Tỉ lệ các loại bướu xương hàm ở trẻ em và các yếu tố dịch tễ liên quan

Đa số bướu mạch máu xương hàm phát hiện ở trẻ 6-12 tuổi (50%) và 13-18 tuổi (38%), trung bình 12,25 tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đẩu trên 16 ca bướu mạch máu xương hàm xác nhận độ tuổi trung bình 9,8 tuổi(13). Theo Regezi, bướu mạch máu xương hàm thường gặp nhất từ 10-20 tuổi(16). Bệnh mô bào Langerhans và limphôm xảy ra sớm nhất, trung bình 4,25 tuổi. Theo y văn, bệnh mô bào Langerhans gồm có: (1) u hạt ái toan (dạng khu trú mạn tính) có tổn thương ở một hay nhiều xương, chủ yếu ở trẻ lớn và người trẻ, (2) bệnh Hand-Schüller-Christian (dạng lan tỏa mạn tính) có tổn thương ở nhiều cơ quan, xương, hạch, ở trẻ dưới 10 tuổi, và (3) bệnh Letterer-Swive (dạng lan tỏa cấp tính) tổn thương nhiều cơ quan, tủy xương, hạch, da, chỉ gặp ở trẻ dưới 3 tuổi(17). Trong 4 trường hợp bệnh, có 1 bé gái 1 tuổi nghi ngờ bệnh HandSchüller-Christian do có tam chứng gồm tổn thương nhiều xương sọ-mặt, lồi mắt, đái tháo nhạt, ngoài ra có kèm theo thiểu sản thùy sau tuyến yên. Sarcôm xương (sarcôm sinh xương) là bướu ác nguyên phát phổ biến nhất ở xương, thường xảy ra ở những xương dài như xương đùi, ít gặp ở vùng đầu cổ. Nghiên cứu này chỉ gặp 1 trường hợp sarcôm xương ở xương hàm trẻn của bé gái 5 tuổi. Sapp và c.s. cho rằng sarcôm xương ở xương hàm có đỉnh cao 33 tuổi, tức muộn hơn 10 tuổi so với đỉnh cao 24 tuổi của sarcôm ở xương dài(19).

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ các loại bướu xương hàm ở trẻ em và các yếu tố dịch tễ liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 144 TỈ LỆ CÁC LOẠI BƯỚU XƯƠNG HÀM Ở TRẺ EM VÀ CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ LIÊN QUAN Nguyễn Lê Hữu Khoa*, Nguyễn Thị Hồng** TÓM TẮT Mục tiêu: Bướu xương hàm ở trẻ em có những đặc điểm khác với người lớn, thường gây khó khăn trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng. Nghiên cứu này thực hiện nhằm xác định tỉ lệ các loại bướu xương hàm ở trẻ em và một số yếu tố dịch tễ liên quan với bệnh lý này. Phương pháp: Hồi cứu mô tả đa trung tâm. Đối tượng là các bệnh nhân ≤ 18 tuổi điều trị bướu xương hàm tại 4 bệnh viện ở TP.HCM: Bệnh viện Nhi Đồng I, Bệnh viện RHM Trung Ương TP.HCM, Bệnh viện RHM TP.HCM và Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM, từ năm 2010 đến 2012. Kết quả: Trong tổng số 124 bệnh nhân, có 56% bướu do răng lành tính, 38% bướu không do răng lành tính và 6% bướu không do răng ác tính. Tỉ lệ bướu lành:bướu ác là 16,7:1; tỉ lệ bướu do răng:bướu không do răng là 1,25:1. Bướu lành tính thường gặp nhất là bướu nguyên bào men (19%) và u răng (17%), bướu ác tính thường gặp nhất là limphôm (5%). Tuổi trung bình của bệnh nhân là 12,7 tuổi, khác nhau tùy theo loại bướu (p < 0,05). Tỉ lệ bướu xương hàm tăng dần theo tuổi (p < 0,05). Trẻ dưới 6 tuổi đa số có bướu không do răng (85%), và có tỉ lệ bướu ác (31%) cao hơn trẻ trên 6 tuổi (3%) (p < 0,01). Bướu xảy ra ở nam (58%) nhiều hơn nữ (42%), với tỉ lệ nam:nữ là 1,38:1. Một số bướu thường gặp ở trẻ nam (bướu nguyên bào men, bướu biểu mô do răng canxi hóa, bướu xương, bướu sừng dạng nang do răng, bướu sợi hóa xương, loạn sản sợi, limphôm); trong khi một số loại khác hay gặp ở trẻ nữ hơn (bướu dạng tuyến do răng, bướu nhầy do răng, bướu mạch máu, u hạt tế bào khổng lồ trung tâm, u răng). Kết luận: Bướu xương hàm tương đối phổ biến ở trẻ em nước ta. Các yếu tố dịch tễ đa dạng, có liên quan mật thiết đến các loại bướu ở xương hàm. Do đó, khi thiết lập chẩn đoán và xử trí, bác sĩ cần phải chú trọng đến những yếu tố này. Từ khóa: Bướu xương hàm, trẻ em, do răng, không do răng, lành tính, ác tính. ABSTRACT FREQUENCY OF JAW TUMORS IN VIETNAMESE CHILDREN AND THE RELATED EPIDEMIOLOGICAL FACTORS Nguyen Le Huu Khoa, Nguyen Thi Hong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 144 - 151 Objectives: Jaw tumors in children have different from in alduts and often causes difficulties in diagnosis, treatment and prognosis. This study was carried out to determine the frequency of jaw tumors in children and the related epidemiological factors. Patients and methods: A retrospective multicentric study was conducted on patients under 18 years old with jaw tumors treated in 4 hospitals in Ho Chi Minh city, including Children's Hospital I, National Hospital of Odonto-Stomatology, HCM city Hospital of Odonto-Stomatology and Oncology Hospital, from 2010 to 2012. Results: Among a total of 124 trường hợpses of jaw tumors, there were 56% benign odontogenic, 38% * Học viên Cao học 2011-2013- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM ** Bộ môn Bệnh Học Miệng- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS.Nguyễn Lê Hữu Khoa ĐT: 090 910 4527 Email: drkhoanguyen166@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 145 benign non-odontogenic and 6% malignant non-odontogenic. Benign-to-malignant ratio was 16.7, and odontogenic-to-non-odontogenic ratio was 1.25:1. Ameloblastoma (19%) and odontoma (17%) were the most common benign tumors, and lymphoma (5%) was the most common malignant tumors. The mean age of patients was 12.7 years, significantly different between tumor types (p < 0.05). The frequency of jaw tumors increased with age (p < 0.05). Almost children aged under 6 years had non-odontogenic tumors (85%), with the frequency of malignant tumors (31%) significantly higher than children aged over 6 years (3%) (p < 0.01). Jaw tumors were found in males (58%) than in females (42%), with the ratio of male:female being 1.38:1. Some tumors were more common in males (ameloblastoma, keratocyst odontogenic tumor, calcifying epithelial odontogenic tumor, ossifying fibroma, fibrous dysplasia, osteoma, lymphoma), while others were common in females (adenomatoid odontogenic tumor, odontogenic myxoma, hemangioma, central giant cell granuloma, odontoma). Conclusions: Jaw tumors are relatively common in children in Vietnam. Tumor types exhibit variable epidemiological features. Diagnosis and management of these tumors should therefore be guided by their features. Key words: Jaw tumors, children, odontogenic, non-odontogenic, benign, malignant. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở trẻ em, bướu xương hàm chỉ chiếm 3-5% các bướu vùng đầu cổ(15). Tuy nhiên, đây là nhóm bệnh lý đa dạng và phức tạp về mặt bệnh sinh, lâm sàng, X quang, giải phẫu bệnh, cũng như cách thức điều trị. Các đặc điểm bệnh học và điều trị bướu xương hàm ở trẻ em có thể khác so với người lớn. Đến nay đã có một số nghiên cứu trong nước về bướu xương hàm, tập trung vào một vài loại bướu thường gặp như bướu nguyên bào men(11,14), nhưng chưa có nghiên cứu riêng về bướu xương hàm ở trẻ em. Chính điều này đã thôi thúc chúng tôi thực hiện nghiên cứu bướu xương hàm ở trẻ em, với mong muốn giúp bác sĩ lâm sàng có thêm thông tin khoa học về đặc điểm của các loại bướu này để phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị hiệu quả. Nghiên cứu này nhằm các mục tiêu sau: 1. Xác định tỉ lệ các loại bướu xương hàm, do răng và không do răng, lành tính và ác tính ở trẻ em. 2. Xác định một số đặc điểm dịch tễ về tuổi, giới tính, yếu tố nguy cơ của bướu xương hàm ở trẻ em. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân ≤ 18 tuổi đến khám và điều trị bướu xương hàm tại 4 bệnh viện tuyến trên ở TP.HCM có điều trị bướu xương hàm gồm Bệnh viện Nhi Đồng I, Bệnh viện RHM Trung Ương TP.HCM, Bệnh viện RHM TP.HCM và Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM, từ 01/01/2010 đến 31/12/2012. Tiêu chí chọn mẫu ≤ 18 tuổi Có chẩn đoán lâm sàng và giải phẫu bệnh xác định bướu ở xương hàm. Chưa điều trị đặc hiệu. Tiêu chí loại trừ Nang xương hàm. Chẩn đoán lâm sàng bướu xương hàm nhưng không có giải phẫu bệnh hoặc kết quả giải phẫu không phải là bướu. Bướu xương hàm tái phát. Bướu nơi khác tiến triển xâm lấn hay di căn đến xương hàm. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu mô tả, đa trung tâm. Các bước thực hiện (1). Ghi nhận các dữ liệu dịch tễ, lâm sàng từ hồ sơ bệnh án (2). Chẩn đoán loại bướu: căn cứ vào kết quả giải phẫu bệnh. Xếp loại bướu lành hay ác, bướu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 146 do răng hay không do răng dựa theo Phân loại bướu xương hàm của Tổ chức Sức khỏe thế giới (WHO) năm 2005(5), và theo Phân loại quốc tế về ung thư trẻ em ICCC của Hiệp hội quốc tế phòng chống ung thư (UICC) năm 1996(10). (3). Nhập và phân tích dữ liệu bằng phần mềm Excel và SPSS 20.0. Dùng kiểm định χ² nếu vọng trị > 5 và kiểm định chính xác Fisher nếu vọng trị ≤ 5 để so sánh các tỉ lệ %. Dùng kiểm định ANOVA (nếu phân phối chuẩn) hoặc kiểm định Kruskal-Wallis (nếu phân phối không chuẩn) để so sánh các giá trị trung bình. Liên quan có ý nghĩa khi p < 0,05. KẾT QUẢ Tỉ lệ bướu xương hàm ở trẻ em Trong thời gian ba năm, tổng hợp các số liệu tại bốn bệnh viện đầu ngành Ung Bướu và Răng Hàm Mặt ở TP.HCM, chúng tôi chọn được tất cả 124 hồ sơ đạt tiêu chuẩn nghiên cứu, gồm 34 ca (27%) năm 2010, 41 ca (33%) năm 2011, và 49 ca (40%) năm 2012. Trong số này, có 117 ca (94%) bướu lành và 7 ca (6%) bướu ác, với tỉ lệ bướu lành:bướu ác là 16,7:1. Tổng cộng có 69 ca (56%) bướu do răng và 55 ca (44%) bướu không do răng, tỉ lệ bướu do răng: bướu không do răng là 1,25;1. Cụ thể ở trẻ em, thường gặp nhất bướu do răng lành tính (56%), kế tiếp là bướu không do răng lành tính (38%) và bướu không do răng ác tính (6%), không gặp bướu do răng ác tính. Kết quả giải phẫu bệnh xác định bướu nguyên bào men thường gặp nhất (19%) (Bảng 1). Bảng 1: Tỉ lệ các loại bướu xương hàm ở trẻ em Bướu xương hàm trẻ em Số ca Tỉ lệ % Tổng Số ca (%) Bướu răng lành tính Bướu nguyên bào men 24 19,4 69 (55,6) U răng 21 16,9 Bướu sừng dạng nang do răng 12 9,7 Bướu biểu mô do răng canxi hóa 4 3,2 Bướu dạng tuyến do răng 3 2,4 Bướu nhầy do răng 3 2,4 Bướu gai do răng 1 0,8 Bướu xương hàm trẻ em Số ca Tỉ lệ % Tổng Số ca (%) Bướu sợi-nguyên bào men 1 0,8 Bướu không do răng lành tính Loạn sản sợi 16 12,9 48 (38,8) Bướu sợi hóa xương 8 6,5 Bướu xương 8 6,5 Bướu mạch máu 8 6,5 Bệnh mô bào Langerhans 4 3,2 U hạt tế bào khổng lồ trung tâm 3 2,4 Bướu ngoại bì thần kinh hắc tố 1 0,8 Bướu không do răng ác Limphôm 6 4,8 7 (5,6) Sarcôm xương 1 0,8 Tổng 124 100,0 124 (100,0) Tuổi bệnh nhân Tuổi trung bình của trẻ bị bướu xương hàm là 12,73 ± 0,40 tuổi, nhỏ nhất 1 tuổi và lớn nhất 18 tuổi. Nhóm trẻ 0-5 tuổi chiếm 11%, trẻ 6-12 tuổi chiếm 27%, trẻ 13-18 tuổi có tỉ lệ cao nhất 62%. Ở mọi lứa tuổi trẻ em, bướu ở xương hàm thường gặp lành tính hơn ác tính. Tuy nhiên, trẻ dưới 6 tuổi có tỉ lệ bướu ác (31%) cao hơn trẻ trên 6 tuổi (3%) có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) (Bảng 2). Bảng 2: Phân bố bướu lành và ác tính ở xương hàm theo nhóm tuổi Tuổi Bướu xương hàm Tổng số ca (%) Lành: Ác Giá trị p Lành tính Ác tính Dưới 6 tuổi 9 (69,2) 4 (30,8) 13 (10,5) 2,25:1 0,003 Kiểm định Fisher 6 - 12 tuổi 33 (97,0) 1 (3,0) 34 (27,4) 33:1 13 - 18 tuổi 75 (97,0) 2 (3,0) 77 (62,1) 37,5:1 Tổng 117 (94,3) 7 (5,7) 124 (100,0) 16,7:1 Biểu đồ 1: Tuổi bệnh nhân bướu do răng và bướu không do răng Tuổi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 147 Phân tích số ca bướu xương hàm tại từng tuổi (Biểu đồ 1) cho thấy: Dưới 4 tuổi: chỉ gặp bướu không do răng. Từ 5 – 7 tuổi: bướu không do răng gặp nhiều hơn bướu do răng. Từ 8 – 18 tuổi: thường gặp bướu do răng, nhất là sau 12 tuổi (ngoại trừ khoảng 11 tuổi thường gặp bướu không do răng hơn). Tỉ lệ bướu do răng tăng dần theo tuổi (p < 0,01) (Bảng 3). Bảng 3: Phân bố bướu do răng và không do răng theo nhóm tuổi Tuổi Bướu xương hàm Tổng Số ca (%) Bướu do R: không do R Giá trị p Bướu do răng Không do răng Dưới 6 tuổi 2 (15,4) 11 (84,6) 13 (10,5) 1:5,5 0,001 Kiểm định χ² 6 - 12 tuổi 16 (47,1) 18 (52,9) 34 (27,4) 1:1,1 13 - 18 tuổi 51 (66,2) 26 (33,8) 77 (62,1) 2:1 Tổng 69 (55,6) 55 (44,4) 124(100,0) 1,25:1 Giới tính Mẫu nghiên cứu gồm 72 nam (58%) và 52 nữ (42%), với tỉ lệ nam:nữ là 1,38:1. Không có sự khác biệt rõ về tỉ lệ nam:nữ giữa các nhóm tuổi, giữa bướu lành và bướu ác, giữa bướu do răng và bướu không do răng (p > 0,05) (Bảng 4). Bảng 4: Phân bố giới tính theo tuổi, bướu lành/ác,bướu do răng/không do răng Giới tính Tổng Số ca (%) Tỉ lệ Nam:Nữ Giá trị p Nam (n = 72) Nữ (n = 52) 0 -5 tuổi 6 - 12 tuổi 13 – 18 tuổi 9 (69,2) 18 (53,0) 45 (58,4) 4 (30,8) 16 (47,0) 32 (41,6) 13 (10,5) 34 (27,4) 77 (62,1) 2,3:1 1,1:1 1,4:1 0,596a Bướu lành Bướu ác 67 (57,3) 5 (71,4) 50 (42,7) 2 (28,6) 117(94,4) 7 (5,6) 1,34:1 2,5:1 0,698b Bướu do răng 40 (58,0) 29 (42,0) 69 (55,6) 1,37:1 0,981a Bướu không do răng 32 (58,2) 23 (41,8) 55 (44,4) 1,39:1 a: Kiểm định Chi bình phương, b: Kiểm định chính xác Fisher Sự phân bố giới tính khác nhau tùy theo loại bướu ở xương hàm (Bảng 5). Tuổi trung bình của bệnh nhân khác nhau tùy theo loại bướu có ý nghĩa thống kê (Kiểm định Kruskal-Wallis, p = 0,015). Bảng 5: Tuổi và giới tính của các bệnh nhân các loại bướu xương hàm Loại bướu xương hàm Tuổi Tỉ lệ Nam: Nữ 0-5 6-12 13-18 Trung bình Bướu nguyên bào men 4,2 8,3 87,5 14,83 ± 0,68 2,4:1 U răng 3,8 33,3 61,9 13,30 ± 0,78 1:1,1 Bướu sừng dạng nang do răng 0 33,3 66,7 13,42 ± 0,74 1,4:1 Bướu biểu mô do răng canxi hóa 0 25,0 75,0 14,00 ± 1,35 3:1 Bướu dạng tuyến do răng 0 33,3 66,7 15,70 ± 1,33 1:2 Bướu nhầy do răng 0 0 100,0 13,30 ± 2,91 1:2 Loạn sản sợi 6,3 37,5 56,2 12,63 ± 1,01 1,3:1 Bướu sợi hóa xương 12,5 37,5 50,0 11,75 ± 1,73 7:1 Bướu xương 0 25,0 75,0 15,00 ± 0,93 1,67:1 Bướu mạch máu 12,5 50,0 37,5 11,75 ± 1,73 1:3 Bệnh mô bào Langerhans 75,0 25,0 0 4,25 ± 2,28 1:1 U hạt tế bào khổng lồ trung tâm 0 33,3 66,7 12,30 ± 1,35 1:3 Limphôm 50,0 16,7 33,3 4,25 ± 2,28 5:1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 148 Nơi cư trú Miền Tây nam bộ (33 %), TP.HCM (25%), Nam trung bộ (16%), Đông nam bộ (14 %), Tây nguyên (9%), Bắc trung Bộ và nơi khác (3%). Tiền sử bệnh 13 ca có tiền sử bệnh toàn thân; bao gồm 3 ca viêm dạ dày, 2 ca dị ứng, 2 ca sốt xuất huyết, 1 ca đái tháo nhạt và thiểu sản tuyến yên, 1 ca viêm gan siêu vi B, 1 ca sốt co giật, 1 ca suyễn, 1 ca viêm tai giữa và 1 ca bướu mạch máu ở mặt. Không có tiền sử chấn thương, phẫu thuật vùng hàm mặt. BÀN LUẬN Về tỉ lệ bướu xương hàm lành và ác ở trẻ em Đa số bướu xương hàm ở trẻ em là bướu lành (94%), ít gặp bướu ác (6%). Kết quả này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trên thế giới, thường ghi nhận tỉ lệ bướu lành chiếm hơn 80% các bướu ở xương hàm (Bảng 6). Tuy nhiên, một vài nghiên cứu ở Châu Phi có tỉ lệ bướu ác cao hơn, phổ biến nhất là limphôm Burkitt - loại bướu thường xảy ra ở trẻ em châu Phi và có liên quan với virút Epstein-Barr(4). Ở trẻ em, tỉ lệ bướu xương hàm lành và ác khác nhau nhiều giữa các nghiên cứu, có thể do sự khác biệt về chủng tộc, địa dư, yếu tố nguy cơ, bệnh sinh, lứa tuổi nghiên cứu. Bảng 6: So sánh tỉ lệ % bướu xương hàm lành và ác giữa các nghiên cứu Tác giả (quốc gia) Bướu xương hàm ở trẻ em Bướu lành Bướu ác Lành: Ác Chuong (Âu Mỹ) (7) 87,5 12,5 7:1 Das (Âu Mỹ) (8) 99,0 1,0 99:1 Asamoa (châu Phi) (4) 40,3 59,7 1:1,5 Ulmansky (Israel) (22) 84,0 16,0 5,3:1 Ali (Iran) (3) 96,7 3,3 29,6:1 Tanaka (Nhật Bản)(20) 97,1 2,9 33,5:1 Sato (Nhật Bản) (18) 93,0 7,0 13,3:1 Saxena (Ấn Độ) (19) 93,4 6,6 14,3:1 Nghiên cứu này 94,4 5,6 16,7:1 Như vậy, nhận định đa số bướu xương hàm lành tính không chỉ đúng cho người lớn mà cả ở trẻ em, mặc dù ở trẻ em tỉ lệ bướu lành:ác thấp hơn ở người lớn (16,7:1). Nghiên cứu 172 trường hợp bướu xương hàm tại Bệnh viện RHM Trung Ương TP.HCM năm 2007 và 2008 cho kết quả 168 bướu lành (97,7%) và 4 bướu ác (2,3%), với tỉ lệ lành:ác là 42:1(14). Tổng hợp 1.642 ca bướu do răng ở Trung Quốc, Jing và c.s. (2007) ghi nhận tỉ lệ bướu lành:ác là 32,3:1(9). Về tỉ lệ bướu do răng và không do răng ở trẻ em Bướu do răng là loại bướu đặc thù ở xương hàm, xuất phát từ những thành phần biểu mô và mô liên kết của cơ quan tạo răng. Kết quả bướu do răng (56%) thường gặp hơn bướu không do răng (44%) gấp 1,25 lần. Một điều khác cũng cần chú ý bướu xương hàm ở trẻ em thường gặp bướu do răng (59%), ngược lại bướu ác là bướu không do răng. Kết quả tương tự nghiên cứu của Sato ở Nhật Bản có 79 ca (81%) bướu do răng lành, 11 ca (11%) bướu không do răng lành và 8 ca (8%) bướu không do răng ác (trong đó 5 ca limphôm), không gặp bướu do răng ác(18). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trên thế giới tìm thấy bướu xương hàm ở trẻ em thường là bướu không do răng (Bảng 7). Sự khác biệt này một phần có thể do bướu nguyên bào men khá phổ biến ở nước ta, chiếm tỉ lệ 19%, cao hơn bất cứ loại bướu không do răng. Bảng 7: So sánh tỉ lệ % bướu do răng và không do răng giữa các nghiên cứu Tác giả (quốc gia) Bướu do răng Bướu không do răng Bướu do răng:Không do răng Chuong (Âu Mỹ) (7) 4,0 96,0 1:24 Tanrikulu (Thổ Nhĩ Kỳ)(21) 23,3 76,7 1:3,3 Asamoa (châu Phi)(4) 10,4 89,6 1:8,6 Ulmansky (Israel)(22) 19,0 81,0 1:4,3 Saxena (Ấn Độ)(19) 34,4 65,6 1:2 Sato (Nhật Bản)(18) 80,6 19,4 4,2:1 Nghiên cứu này 55,6 44,4 1,25:1 Về tỉ lệ các loại bướu xương hàm ở trẻ em Kết quả bướu nguyên bào men thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ cao nhất 19% trong các bướu xương hàm nói chung, và 35% trong các bướu do Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 149 răng nói riêng. Tỉ lệ này tương tự tỉ lệ 18% của Saxena và c.s. (2012) ở trẻ em Ấn Độ(19). Mamabolo và c.s. (2011) ghi nhận tỉ lệ bướu nguyên bào men cao nhất 44,7% trong 244 trường hợp bướu do răng ở trẻ em châu Phi(12). Tuy nhiên, một số nghiên cứu tìm thấy bướu nguyên bào men đứng thứ hai sau u răng, như nghiên cứu ở trẻ em Nhật Bản của Sato(18) có tỉ lệ bướu nguyên bào men 30% và u răng 52%, của Tanaka(20) tỉ lệ bướu nguyên bào men 33% và u răng 42%. Thực ra u răng được xem là mô thừa dạng bướu do rối loạn quá trình tạo răng hơn là một sự tân sinh thật sự(6,16,17), cho nên nếu chỉ tính bướu thật thì bướu nguyên bào men thường gặp nhất mặc dù tỉ lệ thay đổi tùy theo mỗi quốc gia, từ 11% (Israel)(22) đến 49% (châu Phi)(1). Kết quả cũng tương tự ở người lớn, với tỉ lệ bướu nguyên bào men 30%(14). Từ đó, có thể nhận định rằng: Cho dù ở trẻ em hay người lớn, ở nước ta, bướu nguyên bào men là loại bướu thường gặp nhất trong các bướu ở xương hàm. Tỉ lệ bướu nguyên bào men khá cao ở trẻ em là một kết quả đáng lo ngại, khi mà đây là một loại bướu nguy hiểm do có tính chất phá hủy xương nhiều và dễ tái phát nếu chỉ lấy bướu(6,16,17). Đứng hàng thứ hai là u răng, chiếm tỉ lệ 17% các bướu xương hàm nói chung và 30% các bướu do răng nói riêng. Kết quả gần tương tự tỉ lệ 12% trong một nghiên cứu chủ yếu ở người lớn tại Bệnh viện RHM Trung Ương năm 2007-2008(11), tỉ lệ 22% trong các bướu lành tính do răng ở trẻ em trong nghiên cứu của Saxena (Ấn Độ)(19). Theo y văn, bướu nguyên bào men chiếm 1% các u nang xương hàm, 11-13% các bướu do răng và phổ biến thứ hai sau u răng (70%)(16). Kết quả tỉ lệ u răng (17%) thấp hơn bướu nguyên bào men (19%) có thể phản ánh thực tế bướu nguyên bào men khá phổ biến, nhưng cũng có thể do u răng thường nhỏ, có vỏ bao, việc phẫu thuật lấy u không quá khó nên có thể điều trị ở các tuyến cơ sở mà không cần chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tuyến cao. Đứng hàng thứ ba trong bảng xếp hạng là loạn sản sợi, chiếm tỉ lệ 13%. Đây là tổn thương thường gặp nhất trong các bướu không do răng. Kết quả phù hợp với nghiên cứu năm 2007-2008 chủ yếu ở người lớn ghi nhận loạn sản sợi phổ biến nhất trong các bướu không răng, chiếm 28%(14). Bướu sừng dạng nang do răng xếp thứ tư (10%) trong các bướu xương hàm, nhưng phổ biến thứ hai (17%) trong các bướu xương hàm thật sự. Loại bướu này đáng quan tâm, do tính chất phá hủy xương mạnh và dễ tái phát nếu chỉ lấy bướu. Các loại bướu khác ít gặp hơn. Trong số này, bướu mạch máu thuộc nhóm nguy hiểm, thậm chí có thể gây tử vong. Nhổ răng trẻ em thường không khó, nhưng các bác sĩ RHM cũng phải cảnh giác khi mà trong vòng 3 năm đã phát hiện 8 ca bướu mạch máu ở xương hàm. Phổ biến nhất trong các bướu xương hàm ác tính ở trẻ em là limphôm (86%). Nhận định này nhất quán ở đa số các nghiên cứu(18). Theo Albright và c.s., ung thư đầu cổ chiếm 12% các ung thư ở trẻ em Mỹ, trong đó limphôm phổ biến nhất (816/3.050 ca, 27%)(2). Về tuổi bệnh nhân bướu xương hàm Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về độ tuổi trẻ em giữa các nghiên cứu. Năm 2002, trong một tổng kết 3.050 ca ung thư đầu cổ ở trẻ em ở nhiều bang nước Mỹ, Albright và c.s. nghiên cứu từ 0-18 tuổi(2). Do đó, chúng tôi chọn khảo sát bướu xương hàm ở trẻ 0-18 tuổi. Về phân nhóm tuổi cũng không có sự thống nhất. Chúng tôi chọn mốc 6 tuổi (tuổi bắt đầu mọc răng vĩnh viễn) và mốc 12 tuổi (tuổi kết thúc mọc răng vĩnh viễn nếu không kể răng khôn) để phân thành 3 nhóm: 0-5 tuổi, 6-12 tuổi và 13-18 tuổi. Hơn nữa, 6 tuổi và 12 tuổi cũng là lứa tuổi chủ chốt mà Tổ chức Sức khỏe thế giới (WHO) chọn để đánh giá tình trạng sức khỏe răng miệng ở trẻ em toàn cầu. Kết quả tìm thấy trẻ dưới 6 tuổi có tỉ lệ bướu ác (31%) cao hơn trẻ trên 6 tuổi (3%), và có tỉ lệ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 150 bướu không do răng (85%) cao hơn trẻ 6-12 tuổi (53%) và trẻ 12-18 tuổi (33%) (p < 0,05). Nghiên cứu này cũng như nhiều nghiên cứu ở trẻ em châu Phi(1), Israel(22), Nhật Bản(18,20) không gặp bướu ác do răng. Bướu do răng có tỉ lệ tăng dần theo tuổi (từ 15% ở trẻ dưới 6 tuổi, 47% ở trẻ 6-12 tuổi, đến 66% ở trẻ 13-18 tuổi) (p < 0,05). Điều này có thể phản ánh sự tạo răng vĩnh viễn dễ rối loạn tăng sinh thành bướu hơn sự tạo răng sữa. Theo Sato và Tanaka, đa số các răng vĩnh viễn hoàn tất sự tạo thân răng lúc 4 – 5 tuổi. Do vậy, các bướu do răng dường như phát sinh sau khi đã tạo xong thân răng(18,20). Đa số các bướu xương hàm phát hiện lúc trên 12 tuổi. Ở trẻ em, 88% bướu nguyên bào men phát hiện từ 12-18 tuổi, tương tự tỉ lệ 93% trong nghiên cứu của Sato và c.s. (18) ở Nhật Bản. Thường gặp ở trẻ trên 12 tuổi còn có bướu nhầy (100%), bướu biểu mô do răng canxi hóa (75%), bướu sừng dạng nang do răng (67%), bướu dạng tuyến do răng (67%), loạn sản sợi (56%), u hạt tế bào khổng lồ (67%). Điều này phù hợp với y văn ghi nhận tuổi thường gặp của bướu nguyên bào men từ 20-40 tuổi(17) hay 30-50 tuổi(6), bướu biểu mô canxi hóa 40 tuổi(6,16,17), bướu nhầy lúc 30 tuổi(16), bướu sừng dạng nang do răng 20-30 tuổi(16,17), loạn sản sợi và u hạt tế bào khổng lồ 10- 20 tuổi(6,16,17). Hầu hết u răng xảy ra ở trẻ trên 6 tuổi, như nghiên cứu của Sato 94%(18), Tanaka 93%(20) , 96% (nghiên cứu này). Đa số bướu mạch máu xương hàm phát hiện ở trẻ 6-12 tuổi (50%) và 13-18 tuổi (38%), trung bình 12,25 tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đẩu trên 16 ca bướu mạch máu xương hàm xác nhận độ tuổi trung bình 9,8 tuổi(13). Theo Regezi, bướu mạch máu xương hàm thường gặp nhất từ 10-20 tuổi(16). Bệnh mô bào Langerhans và limphôm xảy ra sớm nhất, trung bình 4,25 tuổi. Theo y văn, bệnh mô bào Langerhans gồm có: (1) u hạt ái toan (dạng khu trú mạn tính) có tổn thương ở một hay nhiều xương, chủ yếu ở trẻ lớn và người trẻ, (2) bệnh Hand-Schüller-Christian (dạng lan tỏa mạn tính) có tổn thương ở nhiều cơ quan, xương, hạch, ở trẻ dưới 10 tuổi, và (3) bệnh Letterer-Swive (dạng lan tỏa cấp tính) tổn thương nhiều cơ quan, tủy xương, hạch, da, chỉ gặp ở trẻ dưới 3 tuổi(17). Trong 4 trường hợp bệnh, có 1 bé gái 1 tuổi nghi ngờ bệnh Hand- Schüller-Christian do có tam chứng gồm tổn thương nhiều xương sọ-mặt, lồi mắt, đái tháo nhạt, ngoài ra có kèm theo thiểu sản thùy sau tuyến yên. Sarcôm xương (sarcôm sinh xương) là bướu ác nguyên phát phổ biến nhất ở xương, thường xảy ra ở những xương dài như xương đùi, ít gặp ở vùng đầu cổ. Nghiên cứu này chỉ gặp 1 trường hợp sarcôm xương ở xương hàm trẻn của bé gái 5 tuổi. Sapp và c.s. cho rằng sarcôm xương ở xương hàm có đỉnh cao 33 tuổi, tức muộn hơn 10 tuổi so với đỉnh cao 24 tuổi của sarcôm ở xương dài(19). Về giới tính bệnh nhân bướu xương hàm Theo y văn, không có sự khác biệt rõ về giới tính đối với bướu xương hàm ở trẻ em(22). Tuy nhiên, nghiên cứu này ghi nhận bướu xảy ra ở trẻ nam hơi nhiều hơn trẻ nữ, với tỉ lệ nam:nữ là 1,38:1, nhất là khi trẻ dưới 6 tuổi (2,3:1). Tỉ lệ nam:nữ trong bướu do răng và trong bướu không do răng đều là 1,4:1, nhưng trong bướu ác (2,5:1) cao hơn so với bướu lành (1,34:1). Bướu thường gặp ở nam hơn nữ là bướu nguyên bào men, bướu biểu mô do răng canxi hóa, bướu sừng dạng nang do răng, bướu sợi hóa xương, loạn sản sợi, bướu xương, limphôm. Kết quả bướu xương phù hợp với y văn(16). Bướu nguyên bào men có tỉ lệ nam hơi nhiều hơn hay bằng nữ(14,17,19). Tuy nhiên, kết quả bướu sợi hóa xương, bướu biểu mô canxi hóa, loạn sản sợi ở trẻ em có khác biệt so với các nghiên cứu(6,16,17). Ở nữ nhiều hơn nam có bướu dạng tuyến do răng, bướu nhầy do răng, bướu mạch máu, u hạt tế bào khổng lồ trung tâm, tương tự kết quả của nhiều nghiên cứu(1,6,16,17). Kết quả u răng và bệnh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 151 mô bào Langerhans hầu như không khác biệt giới tính cũng phù hợp với y văn(6,18). KẾT LUẬN Bướu xương hàm ở trẻ em đa dạng, đa số lành tính, thường gặp bướu do răng hơn bướu không do răng. Tuy nhiên, trẻ dưới 6 tuổi thường gặp bướu không do răng và có tỉ lệ ác tính cao hơn so với trẻ trên 6 tuổi. Mặt khác, có sự khác biệt về tuổi và giới tính bệnh nhân giữa các loại bướu khác nhau ở xương hàm. Do đó, khi thiết lập chẩn đoán và xử trí, bác sĩ cần phải chú trọng đến những yếu tố này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ajayi OF, Ladeinde AL, Adeyemo WL, Ogunlewe MO (2004): Odontogenic tumors in Nigerian children and adolescents: A retrospective study of 92 cases. World J Surg Oncol, 2, pp.39- 44. 2. Albright JT, Topham AK, Reilly JS (2002): Pediatric head and neck malignancies: US incidence and trends over 2 decades. Arch Otolaryngol Head Neck Surg, 128(6), pp.655-659. 3. Ali MA (2011): Biopsied jaw lesions in Kuwait: A six-year retrospective analysis. Med Princ Pract, 20, pp.550–555. 4. Asamoa EA, Ayanlere AO, Olaitan AA, Adekeye EO (1990): Paediatric tumours of the jaws in northern Nigeria: Clinical presentation and treatment. J Craniomaxillofac Surg, 18(3), pp.130-135. 5. Barnes LEJW, Reichart P (2005): Pathology and genetics head and neck tumours. World Health Organization. 6. Cawson RA, Odell EW, Proter S (2008): Cawson’s essentials of oral pathology and oral medicine, Churchill Livingstone, Elservier, 8th edition, pp.277-311. 7. Chuong R, Kaban LB (1985): Diagnosis and treatment of jaw tumors in children. J Oral Maxillofac Surg, 43(5), pp.323-332. 8. Das S, Das AK (1993): A review of pediatric oral biopsies from a surgical pathology services in dental school. Pediatr Dent, 15, pp.208-211. 9. Jing W, Xuan M, Lin Y, et al (2007): Odontogenic tumours: A retrospective study of 1642 cases in a Chinese population. Int J Oral Maxillofac Surg, 36(1), pp.20-25. 10. Kramárová E, Stiller CA (1996): The international classification of childhood cancer. Int J Cancer, 68, pp.759-765. 11. Lâm Ngọc Ấn, Bùi Hữu Lâm (2000): Tình hình u bướu tại Viện Răng Hàm Mặt từ 1975-1985. Kỷ Yếu Công Trình Khoa Học 1975-1993, tr.203-206. 12. Mamabolo M, Noffke C, Raubenheimer E (2011): Odontogenic tumours manifesting in the first two decades of life in a rural African population sample: a 26 year retrospective analysis. Dentomaxillofac Radiol, 40(6), pp.331-337. 13. Nguyễn Văn Đẩu, Lâm Hoài Phương (2011): Đặc điểm bệnh lý u mạch máu xương hàm ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng I và kết quả của phương pháp điều trị bảo tồn. Tạp chí Y học TP.HCM, tập 15, phụ bản số 2, tr.213-221. 14. Phan Huỳnh An (2009): Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và X quang u nguyên bào men. Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM. 15. Rapidis AD, Economidis J, Goumas PD (1988): Tumours of the head and neck in children. A clinico-pathological analysis of 1007 cases. J Craniomaxillofac Surg, 16(6), pp.279-286. 16. Regezi JA, Sciubba JJ, Jordan RCK (2008): Oral pathology: Clinical pathologic correlations. Saunders, Elsevier, 5th edition, pp.160-330. 17. Sapp JP, Eversole LR, Wysocki GP (2004): Contemporay oral and maxillofacial pathology. Mosby, 2nd edition, pp.112-163. 18. Sato M, Tanaka N, Sato T, Amagasa T (1997): Oral and maxillofacial tumours in children: A review. Br J Oral Maxillofac Surg, 35(2), pp.92-95. 19. Saxena S, Kumar S, (2012): Pediatric jaw tumors: Our experience. J Oral Maxillofac Pathol, 16(1), pp.27-30. 20. Tanaka N, Murata A, Yamaguchi A, Kohama G (1999): Clinical features and management of oral and maxillofacial tumors in children. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod, 88(1), pp.11-15. 21. Tanrikulu R, Erol B, Haspolat K (2004): Tumors of the maxillofacial region in children: retrospective analysis and long-term follow-up outcomes of 90 patients. Turk J Pediatrics, 46, pp.60-66. 22. Ulmansky M, Lustmann J, Balkin N (1999): Tumors and tumor-like lesions of the oral cavity and related structures in Israeli children. Int J Oral Maxillofac Surg, 28(4), pp.291-294. Ngày nhận bài báo: 06/01/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/01/2014 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_cac_loai_buou_xuong_ham_o_tre_em_va_cac_yeu_to_dich_te.pdf
Tài liệu liên quan