Tỉ lệ thừa cân, béo phì và các yếu tố liên quan của học sinh mẫu giáo từ 4-6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh 2006

KẾT LUẬN Nghiên cứu giúp xác định được tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì tại các trường mẫu giáo quận 5 là khá cao: 21,2% theo chỉ số cân nặng/chiều cao (trong đó 13,2% là thừa cân, và 8% là béo phì), 18,7% theo chỉ số cân nặng / tuổi, 3,6% theo chỉ số chiều cao / tuổi. Các yếu tố liên quan thuận của tình trạng thừa cân béo phì của trẻ mẫu giáo từ 4 - 6 tuổi tại quận 5 là: trẻ gái, có mẹ là người Kinh, trẻ thường ăn nhanh. Có mối liên quan giữa kiến thức của bà mẹ và tình trạng thừa cân béo phì của trẻ trong hai nhóm bà mẹ có trẻ béo phì và không có trẻ béo phì. Có mối liên quan giữa kiến thức về phòng tránh thừa cân béo phì của bà mẹ bằng cách tăng vận động cho trẻ và giảm thức ăn dầu mỡ với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ. Về dinh dưỡng: Một số bà mẹ còn cho rằng nước ngọt tốt cho sức khoẻ của trẻ. Hầu hết các bà mẹ không đồng ý thức ăn đóng hộp là tốt cho sức khoẻ của trẻ nhưng đối với các loại thức ăn nhanh và thức ăn chế biến sẵn vẫn còn một tỉ lệ khá cao các bà mẹ chọn loại thức ăn này cho trẻ vì cho rằng các thức ăn nhanh có thành phần dinh dưỡng tốt hơn thức ăn nấu tại gia đình và thức ăn chế biến sẵn thì tốt cho sức khoẻ. KIẾN NGHỊ Trong việc phòng chống béo phì ở trường mầm non, mẫu giáo chúng tôi đề xuất các biện pháp sau: Tăng cường việc phòng ngừa thừa cân béo phì ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo bằng các hình thức truyền thông gíao dục, nâng cao sức khoẻ phù hợp. Áp dụng các hình thức giáo dục truyền thông sáng tạo và đa dạng. Truyền thông thường xuyên cho phụ huynh về tác hại của béo phì và các nguyên nhân béo phì cũng như các phòng chống thích hợp. Ðồng thời cần nêu tác hại của các loại thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn, các loại nước ngọt trong thông tin cho các bậc phụ huynh. Cân đo trẻ thường xuyên để sớm phát hiện dấu hiệu tăng cân, thừa cân của trẻ và có biện pháp tích cực ngay từ đầu tránh cho trẻ từ giai đoạn thừa cân chuyển sang béo phì. Thêm các loại hình hoạt động vận động phù hợp lứa tuổi trẻ dành riêng cho trẻ thừa cân đồng thời tăng cường thời lượng vận động cho trẻ.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ thừa cân, béo phì và các yếu tố liên quan của học sinh mẫu giáo từ 4-6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh 2006, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 1 TỈ LỆ THỪA CÂN, BÉO PHÌ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH MẪU GIÁO TỪ 4-6 TUỔI TẠI QUẬN 5 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2006 Phùng Đức Nhật* và cs TÓM TẮT Đặt vấn đề: Béo phì là một dịch bệnh mới gia tăng và có thể xem như một vấn đề dinh dưỡng khẩn cấp với 1,6 tỉ người lớn mắc phải trên toàn cầu. Đây cũng là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho các bệnh không lây khác như đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch, ung thư ở trẻ bị thừa cân béo phì khi trẻ lớn lên. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì và mối liên quan với các yếu tố nguy cơ ở trẻ từ 4 đến 6 tuổi tại các trường mầm non mẫu giáo trên địa bàn quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang với 1650 trẻ tại các trường mầm non mẫu giáo trên địa bàn quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì là 21,2% (trong đó 13,2% là thừa cân và 8% là béo phì). Giới là nữ, thói quen ăn nhanh có liên quan đến nguy cơ cao thừa cân béo phì ở trẻ mầm non mẫu giáo. Trẻ thừa cân có khuynh hướng thích sử dụng thực phẩm có chất béo nhiều hơn và ít thích sử dụng thực phẩm có chất ngọt so với trẻ không thừa cân. Mẹ của các trẻ béo phì có tỉ lệ hiểu biết rằng tăng cường hoạt động thể lực và giảm chất béo trong thức ăn giúp giảm thừa cân béo phì cao hơn so với mẹ của các trẻ bình thường. Tuy nhiên, có một tỉ lệ cao các bà mẹ tin rằng thức ăn nhanh và các loại nước ngọt là tốt hơn các loại thực phẩm thông thường, và tin rằng trẻ mập mạp thì khỏe mạnh hơn so với trẻ thông thường. Kết luận: Thừa cân béo phì ở trẻ là một vấn đề sức khỏe mới nảy sinh ở Việt Nam và có thể phát triển thành dịch trong tương lai không xa. Giáo dục sức khỏe và hoạt động nâng cao sức khỏe cần được thực hiện tích cực hơn nhằm kiểm sóat và phòng ngừa đại dịch mới này. ABSTRACT THE PREVALENCE OF OVERWEIGHT AND ITS RELATED FACTORS IN KINDERGARTEN CHILDREN FROM 4 TO 6 YEARS OLD IN DISTRICT 5, HO CHI MINH CITY, 2006. Phung Duc Nhat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 152 - 157 Introduction: Obesity is a new emerging epidemic and can be considered as a new nutrition emergency with 1.6 billions of obese adults worldwide. It is also an underlying risk factor to develop non-communicable diseases such as diabetes, hypertension, cardio-vascular diseases, and cancer in adults. Objectives: This study aims to determine the prevalence of obesity and its related risk factors among children 4 to 6 years old at kindergartens in district 5, Ho Chi Minh city. Methods: A cross sectional study of 1650 children 4 to 6 years old was conducted at kindergartens in district 5, Ho Chi Minh city. Results: The prevalence of overweight and obesity was 21.2% (in which 13.2% was overweight and 8% obesity).Girls and fast eating habit were related to a higher risk of obesity in kindergarten children. Overweight children were more likely to consume fatty food and less likely to consume sweet stuff, compared to normal children. The percentage of obese children’mothers knowing about the role of physical activity and less fatty diet in preventing obesity was higher than that of normal children’ mothers. However, there was a high percentage of * Viện Vệ sinh Y tế công cộng - Thành phố Hồ Chí Minh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 2 mothers who believed that fast food and beverages could be better than normal food and that overweight children were healthier than normal ones. Conclusions: Obesity in children is a new health problem in Viet Nam and can develop to be an epidemic in the near future. Health education and health promotion campaigns should be implemented in an active way to control and prevent this new epidemic. ÐẶT VẤN ÐỀ Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trên toàn thế giới đến năm 2005 có khỏang 1,6 tỉ người trên 15 tuổi thừa cân, trong đó ít nhất 400 triệu người lớn bị béo phì. Béo phì là đại dịch không chỉ giới hạn ở các nước công nghiệp, mà đến 115 triệu người béo phì là ở các nước đang phát triển(6). Riêng trẻ em, 22 triệu trẻ dưới 5 tuổi đang bị thừa cân trên thế giới. Thừa cân, béo phì có nguy cơ trên các bệnh như tiểu đường type 2, bệnh lý tim mạch, đột quị, và một số ung thư tại túi mật, tuyến vú, đại tràng, tiền liệt tuyến và thận(1). Tại Việt Nam, các cuộc điều tra nhân khẩu trước năm 1995 cho thấy tỉ lệ thừa cân không đáng kể. Nhưng đến năm 2000 điều tra tại các thành phố lớn cho thấy tỉ lệ thừa cân ở lứa tuổi học sinh tiểu học Hà nội là 10%, thành phố Hồ Chí Minh là 12%(2). Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, điều tra của Nguyễn Thị Kim Hưng qua các năm cho thấy tỉ lệ thừa cân 4-5 tuổi vào các năm 1995, 2000, 2001 tương ứng là 2,5%; 3,1% và 3,3%(4). Nghiên cứu tình trạng thừa cân và béo phì của dân cư thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 đến 2001, Trần Thị Hồng Loan ghi nhận sự gia tăng tỉ lệ thừa cân của trẻ dưới 5 tuổi: 2,0% năm 1996; 2,1% năm 1999; 3,1% năm 2000; 3,4% năm 2001. Riêng học sinh nhà trẻ, mẫu giáo trong niên học 2000 - 2001 quận ven Gò vấp có tỉ lệ béo phì 7,9%. Còn học sinh cấp I (6-11 tuổi) ở quận 1 nội thành năm 1997 có tỉ lệ béo phì 12,2%(5). Ðiều tra tình trạng dinh dưỡng năm 2006 của Viện Dinh dưỡng cho tỉ lệ 16,3% người Việt Nam từ 25-64 tuổi bị thừa cân, béo phì. Phần lớn các trường hợp thừa cân béo phì là do tăng năng lượng khẩu phần ăn hoặc giảm hoạt động thể lực hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó. Nhận thức đây là vấn đề y tế công cộng mới, nhiều nghiên cứu về béo phì đã được tiến hành và các yếu tố nguy cơ cũng được đề cập. Tuy vậy vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến mối liên quan của các yếu tố nguy cơ và thừa cân béo phì cũng như xác định tỉ lệ thừa cân béo phì của lứa tuổi mẫu giáo 4-6 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. Ðiều này thúc đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh mẫu giáo từ 4-6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Xác định mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với tình trạng thừa cân, béo phì của nhóm trẻ được nghiên cứu. ÐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Ðối tượng nghiên cứu 1650 trẻ 4-6 tuổi theo học tại các trường mầm non, mẫu giáo tại quận 5 và cha mẹ trẻ. Lứa tuổi trẻ được chọn là 4 đến 6 tuổi, tương ứng với lứa tuổi mẫu giáo (lớp mầm, lớp chồi, lớp lá) trong các trường mầm non, mẫu giáo. Thời gian nghiên cứu Tháng 4 - 5 năm 2006. Thu thập thông tin Trẻ được cân bằng cân điện tử TANITA của Nhật (chính xác đến 100g). Trẻ được đo chiều cao bằng thước Microtoise của Mỹ (chính xác đến 0,1 cm). Phụ huynh học sinh được phỏng vấn qua bảng câu hỏi. Nhập và xử lý số liệu Kết quả nghiên cứu được nhập và xử lý trên các phần mềm: EpiData 3.0, chương trình Epinut của EpiInfo 6.04, SPSS 11.5. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 3 Tiêu chuẩn đánh giá Theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (1985), với trẻ dưới 9 tuổi chỉ tiêu đánh giá thừa cân trẻ em là cân nặng/chiều cao (CN/CC) so sánh với quần thể tham khảo NCHS (National Center for Health Statistics). Trong nghiên cứu này chọn chỉ tiêu đánh giá theo CN/CC như sau: < - 2 SD Suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng - 2 SD đến + 2 SD Bình thường Bình thường > + 2 SD đến + 3SD thừa cân độ 1 Thừa cân > + 3 SD đến + 4 SD thừa cân độ 2 > + 4 SD thừa cân độ 3 Béo phì Phương pháp nghiên cứu Điều tra cắt ngang mô tả Cỡ mẫu điều tra 2 )2/1(2 )1(** d ppz n − = −α với z=1,96; p=0,12; d=0,04, thì n= 255. Chọn 3 nhóm tuổi, và hệ số thiết kế là 2, dự trù mất mẫu 10%. Cỡ mẫu N = 255*3*2 + 10%, khoảng 1650. Bước 1: Khung mẫu là tất cả học sinh các trường mầm non mẫu giáo trong quận 5. Bước 2: Chọn 30 cụm: khỏang cách mẫu k=7701/30. Bước 3: Chọn ngẫu nhiên các trẻ tại các trường trong mỗi cụm sao cho mỗi cụm có khoảng 18 trẻ 4 tuổi, 18 trẻ 5 tuổi, 18 trẻ 6 tuổi. KẾT QUẢ Ðặc điểm mẫu điều tra Bảng 1: Ðặc điểm trẻ tham gia nghiên cứu Ðặc tính Tần số (n=1650) Tỉ lệ (%) Nam 808 49,0 Giới Nữ 842 51,0 4 tuổi 558 33,8 5 tuổi 564 34,2 Nhóm tuổi 6 tuổi 528 32,0 Kinh 1089 67,5 Hoa 514 31,2 Dân tộc Khác 47 1,3 Tỉ lệ nam nữ gần bằng nhau. Tỉ lệ trẻ trong ba nhóm tuổi xấp xỉ nhau. Dân tộc Kinh chiếm đa số (67,5%), dân tộc Hoa có tỉ lệ 31,2%. Bảng 2: Ðặc điểm phụ huynh của trẻ tham gia nghiên cứu Mẹ Cha Ðặc tính Tần số (n=1650) Tỉ lệ (%) Tần số (n=1650) Tỉ lệ (%) Chưa hết cấp 1 83 5,0 98 6,0 Cấp 1 106 6,4 82 5,0 Cấp 2 478 29,0 380 23,0 Cấp 3 468 28,4 472 28,6 ÐH trở lên 325 19,7 388 23,5 Trình độ học vấn Không trả lời 190 11,5 230 13,9 Buôn bán nhỏ 411 24,9 314 19,0 CB-VC 324 19,6 357 21,6 Công nhân 474 10,5 305 18,5 Nông dân 2 0,1 2 0,1 Chủ DN 51 3,1 84 5,1 Nghề tự do 174 10,5 239 14,5 Nghề nghiệp Khác 514 31,3 349 21,2 Về mẹ, hơn một nửa số bà mẹ tham gia nghiên cứu nằm trong nhóm tuổi từ 31-40 tuổi. Học vấn đa số trên cấp 2 chiếm 77,1% trong đó tỉ lệ đại học trở lên là 19,7%. Nghề nghiệp buôn bán nhỏ chiếm khoảng 25%. Khoảng 1/5 là người Hoa. Về cha, đa số có trình độ trên cấp 2 (75,1%). Các nghề chính là cán bộ viên chức (21,6%), buôn bán nhỏ (19%), công nhân (18,5%). Khoảng 1/3 là người Hoa. Ðặc điểm dinh dưỡng và vận động trẻ nghiên cứu Tình trạng dinh dưỡng của trẻ tham gia nghiên cứu theo chỉ số cân nặng/chiều cao (CN/CC). Có 350 trẻ thừa cân béo phì chiếm 21,2%, trong đó trẻ thừa cân là 13,2%, béo phì là 8%, trẻ bình thường là 77,9% và trẻ suy dinh dưỡng là 0,8%. Mức độ vận động trung bình của trẻ như sau: Bảng 3: Mức độ vận động của trẻ Hoạt động Thời gian trung bình (giờ/ngày) Xem tivi 2,1 ± 1,3 Chơi máy vi tính 1,3 ± 1,0 Chơi trò chơi điện tử 1,2 ± 0,9 Học bài 1,4 ± 1,1 Tĩnh tại Tô màu, vẽ tranh, 1,2 ± 1,0 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 4 Hoạt động Thời gian trung bình (giờ/ngày) học đàn Ðộng Chơi đùa với bạn 1,7 ± 1,3 Xác định mối liên quan giữa các yếu tố ng uy cơ với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ Sủ dụng phép kiểm chi-bình phương phân tích mối liên quan cho kết quả Bảng 4: Mối liên quan giữa tình trạng thừa cân của trẻ với các đặc tính của trẻ Ðặc tính Không thừa cân (n %) Thừa cân (n %) P Nam 605 (74,9) 203 (25,1) 0,000 Giới Nữ 695 (82,5) 147 (17,5) 1 (*) 4 tuổi 347 (29,2) 88 (26,6) 5 tuổi 439 (37,0) 116 (35,0) Nhóm tuổi 6 tuổi 401 (33,8) 127 (38,4) 0,292 Chưa thấy sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, dân tộc của trẻ với tình trạng thừa cân-béo phì. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ béo phì giữa trẻ trai và gái: trẻ trai có tỉ lệ béo phì cao hơn trẻ gái (25,1% so với 17,5%). Bảng 5: Mối liên quan giữa tình trạng thừa cân của trẻ với thói quen, sở thích ăn uống của trẻ Ðặc tính Không thừa cân (n %) Thừa cân (n %) p Nhanh 90 (7,8) 90(28,2) Bình thường 640 (55,6) 202 (63,6) Tốc độ ăn Chậm 423 (36,6) 26 (8,2) 0,000 1 (*) Thích 189 (17,8) 67 (22,6) Bình thường 475 (44,6) 128 (43,1) Không thích 221 (20,8) 54 (18,2) Thức ăn béo Không trả lời 179 (16,8) 48 (16,1) 0,284 Thích 518 (47,7) 116 (38,9) Bình thường 369 (34,0) 107 (35,9) Không thích 93 (8,6) 38 (12,8) Thức ăn ngọt Không trả lời 105 (9,7) 37 (12,4) 0,017 (*) Thích 516 (47,8) 118 (39,7) Bình thường 308 (28,5) 95 (32,0) Không thích 131 (12,2) 47 (15,8) Nước ngọt Không trả lời 124 (11,5) 37 (12,5) 0,076 Trẻ thừa cân-béo phì có khuynh hướng ăn nhanh (p = 0,001) cao hơn trẻ bình thường, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Trẻ thừa cân - béo phì có tỉ lệ thích ăn thức ăn béo cao hơn so với trẻ bình thường (22,6% so với 17,8%) tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trẻ bình thường thích ăn ngọt cao hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ thừa cân béo phì (p = 0,017). Bảng 6: Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng Ðồng ý Không đồng ý Không ý kiến Uống nhiều nước trái cây tốt cho sức khỏe 90,0% 5,6% 4,4% Nước ngọt tốt cho sức khỏe của trẻ 4,0% 87,5% 8,5% Thức ăn chế biến sẵn (khoai tây chiên, bắp rang, bánh ngọt, bánh snack, mì gói,) tốt cho sức khỏe của trẻ. 10,8% 82,5% 6,7% Thức ăn nhanh (bánh Kinh Ðô, bánh Ðức Phát, gà rán, pizza,..) có thành phần dinh dưỡng tốt hơn thức ăn chị nấu. 7,8% 71,0% 5,8% Thức ăn đóng hộp tốt hơn thức ăn tươi sống 3,6% 40,5% 5,9% Cho dầu mỡ nhiều trong thức ăn thì tốt cho sức khỏe 7,6% 85,0% 7,4% Trẻ mập thì xinh xắn, đáng yêu hơn 50,5% 42,3% 7,1% Trẻ mập thì khỏe hơn trẻ bình thường 14,5% 77,6% 7,9% Trẻ chơi vận động ngòai trời tốt hơn chơi trong nhà 80,9% 11,3% 5,8% Bảng 7: Kiến thức bà mẹ về cách phòng chống béo phì Ðồng ý Không đồng ý Ăn hợp lý giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 80,1% 19,9% Ăn vừa đủ theo lứa tuổi giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 66,8% 33,2% Tăng vận động cho trẻ giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 78,7% 21,3% Giảm thức ăn có dầu mỡ giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 64,6% 35,6% Giảm ăn các loại thức ăn nhanh giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 52,6% 47,4% Cho trẻ ăn nhiều trái cây giúp trẻ tránh thừa cân béo phì 75,8% 24,2% Bảng 8: Mối liên quan giữa kiến thức về phòng tránh thừa cân béo phì và tình trạng thừa cân béo phì của trẻ Kiến thức Bình thường Thừa cân - Béo phì p Ðồng ý 80,8% 77,5% Ăn hợp lý Không 19,2% 22,5% 0,20 Ðồng ý 77,2% 84,3% Tăng vận động cho trẻ Không 22,8% 15,7% 0,009 (*) Ðồng ý 62,8% 70,3% Giảm thức ăn dầu mỡ Không 37,2% 29,7% 0,017 (*) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 5 Kiến thức Bình thường Thừa cân - Béo phì p Ðồng ý 51,7% 56,0% Giảm thức ăn nhanh Không 48,3% 44,0% 0,19 BÀN LUẬN Ðánh giá tình trạng thừa cân béo phì của trẻ theo chỉ số cân nặng/chiều cao (CN/CC) có tỉ lệ là 21,2% và tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng tương ứng là 0,8% Trong đó tỉ lệ thừa cân là 13,2% và béo phì là 8,0%. Ðây là một con số cao đáng báo động. Thời gian hoạt động trung bình của trẻ khoảng 1,7 giờ/ngày dành để chơi đùa với bạn. Trong khi đó, thời gian tĩnh tại của trẻ là 7,2 giờ/ngày dành cho việc xem tivi, chơi máy vi tính, chơi trò chơi điện tử, học bài, tô màu, vẽ tranh hơn gấp ba lần thời gian dành cho hoạt động. Lối sống tĩnh tại ngày càng phổ biến và là nguyên nhân gia tăng tỉ lệ thừa cân - béo phì ở đô thị. So sánh với nghiên cứu của Lê Thị Hải ở trẻ cấp 1 tại Hà nội, chúng tôi thấy thói quen ăn nhanh của trẻ có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ. Nhưng khác với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải, ở trẻ mẫu giáo quận 5 tình trạng ăn vặt lại không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê(3). Khi khảo sát thói quen ăn uống của trẻ, thói quen ăn ngọt (p = 0,017) và uống nước ngọt (p = 0,076) của trẻ có mối liên quan nghịch có ý nghĩa thống kê với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ. Những trẻ bình thường có thói quen ăn ngọt và uống nước ngọt cao hơn trẻ thừa cân béo phì. Có thể là do gia đình trẻ béo phì có ý thức hạn chế thức ăn ngọt cho con em. Chưa thấy có mối liên quan giũa ăn thực phẩm nhiều chất béo với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ. Ðiều này khác với nghiên cứu trước đây của Lê Thị Hải cho thấy có liên quan giữa ăn chất béo và thừa cân béo phì. Khảo sát kiến thức chung về dinh dưỡng của bà mẹ cho thấy với thức ăn chế biến, thức ăn nhanh ngày càng sẵn có và phổ biến, vẫn còn một tỉ lệ khá cao từ 7,8% đến 10,8% các bà mẹ cho rằng các thức ăn này tốt cho sức khoẻ của trẻ hoặc tốt hơn thức ăn nấu tại gia đình. Vẫn còn 4% bà mẹ cho rằng nước ngọt tốt cho sức khoẻ của trẻ, đây là điều cần quan tâm vì nước ngọt là “mối nguy hiểm thầm lặng” trong việc gây ra béo phì vì ít ai để tâm và nhận diện nó như một mối nguy cơ. Về thái độ với trẻ béo, mặc dù đa số bà mẹ (77,6%) không đồng ý rằng trẻ béo khoẻ hơn trẻ bình thường, nhưng hơn 50% bà mẹ vẫn thích trẻ béo vì “trẻ mập (béo) thì xinh xắn, đáng yêu hơn”. Ðiều này cho thấy việc cung cấp kiến thức cho bà mẹ thì dễ dàng hơn việc thay đổi thái độ của bà mẹ về mong muốn có một trẻ mập mạp đáng yêu. Nhóm bà mẹ có con thừa cân béo phì có kiến thức đúng rằng: trẻ thừa cân nên tăng vận động (p = 0,009), giảm thức ăn có dầu mỡ, chất béo (p = 0,017) cao hơn nhóm bà mẹ có con bình thường và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kiến thức về phòng chống béo phì bằng việc giảm thức ăn nhanh và ăn nhiều trái cây của nhóm bà mẹ có con thừa cân béo phì cao hơn nhóm bà mẹ có con bình thường (tương ứng là 56% và 51,7%, 78,2% và 75,1%). KẾT LUẬN Nghiên cứu giúp xác định được tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì tại các trường mẫu giáo quận 5 là khá cao: 21,2% theo chỉ số cân nặng/chiều cao (trong đó 13,2% là thừa cân, và 8% là béo phì), 18,7% theo chỉ số cân nặng / tuổi, 3,6% theo chỉ số chiều cao / tuổi. Các yếu tố liên quan thuận của tình trạng thừa cân béo phì của trẻ mẫu giáo từ 4 - 6 tuổi tại quận 5 là: trẻ gái, có mẹ là người Kinh, trẻ thường ăn nhanh. Có mối liên quan giữa kiến thức của bà mẹ và tình trạng thừa cân béo phì của trẻ trong hai nhóm bà mẹ có trẻ béo phì và không có trẻ béo phì. Có mối liên quan giữa kiến thức về phòng tránh thừa cân béo phì của bà mẹ bằng cách tăng vận động cho trẻ và giảm thức ăn dầu mỡ với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 6 Về dinh dưỡng: Một số bà mẹ còn cho rằng nước ngọt tốt cho sức khoẻ của trẻ. Hầu hết các bà mẹ không đồng ý thức ăn đóng hộp là tốt cho sức khoẻ của trẻ nhưng đối với các loại thức ăn nhanh và thức ăn chế biến sẵn vẫn còn một tỉ lệ khá cao các bà mẹ chọn loại thức ăn này cho trẻ vì cho rằng các thức ăn nhanh có thành phần dinh dưỡng tốt hơn thức ăn nấu tại gia đình và thức ăn chế biến sẵn thì tốt cho sức khoẻ. KIẾN NGHỊ Trong việc phòng chống béo phì ở trường mầm non, mẫu giáo chúng tôi đề xuất các biện pháp sau: Tăng cường việc phòng ngừa thừa cân béo phì ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo bằng các hình thức truyền thông gíao dục, nâng cao sức khoẻ phù hợp. Áp dụng các hình thức giáo dục truyền thông sáng tạo và đa dạng. Truyền thông thường xuyên cho phụ huynh về tác hại của béo phì và các nguyên nhân béo phì cũng như các phòng chống thích hợp. Ðồng thời cần nêu tác hại của các loại thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn, các loại nước ngọt trong thông tin cho các bậc phụ huynh. Cân đo trẻ thường xuyên để sớm phát hiện dấu hiệu tăng cân, thừa cân của trẻ và có biện pháp tích cực ngay từ đầu tránh cho trẻ từ giai đoạn thừa cân chuyển sang béo phì. Thêm các loại hình hoạt động vận động phù hợp lứa tuổi trẻ dành riêng cho trẻ thừa cân đồng thời tăng cường thời lượng vận động cho trẻ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hà Huy Khôi, Nguyễn Công Khẩn. Thừa cân và béo phì một vấn đề sức khỏe cộng đồng mới ở nước ta. Tạp chí Y học Thực hành 418:5-9 2. Hà Huy Khôi (1996). Mấy vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ chuyển tiếp. Nhà xuất bản Y học. Tr 68-88 3. Lê Thị Hải (1998). Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ bệnh béo phì ở học sinh hai trường tiểu học tại Hà nội. Viện Dinh Dưỡng. 4. Nguyễn Thị Kim Hưng (2003). Tình trạng thừa cân và các yếu tố liên quan ở học sinh 6-11 tuổi tại quận 1 thành phố Hồ Chí Minh năm 2003. Trung tâm Dinh Dưỡng thành phố Hồ Chí Minh. 5. Trần Thị Hồng Loan (2003). Tình trạng thừa cân và béo phì các tầng lớp dân cư thành phố Hồ Chí Minh năm 1996- 2001. Trung tâm Dinh Dưỡng thành phố Hồ Chí Minh. 6. WHO. Controlling the global obesity epidemic. www.who.int/dietphysicalactivity/goals/en/print.html 7. WHO. Obesity and overweight fact sheet. www.who.int/dietphysicalactivity/publications/facts/obesity/ en/ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_thua_can_beo_phi_va_cac_yeu_to_lien_quan_cua_hoc_sinh.pdf
Tài liệu liên quan