- Sửa khoản 2 Điều 191 Luật Đất đai
năm 2013 “Tổ chức kinh tế không được
nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa, đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia
đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển
mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt” theo hướng cho
phép tổ chức kinh tế trong nước được phép
nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa, đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia
đình, cá nhân nếu tổ chức kinh tế trong nước
đó đáp ứng được một số điều kiện về kinh
tế và tiêu chuẩn về môi trường nhất định.
Sửa đổi quy định này là tạo điều kiện để các
hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng QSDĐ
trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng của hộ gia đình mình cho tổ chức kinh
tế trong nước.
- Giảm thuế, phí liên quan đến chuyển
nhượng đất nông nghiệp tại Luật sửa đổi các
Luật về Thuế năm 2014.
- Không xác định trường hợp các hộ
chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp vì mục
đích tích tụ và tập trung đất nông nghiệp là
chuyển nhượng bất động sản quy định tại
Điều 14 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm
2007 và miễn thuế thu nhập cá nhân đối với
trường hợp hộ chuyển nhượng QSDĐ nông
nghiệp vì mục đích tích tụ và tập trung đất
nông nghiệp sản xuất quy mô lớn.
- Xây dựng cơ chế minh bạch thông tin
về đất đai
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tích tụ đất trong nông nghiệp - Thực trạng và các kiến nghị chính sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍCH TỤ ĐẤT TRONG NÔNG NGHIỆP - THỰC TRẠNG
VÀ CÁC KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH1
1 Bài viết sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài “Quyền lợi và nghĩa vụ của người dân trong tích tụ đất nông nghiệp -
Thực trạng và giải pháp” của Viện Nghiên cứu Lập pháp năm 2019 do TS. Nguyễn Hoàng Thanh làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, pháp luật về tích tụ ruộng đất, mở rộng hạn mức nhận chuyển
quyền sử dụng đất nông nghiệp. Trên thực tế, quá trình tích tụ ruộng đất,
mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp dù đã có
nhiều thành tựu, nhưng cũng đang gặp phải nhiều vấn đề phức tạp, khó
khăn phải giải quyết bằng các chính sách, giải pháp, biện pháp cụ thể,
thấu đáo. Đặc biệt là vấn đề bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người
dân khi tích tụ đất nông nghiệp. Bài viết nêu rõ thực trạng này và đưa ra
các kiến nghị chính sách.
Phan Thị Thu Hà*
* ThS. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
Abstract
For recent years, the Party and the government have issued series of
undertakings, policies and laws on land accumulation, increase in
threshold for transfer of agricultural land use rights. In practices, the
progress of land accumulation, increase in threshold for transfer of
agricultural land use rights has reached achievements, but also faced
with several complicated issues that need to be solved by appropriate
policies, solutions, measures. Especially the issue of ensuring the rights
and obligations of people when accumulating the agricultural land. This
article provides the outlines of this situation and also recommendations
for policy development.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tích tụ ruộng đất, mở
rộng hạn mức nhận chuyển
quyền sử dụng đất nông nghiệp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/07/2019
Biên tập : 04/08/2019
Duyệt bài : 11/08/2019
Article Infomation:
Keywords: land accumulation;
increase in threshold for transfer
of agricultural land use rights
Article History:
Received : 20 Jul. 2019
Edited : 04 Aug. 2019
Approved : 11 Aug. 2019
1. Chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về tích tụ đất
nông nghiệp
Chủ trương về tích tụ đất nông nghiệp
phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn
được đưa ra lần đầu tiên trong Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn (Nghị quyết số 26-NQ/TW).
Nhiều vấn đề về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn được đề cập và định hướng phát
triển một cách toàn diện, bền vững trong
Nghị quyết số 26-NQ/TW. Phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng
lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao
CHÑNH SAÁCH
39Số 15(391) T8/2019
động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các
điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế
quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất
trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao
nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà
nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành
tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông
nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân
lực, nâng cao dân trí nông dân. Như vậy, lần
đầu tiên, vấn đề tích tụ đất nông nghiệp được
Nghị quyết số 26-NQ/TW đưa ra. Đồng thời,
những vấn đề về vốn, đào tạo nghề, đào tạo
cán bộ quản lý, hỗ trợ chuyển đổi nghề, hạn
mức giao đất nông nghiệp cũng được đưa
ra với mục tiêu là nhằm phát triển bền vững,
toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đây là chìa khóa để quá trình tích tụ đất
nông nghiệp diễn ra sâu, rộng.
Thực hiện các chủ trương của Đảng,
Luật Đất đai đã có những quy định cụ thể
về tích tụ đất đai. Luật Đất đai năm 2003, đã
được sửa đổi và sau đó được thay thế bằng
Luật Đất đai năm 2013, có hiệu lực thi hành
từ 01/7/2014, đã ảnh hưởng rất lớn tới quá
trình tích tụ và tập trung đất ở nước ta.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI đã có Nghị quyết số 19-
NQ/TƯ ngày 31/10/2012 Về tiếp tục đổi mới
chính sách, pháp luật về đất đai trong thời
kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nghị quyết đã có nhiều định hướng
quan trọng trong việc đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai. Đối với chính sách giao
đất, cho thuê đất, Nghị quyết chỉ rõ: “Tiếp
tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn theo
hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để
khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất
và yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng thời, mở
rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng
đất (QSDĐ) nông nghiệp phù hợp với điều
kiện cụ thể từng vùng, từng giai đoạn để tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ đất
đai, từng bước hình thành những vùng sản
xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp. Sớm
có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và
việc làm cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số đang không có đất sản xuất”.
Để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách
và pháp luật về đất đai, Chính phủ và chính
quyền địa phương các cấp đã ban hành nhiều
văn bản về tích tụ, tập trung đất đai, đề ra các
nhiệm vụ và cách thức thực hiện để tích tụ,
tập trung đất đai trở thành một xu hướng tích
cực trong sản xuất nông nghiệp (SXNN) ở
nước ta thời gian qua. Tuy nhiên, với thực
trạng nền nông nghiệp cũng như thực trạng
sử dụng đất của người nông dân hiện nay,
chủ trương tích tụ ruộng đất, mở rộng hạn
mức nhận chuyển QSDĐ nông nghiệp dù đã
có nhiều thành tựu, nhưng cũng đang gặp
phải nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn phải
giải quyết bằng các chính sách, giải pháp,
biện pháp cụ thể, thấu đáo. Đặc biệt là vấn
đề bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người
dân khi tích tụ đất nông nghiệp.
2. Khái quát tình hình tích tụ đất
trong nông nghiệp
Trong thời gian gần đây, đóng góp của
đất đai vào tăng trưởng nông nghiệp dường
như đã tới hạn. Tốc độ tăng trưởng giá trị
sản lượng nông nghiệp bình quân trên 01
hecta đất của Việt Nam đang giảm dần và
thấp hơn các nước trong khu vực. Ruộng
đất phân tán, manh mún là cản trở chính cho
việc nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng trên
một đơn vị diện tích đất trong quá trình tái
cơ cấu nông nghiệp. Diện tích đất bình quân
hộ nông nghiệp chỉ vào khoảng 0,46 ha, và
trung bình được chia thành 2,83 mảnh. Quy
mô diện tích đất của hộ nông dân Việt Nam
thấp hơn Trung Quốc và thấp hơn rất nhiều
so với các nước khác ở châu Á, châu lục
vốn được coi là nơi "đất chật, người đông”.
Do vậy, tích tụ ruộng đất trở thành một giải
pháp giúp nâng cao hiệu quả SXNN, thông
CHÑNH SAÁCH
40 Số 15(391) T8/2019
qua việc mở rộng quy mô sản xuất phù hợp,
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và hình
thành các vùng chuyên canh theo hướng sản
xuất hàng hóa gắn với thị trường.
2.1 Các hình thức tích tụ đất nông nghiệp
chủ yếu
2.1.1 Hình thức chuyển nhượng QSDĐ
nông nghiệp giữa các hộ nông dân với nhau
Chuyển nhượng QSDĐ giữa các hộ
nông dân với nhau (hay còn gọi là mua bán
đất đai ở nông thôn) hiện nay hoàn toàn theo
cơ chế thị trường, cung cầu gặp nhau, thỏa
thuận giá cả và các điều kiện cần thiết theo
cơ chế thị trường. Có người cần bán, gặp
người cần mua, hình thành một cuộc thỏa
thuận, nếu thành công sẽ có một vụ chuyển
nhượng QSDĐ nông nghiệp. Nhà nước chỉ
đóng vai trò theo dõi và quản lý biến động
về đất đai theo quy định của Luật Đất đai.
Theo quy định của luật, tất cả các trường hợp
chuyển nhượng QSDĐ phải làm các đầy đủ
các thủ tục sang tên trước bạ, chuyển QSDĐ
từ người này sang người khác và phải nộp
đầy đủ các loại phí, thuế theo quy định. Tuy
nhiên, trong thực tế, vì những lý do khác
nhau mà nhiều trường hợp chuyển nhượng
QSDĐ cho nhau chỉ viết giấy trao tay, hoặc
có sự làm chứng của hàng xóm là đủ.
Có nhiều nguyên nhân của việc các
hộ nông dân chuyển nhượng QSDĐ nông
nghiệp. Có thể vì lý do hộ nông dân muốn
chuyển đổi nghề nghiệp, vì lý do thiếu lao
động, do sản xuất kém hiệu quả so với các
ngành khác hay vì các nguyên nhân khác
nữa, người nông dân bán một phần hoặc
toàn bộ ruộng đất.
Tuy tỷ lệ số hộ sẵn lòng nhượng đất nông
nghiệp ở các vùng không giống nhau vì nhiều
nguyên nhân nhưng kết quả điều tra cho thấy,
xu hướng chuyển nhượng bớt QSDĐ khi
người nông dân không (hoặc ít) có nhu cầu
SXNN nữa hoặc thấy rằng, SXNN cho hiệu
quả thấp, đang ngày càng tăng lên ở tất cả
các vùng. Do vậy, cơ hội để cho những người
có nhu cầu, có khả năng về tiền vốn đầu tư,
có tâm huyết với sản xuất nông, lâm nghiệp
tích tụ đất đai để tăng quy mô diện tích, đầu
tư cho sản xuất. Việc tích tụ nhanh hay chậm
tùy thuộc khả năng của mỗi người, và khi
tích tụ đến quy mô diện tích đủ lớn thì hình
thành nên những trang trại sản xuất nông lâm
nghiệp. Để phát triển sản xuất hàng hóa tập
trung, việc tích tụ hình thành các trang trại có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Nhìn chung, đối tượng nhận chuyển
nhượng đất nông nghiệp chủ yếu là hộ nông
dân, người trong cùng xã. Phần lớn các hộ
nhận chuyển nhượng để tích tụ thêm đất cho
SXNN. Tuy nhiên, đối tượng là doanh nhân,
cán bộ công chức ở ngoài xã muốn tích tụ
đất đai tuy ít nhưng có xu hướng tăng lên,
chính điều này đã đẩy giá đất lên cao, gây
khó khăn cho người nông dân muốn tích tụ
đất đai.
Một ví dụ để thấy được xu hướng và
kết quả của chuyển nhượng nhằm tích tụ
đất nông nghiệp là: Theo kết quả Tổng Điều
tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2011 thì năm 2011, số hộ của cả vùng đồng
bằng sông Hồng là 1.822.682 hộ, đã giảm
301.593 hộ so với năm 2006. Nhờ có chuyển
nhượng và tích tụ đất nông nghiệp mà bình
quân diện tích đất lúa của hộ tại vùng này
trong giai đoạn 2006 - 2011 tăng 302,55 m2
từ 3.098,75 m2 lên 3.401,30 m2.
Quy mô và tốc độ chuyển nhượng đất
nông nghiệp trong tổng số mảnh đất nông
nghiệp vùng Đông Nam Bộ là cao nhất cả
nước trong giai đoạn 1994 -2003, tuy nhiên
đến sau năm 2003 thì tỷ lệ chuyển nhượng
đất tại khu vực vực này giảm mạnh tụt xuống
vị trí thứ hai sau vùng Tây Nguyên. Giai
đoạn 1994 -2003 là giai đoạn tăng mạnh về
giao dịch đất nông nghiệp thông qua hình
thức chuyển nhượng, nhưng sau năm 2003
thì quy mô bắt đầu giảm xuống.
Trong những năm qua, đặc biệt là sau
khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành,
CHÑNH SAÁCH
41Số 15(391) T8/2019
tình hình chuyển nhượng đất giữa các hộ có
sự thay đổi nhất định. Ở các tỉnh đồng bằng
sông Hồng, số thửa ruộng của một hộ có
giảm đi, nhưng quy mô đất canh tác của một
hộ nông dân tăng không đáng kể do các hộ
nông dân không muốn nhượng QSDĐ nông
nghiệp cho người khác. Ở các vùng chuyên
canh phía Nam, tình hình chuyển nhượng
QSDĐ nông nghiệp đạt kết quả khá hơn ở
phía Bắc nhưng cũng chưa tạo đủ tiền đề để
hình thành nền kinh tế trang trại quy mô lớn
một cách phổ biến.
Hình thức chuyển nhượng đất giữa các
hộ là hình thức khá hiệu quả đối với các hộ có
nhu cầu mở rộng SXNN, là một trong những
hình thức nên được khuyến khích. Đặc biệt,
những nông dân giỏi, có năng lực tài chính
lựa chọn hình thức mua đứt bán đoạn các
mảnh đất xung quanh khu đất của mình qua
từng năm để hình thành quy mô đủ lớn là
phù hợp nhất. Hình thức này có tiềm năng
thực hiện ở phía Nam, đặc biệt vùng Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long, người dân có tư tưởng thoáng
hơn về mua bán đất do không bị nặng nề
tâm lý giữ đất như một hình thức bảo hiểm
hoặc do các nguyên nhân về văn hóa truyền
thống. Hiệu quả kinh tế của hình thức này
tương đối cao do các nông dân sản xuất giỏi
sẽ chủ động tích tụ đất, áp dụng khoa học kỹ
thuật và cơ giới hóa trong dài hạn để nâng
cao hiệu quả sản xuất. Thêm vào đó, họ nắm
giữ QSDĐ nên yên tâm đầu tư phát triển lâu
dài, có thế chấp vay vốn các tổ chức tín dụng
để sản xuất kinh doanh. Việc nông dân nhận
quyền sử dụng từ nông dân khác cũng có
nhiều thuận lợi do mối quan hệ cộng đồng
làng xã láng giềng, hoặc bạn bè nên dễ tiếp
cận và thuyết phục hộ có khả năng chuyển
nhượng đất hơn.
Cản trở chính của hình thức tích tụ ruộng
đất này là nguồn cung đất hạn chế khi lao
động nông nghiệp dôi dư còn tương đối cao,
tâm lý lo ngại công việc không ổn định, khi
gặp khó khăn đất nông nghiệp vẫn là tài sản
để bảo đảm cuộc sống nên ít hộ sẵn sàng bán
đất (đặc biệt là ở các tỉnh miền Bắc). Giá đất
nhận chuyển nhượng ngày càng tăng cũng
là nguyên nhân khiến cho nông dân ngày
càng khó tiếp cận với thị trường này. Nhiều
hợp đồng chuyển nhượng đất giữa các hộ
chỉ được xác nhận bằng giấy viết tay giữa
các hộ, có sự làm chứng của các hộ xung
quanh nên cơ sở pháp lý không vững chắc.
Trong khi đó, khung pháp lý hiện tại vẫn
còn nhiều hạn chế khi đặt ra hạn mức nhận
chuyển nhượng, quy định đối tượng nhận
chuyển nhượng đối với đất lúa, rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng và thuế chuyển nhượng
đất nông nghiệp cao tương đương như các
bất động sản khác. Hơn nữa, chưa có quy
định về diện tích tối thiểu hoặc thuế thừa kế
QSDĐ nông nghiệp khi tách hộ. Bên cạnh
đó, việc chuyển nhượng đất nông nghiệp sẽ
phải nộp thuế thu nhập cá nhân ở mức 2%
của giá chuyển nhượng là con số cao so với
lợi nhuận có thể tạo ra từ SXNN.
2.1.2 Hình thức doanh nghiệp nhận
chuyển nhượng đất của nông dân
Đây là hình thức doanh nghiệp nhận
chuyển nhượng đất của nhiều hộ nông dân
trong cùng một vùng liền kề với nhau, sau
đó đăng ký thuê lại của chính quyền địa
phương, để tạo ra một vùng nguyên liệu
nông nghiệp cung cấp cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp sẽ có một vùng nguyên liệu ổn định
để đầu tư dài hạn, có thể sử dụng QSDĐ để
thế chấp vay vốn từ các tổ chức tín dụng.
Về phía nông dân thì có thêm một khoản tài
chính đề đầu tư chuyển đổi nghề nghiệp khi
thấy nghề nông đã không còn đem lại hiệu
quả kinh tế cao đối với họ hoặc họ có thể
được ưu tiên làm thuê cho doanh nghiệp.
Thời gian qua, số lượng doanh nghiệp
đã tăng nhiều so với năm 2007, tuy nhiên
số doanh nghiệp làm nông, lâm, thủy sản
vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chỉ khoảng 1,4%
CHÑNH SAÁCH
42 Số 15(391) T8/2019
trong tổng số doanh nghiệp, trong đó có đến
96% là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Các tỉnh ở miền Nam có quy mô diện tích
trung bình hộ lớn nên doanh nghiệp sẽ thuận
lợi hơn trong việc mua đất từ nông dân để
sản xuất lớn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên,
giá đất chuyển nhượng cao hiện là cản trở
lớn đối với doanh nghiệp muốn tích tụ, đặc
biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thêm vào đó, nông dân cũng chưa sẵn
sàng bán đất cho doanh nghiệp. Việc tích tụ
diện tích theo nhu cầu của doanh nghiệp sẽ
gặp một số khó khăn nếu diện tích mà các
hộ sẵn sàng bán chưa đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp. Một vấn đề vướng mắc khác
trong việc thực hiện các giao dịch mua đất
của doanh nghiệp với hộ dân là việc mảnh
đất của hộ chưa có sổ đỏ hoặc mảnh đất của
hộ đang thế chấp tại ngân hàng.
Doanh nghiệp cũng ít chủ động mua
đất nông nghiệp của hộ nông nghiệp để sản
xuất quy mô lớn vì giá mua đất nông nghiệp
cao (giá giao dịch hiện tại ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long vào khoảng 1 - 2 tỷ đồng/ha
đối với đất lúa, 3 - 5 tỷ đồng/ha đối với đất
vườn) nên khó tạo ra lợi nhuận đủ hấp dẫn
so với số vốn bỏ ra ban đầu để mua đất nếu
chỉ SXNN. Thông thường, doanh nghiệp
thực sự đầu tư kinh doanh nông nghiệp chỉ
mua đất trong trường hợp của các hộ liền kề
hoặc nằm rải rác ở giữa vùng chuyên canh
đã được quy hoạch của họ.
Không chỉ về vấn đề giá mà việc thỏa
thuận giá với mỗi người dân để hình thành
quy mô đất đủ lớn quá phức tạp và tốn thời
gian nên hình thức này vẫn chưa phổ biến.
Ngoài ra, việc giới hạn đối tượng nhận
chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp, thuế
và phí liên quan đến chuyển nhượng đất
(bao gồm rất nhiều loại thuế, phí như thuế
thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ, lệ phí
địa chính, lệ phí thẩm định) làm tăng chi
phí đầu tư cho doanh nghiệp, thủ tục hành
chính nhận QSDĐ nông nghiệp còn nhiều
phức tạp (Viện Chính sách và Chiến lược
PTNNNT, 2016) cũng là một lý do cản trở
việc doanh nghiệp đầu tư mua đất mở rộng
sản xuất. Mặt khác, Luật Đất đai năm 2013
quy định theo hướng hạn chế các trường hợp
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội, mặc dù đã có
cơ chế tự thỏa thuận nhận QSDĐ để thực
hiện dự án đầu tư nhưng nhiều trường hợp
khó đạt được sự đồng thuận cao của người
sử dụng đất nên khó tích tụ được đất đai.
Như vậy, để áp dụng hình thức này,
doanh nghiệp cần tiếp cận với nguồn cung
đất đủ lớn để có thể đầu tư quy mô lớn. Chí
phí đầu tư ban đầu để doanh nghiệp mua đất
là quá lớn so với lợi nhuận doanh nghiệp
có thể tạo ra từ sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp, do đó doanh nghiệp cần nguồn vốn
tín dụng lớn và trong thời gian đủ để hoạt
động nông nghiệp có thể sinh lời (thường là
từ 5 năm trở lên nếu trồng các loại cây ăn trái
và 2 năm trở lên đối với các loại rau mầu).
Doanh nghiệp cũng rất cần được giảm chi
phí giao dịch và đơn giản hóa thủ tục. Cần
có một đầu mối trung gian để thực hiện giao
dịch vì nếu muốn tập trung một diện tích đủ
lớn, doanh nghiệp phải làm hợp đồng với rất
nhiều hộ dân với nhu cầu giá cả khác nhau.
2.2 Bước đầu đánh giá hiệu quả của các
hình thức tích tụ đất và những vấn đề
nảy sinh trong quá trình tích tụ đất trong
nông nghiệp
Nhu cầu tích tụ đất đai để SXNN với quy
mô lớn là rất cần thiết tại các địa phương.
Các địa phương đã tích cực, chủ động triển
khai nhiều giải pháp đẩy mạnh tích tụ đất đai
để sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn
phù hợp với đặc điểm của địa phương mình.
Các quy định của pháp luật về quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng
QSDĐ đã đáp ứng được một phần nhu cầu
tích tụ đất nông nghiệp để sản xuất, tác động
tích cực trong việc đầu tư trên đất, tạo điều
kiện cho nhà đầu tư yên tâm đầu tư.
CHÑNH SAÁCH
43Số 15(391) T8/2019
Thực tế cho thấy, mặc dù các mô hình
tích tụ ruộng đất hiện nay đều mang lại hiệu
quả kinh tế - xã hội nhất định cho các bên
tham gia nhưng những khó khăn trong việc
tích tụ đất đai đang là rào cản thu hút cá nhân,
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Trong
khi đó đầu tư vào nông nghiệp rủi ro lớn,
thời gian thu hồi vốn dài. Hiện nay, không
nhiều mô hình tích tụ đất đai đạt được cả ba
tiêu chí: công bằng, bền vững và hiệu quả.
Bước đầu, chúng ta có thể đánh giá hiệu
quả của các hình thức tích tụ đất và những
vấn đề nảy sinh trong quá trình tích tụ đất
trong nông nghiệp như sau:
2.2.1 Hình thức chuyển nhượng QSDĐ
nông nghiệp giữa các hộ nông dân với nhau
Điều kiện để áp dụng hình thức chuyển
nhượng QSDĐ nông nghiệp giữa các hộ
nông dân với nhau là người dân phải có nhu
cầu mua/bán QSDĐ nông nghiệp và nền sản
xuất hàng hóa nông nghiệp tại địa phương
đó đang phát triển mạnh.
Hình thức chuyển nhượng QSDĐ nông
nghiệp này có một số ưu điểm sau:
- Khung pháp lý và chính sách hiện
hành đã khá đầy đủ để thực hiện giao dịch.
- Việc mua đứt bán đoạn tạo ra sự yên
tâm đầu tư sản xuất kinh doanh dài hạn, bền
vững.
Tuy nhiên, hình thức chuyển nhượng
QSDĐ nông nghiệp này có một số hạn chế
đáng kể như:
- Nguồn cung đất không phong phú,
không tập trung nên không có nhiều sự lựa
chọn.
- Người chuyển nhượng QSDĐ nông
nghiệp thường đòi giá cao, không hợp lý
- Vốn của hộ nhận chuyển nhượng
QSDĐ nông nghiệp thường không có nhiều
nên chỉ có thể thực hiện việc chuyển nhượng
một cách nhỏ lẻ, không tích tụ lớn được để
sản xuất quy mô.
- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp SXNN
mới được nhận chuyển nhượng QSDĐ
trồng lúa theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013.
- Quy mô bị giới hạn bởi hạn mức nhận
chuyển QSDĐ theo Luật Đất đai năm 2013
- Thủ tục hành chính hay gặp khó khăn
vì phải xác định các nghĩa vụ tài chính của
người chuyển nhượng QSDĐ và đo đạc lại
mảnh đất. Người mua QSDĐ phải trả lệ
phí trước bạ cũng như chi phí cấp đổi giấy
chứng nhận QSDĐ.
Để phát huy ưu điểm và khắc phục
các trở ngại của hình thức chuyển nhượng
QSDĐ nông nghiệp này, Nhà nước cần có
các chính sách:
- Có chính sách và có quỹ để hỗ trợ rút
người lao động ra khỏi khu vực SXNN để
tạo quỹ đất.
- Phát triển bảo hiểm xã hội cho những
người nông dân rời bỏ khu vực nông nghiệp,
tham gia vào lĩnh vực phi nông nghiệp tại
nông thôn và đô thị.
- Xây dựng hệ thống quản lý đất đai
điện tử để cung cấp thông tin số hóa về
QSDĐ và giao dịch bất động sản, từ bỏ sự
phụ thuộc vào “Sổ đỏ” và yêu cầu bắt buộc
phải đăng ký vào Sổ địa chính của cơ quan
đăng ký đất đai;
2.2.2 Hình thức doanh nghiệp nhận
chuyển nhượng đất của nông dân
Hình thức doanh nghiệp nhận chuyển
nhượng đất của nông dân cần có điều kiện áp
dụng là nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp
phát triển mạnh, mức độ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của địa phương nhanh, số lao
động nông nghiệp ra khỏi khu vực SXNN
nhiều, các doanh nghiệp kinh doanh trong
các ngành công nghiệp - dịch vụ hỗ trợ
SXNN đầu tư lớn và rộng khắp.
Hình thức doanh nghiệp nhận chuyển
nhượng đất của nông dân có nhiều ưu điểm
dễ thấy như:
CHÑNH SAÁCH
44 Số 15(391) T8/2019
- Khung pháp lý và chính sách hiện
hành có đầy đủ để thực hiện giao dịch.
- Hoạt động “mua đứt bán đoạn” QSDĐ
tạo ra sự yên tâm để nhà đầu tư kinh doanh
sản xuất dài hạn, bền vững.
- Doanh nghiệp không bị hạn chế về
diện tích có thể nhận chuyển nhượng để đăng
ký thuê lại của chính quyền địa phương.
- Doanh nghiệp có đủ vốn để tích tụ đất
sản xuất quy mô lớn, tăng năng suất, giảm
chi phí.
- Doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn vốn
từ ngân hàng.
Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp phải
một số khó khăn, vướng mắc, như:
- Nguồn cung đất không phong phú nên
không có nhiều sự lựa chọn.
- Chí phí đầu tư ban đầu để doanh
nghiệp mua QSDĐ đất là quá lớn so với
lợi nhuận doanh nghiệp có thể tạo ra từ sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp.
- Chi phí giao dịch cao, thủ tục phức
tạp, một phần là do để có diện tích đủ lớn,
doanh nghiệp phải làm việc với nhiều hộ có
nhu cầu và điều kiện đa dạng.
- Thủ tục phức tạp vì sau khi doanh
nghiệp nhận chuyển nhượng QSDĐ của các
hộ nông dân thì doanh nghiệp phải thực hiện
việc chuyển sang hình thức cho thuê chứ
không được cấp giấy chứng nhận QSDĐ
theo quy định tại Luật Đất đai năm 20132.
- Thiếu thông tin về giá đất, giá đất đa
dạng, thỏa thuận khó.
- Không áp dụng đối với đất lúa, đất
rừng phòng hộ như quy định của Luật Đất
đai năm 2013.
2 Mặc dù số tiền mà doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đã trả để nhận chuyển nhượng QSDĐ được khấu trừ vào tiền thuê đất
phải nộp theo điểm a khoản 4 Điều 12 Nghị định 46/2014/NĐ-CP và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Thông tư 77/2014/
TT-BTC nhưng doanh nghiệp vẫn không mặn mà thực hiện. Doanh nghiệp thường lựa chọn hình thức viết giấy trao tay
và giữ nguyên tên chủ sở hữu.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp nhận chuyển nhượng QSDĐ của
nông dân, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước
tương tự như trường hợp chuyển nhượng đất
giữa các hộ nông nghiệp với nhau, Nhà nước
cần đổi mới các chương trình đào tạo nghề
nông thôn, huy động sự tham gia của doanh
nghiệp thuê lao động đào tạo nghề theo nhu
cầu của doanh nghiệp sử dụng lao động,
đồng thời thành lập các tổ chức (như Trung
tâm Phát triển quỹ đất, Trung tâm Thông tin,
tư vấn về đất đai) để hỗ trợ, tư vấn pháp lý
cho nông dân trong các giao dịch về đất đai
(sử dụng nguồn lực từ quỹ phát triển đất).
Nhìn chung, hiện nay các hình thức tích tụ
ruộng đất đã có hiệu quả tại nhiều địa phương,
nhưng trên thực tế, vẫn còn nhiều khó khăn,
vướng mắc trong việc tích tụ đất đai. Các khó
khăn, vướng mắc này đang tạo nên một số rào
cản nhất định trong việc thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp cũng như nông dân
muốn liên kết mở rộng sản xuất.
Tuy nhiên, với những tác động kinh tế -
xã hội to lớn và khả năng áp dụng cao, các
mô hình tích tụ ruộng đất hiện nay đã khẳng
định tính tất yếu để chuyển đổi mô hình
SXNN, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội
cho các thành phần tham gia vào quá trình
công nghiệp, hóa hiện đại hóa.
3. Một số kiến nghị
Để đẩy mạnh quá trình tích tụ ruộng đất,
khuyến khích nông dân, doanh nghiệp tích
tụ đất nông nghiệp phục vụ sản xuất quy mô
lớn, tăng hiệu quả SXNN, cải thiện đời sống
cho nông dân, trong thời gian tới, Nhà nước
cần tiếp tục thực hiện các giải pháp sau:
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính
sách tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, cụ
CHÑNH SAÁCH
45Số 15(391) T8/2019
thể: i) Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm
2013 theo hướng quy định rõ ràng việc
góp vốn chuyển QSDĐ và góp vốn không
chuyển QSDĐ. Xây dựng cơ chế pháp lý để
doanh nghiệp nhận góp vốn thông qua nhận
QSDĐ có thể thế chấp để vay vốn ngân
hàng; ii) Thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông
nghiệp thông qua tạo điều kiện thuận lợi cho
việc mua bán chuyển nhượng QSDĐ; iii) Hỗ
trợ về cơ sở hạ tầng đối với các diện tích mới
được tích tụ, tập trung; iv) Quy hoạch vùng
chuyên canh, đẩy mạnh đầu tư theo hình
thức đối tác công + tư để xây dựng cơ sở hạ
tầng hoàn chỉnh thu hút đầu tư của doanh
nghiệp, HTX.
- Trong lĩnh vực trồng trọt, cần nới lỏng
quy định cho phép cá nhân không phải hộ
nông nghiệp hoặc không sống cùng địa bàn
được nhận chuyển nhượng đất lúa và đất
rừng phòng hộ. Giao cho địa phương thẩm
định phương án chuyển đổi mục đích sử
dụng đất lúa sang các mục đích nông nghiệp,
chăn nuôi và thủy sản với diện tích dưới 300
ha theo quy hoạch.
- Đẩy mạnh tín dụng cho vay theo chuỗi
giá trị nông nghiệp: (i) Hoàn thiện khung
pháp lý để phát triển cung ứng đồng bộ các
sản phẩm dịch vụ tài chính mới (như quản
lý tiền mặt, quản lý tài sản, bảo hiểm thanh
toán, bảo hiểm nhân thọ, phái sinh hàng hóa,
đại lý ngân hàng, biên nhận lưu kho) nhằm
tăng khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô
lớn và dài hạn hơn cho nông dân, trang trại,
HTX và doanh nghiệp trong nông nghiệp,
nông thôn; (ii) Xây dựng cơ chế chính sách
kết hợp chặt chẽ giữa các chương trình cho
vay và bảo hiểm nông nghiệp theo chuỗi giá
trị nông nghiệp.
- Bỏ hạn mức nhận chuyển QSDĐ nông
nghiệp đối với hộ gia đình tại Khoản 1 Điều
130 Luật Đất đai năm 2013. Sử dụng hạn
mức nhận chuyển nhượng hiện nay làm hạn
mức đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Nới lỏng quy định tại khoản 3 Điều
191 Luật Đất đai 2013 theo hướng cho phép
hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp SXNN
được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho
quyền sử dụng đất trồng lúa.
- Sửa khoản 2 Điều 191 Luật Đất đai
năm 2013 “Tổ chức kinh tế không được
nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa, đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia
đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển
mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt” theo hướng cho
phép tổ chức kinh tế trong nước được phép
nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa, đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia
đình, cá nhân nếu tổ chức kinh tế trong nước
đó đáp ứng được một số điều kiện về kinh
tế và tiêu chuẩn về môi trường nhất định.
Sửa đổi quy định này là tạo điều kiện để các
hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng QSDĐ
trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng của hộ gia đình mình cho tổ chức kinh
tế trong nước.
- Giảm thuế, phí liên quan đến chuyển
nhượng đất nông nghiệp tại Luật sửa đổi các
Luật về Thuế năm 2014.
- Không xác định trường hợp các hộ
chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp vì mục
đích tích tụ và tập trung đất nông nghiệp là
chuyển nhượng bất động sản quy định tại
Điều 14 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm
2007 và miễn thuế thu nhập cá nhân đối với
trường hợp hộ chuyển nhượng QSDĐ nông
nghiệp vì mục đích tích tụ và tập trung đất
nông nghiệp sản xuất quy mô lớn.
- Xây dựng cơ chế minh bạch thông tin
về đất đai
CHÑNH SAÁCH
46 Số 15(391) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tich_tu_dat_trong_nong_nghiep_thuc_trang_va_cac_kien_nghi_ch.pdf