “hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng tại các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam từ năm
2006. Có thể nói, hộ kinh doanh là khái niệm mang tính đặc thù riêng của Việt Nam.
14 Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng chỉ những hoạt động liên quan, phụ trợ cho nghề nghiệp của thương nhân
mới có thể xem đó là hoạt động thương mại.
15 Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005.
16 Đặc điểm này cho phép loại trừ Văn phòng đại diện, Chi nhánh khỏi khái niệm thương nhân bởi xét về
bản chất chúng chỉ là các đơn vị phụ thuộc của thương nhân.
17 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Hồng Đức, tr.12.
Số 13 (413) - T7/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
mại một cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi
ích của bản thân mình và tự chịu trách nhiệm
về hành vi thương mại của mình18. Tuy vậy,
tiêu chí này chưa đủ để tạo thành tư cách
thương nhân, bởi các chủ thể hàng ngày thực
hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động
đ ược pháp luật cho phép về mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác như ng không
thuộc đối t ượng phải đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh
doanh thì sẽ không gọi là th ương nhân theo
quy định của Luật Thương mại19.
Đối với tổ chức kinh tế thì tính thường
xuyên đã bao hàm trong mục đích thành lập,
yêu cầu về tính thường xuyên dẫn đến hệ
quả pháp lý nếu thương nhân có ý định tạm
ngừng hoạt động trong một khoảng thời gian
vượt quá một giới hạn nào đó thì phải thông
báo với các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền về việc tạm ngừng hoạt động
đó20. Ví dụ, đối với hộ kinh doanh trong
trường hợp tạm ngừng kinh doanh từ 30
ngày trở lên thì hộ kinh doanh phải thông
báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp
huyện nơi đã đăng ký kinh doanh và cơ quan
thuế trực tiếp quản lý (thời gian tạm ngừng
kinh doanh không được quá 01 năm). Hoặc
đối với doanh nghiệp, khi tạm ngừng kinh
doanh, doanh nghiệp phải gửi Thông báo
tạm ngừng kinh doanh đến Phòng Đăng ký
kinh doanh nơi chi nhánh, văn phòng đại
diện, địa điểm kinh doanh đã đăng ký, chậm
nhất 15 ngày trước khi tạm ngừng kinh
doanh (thời hạn tạm ngừng kinh doanh cũng
không được quá một năm). Sau khi hết thời
hạn đã thông báo, nếu doanh nghiệp, chi
nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh
doanh vẫn tiếp tục tạm ngừng kinh doanh thì
phải thông báo tiếp cho Phòng Đăng ký kinh
doanh. Tổng thời gian tạm ngừng kinh
doanh liên tiếp không được quá hai năm21.
3. Phân loại thương nhân
Luật Thương mại năm 2005 của Việt
Nam không phân loại thương nhân, vì thế
việc phân loại chỉ mang tính chất tham
khảo2. Theo đó, việc phân loại thương nhân
được dựa theo những đặc tính sau: i) Tư
cách pháp nhân; ii) Hình thức tổ chức; iii)
Chế độ trách nhiệm tài sản; iv) Quốc tịch
của thương nhân.
3.1. Tư cách pháp nhân
Dựa vào căn cứ tư cách pháp nhân, có
thể phân loại thương nhân thành thương
nhân có tư cách pháp nhân và thương nhân
không có tư cách pháp nhân. Theo pháp luật
Việt Nam, để được công nhận là pháp nhân
thì một tổ chức cần có đủ những điều kiện
cơ bản như được thành lập hợp pháp, có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và tự
chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản của
mình và phải nhân danh mình tham gia vào
các quan hệ pháp luật. Với tiêu chí phân chia
này, thương nhân có tư cách pháp nhân bao
gồm các loại công ty được quy định tại Luật
Doanh nghiệp năm 2020 là công ty TNHH
hai thành viên trở lên, công ty TNHH một
thành viên, công ty cổ phần và công ty hợp
danh. Thương nhân có tư cách pháp nhân
được xem là pháp nhân thương mại bởi suy
cho cùng pháp nhân này có mục tiêu chính
là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia
cho các thành viên23 hoặc thuộc về nhà đầu
18 Theo đó, những người làm công ăn lương như người quản lý điều hành một chi nhánh hay một cửa hàng
thương mại thì không được coi là một thương nhân vì họ thực hiện những hành vi thương mại vì lợi ích
của nhà đầu tư.
19 Xem thêm: Nghị định số 39/2007/NĐ-CP về hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên.
20 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Hồng Đức, tr.17.
21 Xem thêm: Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
22 Thương nhân là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau khi được đề cập, như thương nhân có phải là doanh
nghiệp, doanh nghiệp có phải là thương nhân hoặc đăng ký thương nhân ở đâu, thành lập thương nhân
như thế nào? Hoặc về mặt pháp lý đã thừa nhận thương nhân trong văn bản luật mà trong thực tế lại là một
cụm từ khác như doanh nhân, tiểu thương, lái buôn, thương gia, hoặc có nên ban hành một đạo luật về
thương nhân, v.v..
23 Xem thêm: Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015.
55Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tư. Thương nhân không có tư cách pháp
nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân và hộ
kinh doanh24. Trong đó, doanh nghiệp tư
nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc
một nhóm người gồm các cá nhân là công
dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm
chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
đối với hoạt động kinh doanh25. Mặc dù
không có tư cách pháp nhân nhưng doanh
nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh vẫn là các
chủ thể pháp luật độc lập, điều này có nghĩa
là việc chủ doanh nghiệp tư nhân hay chủ hộ
kinh doanh chết sẽ không lập tức và không
tự động dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp tư nhân hay hộ kinh doanh đó.
3.2. Hình thức tổ chức
Dựa vào căn cứ này, có thể chia thương
nhân thành thương nhân là doanh nghiệp và
thương nhân không phải là doanh nghiệp.
Thương nhân là doanh nghiệp gồm các loại
hình công ty và doanh nghiệp tư nhân theo
pháp luật doanh nghiệp. Hoặc trên thực tế
dựa vào lĩnh vực hoạt động của doanh
nghiệp có thể chia ra thành doanh nghiệp
nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp,
doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ. Căn cứ vào quy mô về
vốn, lao động và sản phẩm có thể chia thành
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và
doanh nghiệp lớn. Về bản chất, việc lựa chọn
loại hình doanh nghiệp cụ thể nào phụ thuộc
vào nhiều nhân tố, cả phía chủ doanh nghiệp
và môi trường. Còn thương nhân không phải
là doanh nghiệp gồm hộ kinh doanh, hợp tác
xã và liên hiệp hợp tác xã.
Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam không
xem hộ kinh doanh là doanh nghiệp, có thể
do tính chất “quy mô kinh tế nhỏ” của nó
nhưng không vì thế mà tư cách thương nhân
của nó bị phủ nhận. Bên cạnh đó, pháp luật
hiện hành cũng không xem hợp tác xã là một
loại hình doanh nghiệp mà là “tổ chức kinh
tế tập thể” và “hoạt động như một loại hình
doanh nghiệp”26. Trong khi đó, liên hiệp hợp
tác xã là tổ chức kinh tế mà thành viên của nó
là các hợp tác xã và hoạt động theo nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Điều
3 Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định:
“1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể,
đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít
nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và
hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp
ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ
sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và
dân chủ trong quản lý hợp tác xã.
2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh
tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện
thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm
đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp
hợp tác xã”.
Như vậy, theo pháp luật thương mại thì
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đều là
thương nhân vì chúng có đầy đủ các đặc
điểm của thương nhân theo quy định của
pháp luật thương mại thực định. Cũng cần
nói thêm, pháp luật thương mại ở nhiều quốc
gia trên thế giới chỉ thừa nhận thương nhân
là thể nhân (cá nhân) và pháp nhân27 chứ
24 Tuy vậy, nếu xét một cách triết tự thì “hộ kinh doanh có phải là thương nhân hay không cũng là câu hỏi
khó trả lời”. Xem thêm: Bùi Xuân Hải, Những hạn chế, bất cập về đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh và
vấn đề hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp, nguồn tại
xemchitietbaibao?oid=0b4e92d2-f2c9-41ae-8240-8b3e75ec2a53. Truy cập: 20/7/2020.
25 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
26 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Hồng Đức, tr.22.
27 Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), sđd, Tập I, Nxb. Công an nhân dân, tr.59.
Số 13 (413) - T7/202056
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
không tồn tại thuật ngữ hợp tác xã hay hộ
kinh doanh như ở Việt Nam cho dù việc định
danh, gọi tên là thương nhân của chủ thể này
mang nhiều tính suy luận dựa trên quy định
gián tiếp.
3.3. Chế độ trách nhiệm tài sản
Thương nhân chịu trách nhiệm tài sản
hữu hạn bao gồm Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty cổ phần, Hợp tác xã và Liên
hiệp hợp tác xã. Trách nhiệm hữu
hạn (limited liability) trong trường hợp này
được hiểu là trách nhiệm của thương nhân
trong phạm vi vốn đã góp, cam kết góp.
Theo đó, các thành viên, cổ đông hay xã viên
chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ
và nghĩa vụ tài chính khác của công ty hay
hợp tác xã trong phạm vi số vốn đã góp hoặc
cam kết góp vào công ty hay hợp tác xã mà
thôi. Nói cách khác, chế độ trách nhiệm tài
sản hữu hạn của thương nhân có nghĩa là,
thương nhân chỉ chịu trách nhiệm tài sản
bằng tài sản của chính mình bao gồm tài sản
do thành viên, cổ đông, xã viên góp vốn và
các tài sản hợp pháp khác tạo lập được trong
quá trình hoạt động thuộc sở hữu của mình28.
Thương nhân chịu trách nhiệm tài sản
vô hạn bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hộ
kinh doanh và công ty hợp danh. Trách
nhiệm vô hạn (infinite responsibility) trong
trường hợp này được hiểu là trách nhiệm của
thương nhân đối với tài sản; theo đó, thương
nhân bắt buộc phải chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh,
thương mại bằng toàn bộ tài sản. Đối với
doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp
“tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình đối với mọi hoạt động của doanh
nghiệp”. Đối với cá nhân hộ gia đình là các
chủ sở hữu của hộ kinh doanh cũng chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của họ đối
với mọi hoạt động của hộ kinh doanh. Đối
với công ty hợp danh thì thành viên hợp
danh phải liên đới chịu trách nhiệm thanh
toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản
của công ty không đủ để trả số nợ của công
ty. Trong trường hợp công ty hợp danh có
thêm thành viên góp vốn thì các thành viên
góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn.
3.4. Quốc tịch của thương nhân
Theo tiêu chí này, thương nhân được
chia thành thương nhân Việt Nam và thương
nhân nước ngoài. Thương nhân Việt Nam là
thương nhân được đăng ký thành lập theo
quốc tịch Việt Nam; theo đó, các chủ thể thoả
mãn các điều kiện cần và đủ để đăng ký kinh
doanh thì hoàn toàn có thể trở thành thương
nhân. Thương nhân nước ngoài là thương
nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc
được pháp luật nước ngoài công nhận29.
Theo quy định của khoản 2 Điều 16 Luật
Thương mại năm 2005, thương nhân nước
ngoài được đặt Văn phòng đại diện, Chi
nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
các hình thức do pháp luật Việt Nam quy
định. Bên canh đó, khi doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được thương nhân nước
ngoài thành lập tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên thì được coi là thương nhân Việt
Nam. Quy định này cũng phù hợp với bản
chất của thương nhân Việt Nam là được đăng
ký thành lập theo quy định của pháp luật.
Việc xác định thương nhân có quốc tịch Việt
Nam hay quốc tịch nước ngoài có ý nghĩa đối
với việc xác định luật áp dụng trong quan hệ
giữa các thương nhân, không những vậy nó
còn có “ý nghĩa trong việc xác định chế độ
đãi ngộ hay chế độ bảo hộ trong quan hệ
giữa nhà nước với thương nhân”30.
(Xem tiếp trang 64)
28 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Hồng Đức, tr.23.
29 Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại năm 2005.
30 Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Hồng Đức, tr.29.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuong_nhan_theo_phap_luat_thuong_mai_viet_nam.pdf