Tăng cường việc hoàn thiện xác nhận lại
quyền sử dụng đất: Hiện nay, việc chuyển quyền
sử dụng đất đang diện ra rất phổ biến ở nhiều
địa phương khác nhau trong cả nước, đặc biệt từ
khi có chính sách dồn điền đổi thửa. Trên thực
tế, nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất của gia
đình khác và gia đình khác đang sử dụng đất
của gia đình mình mà không cần đăng ký lại
quyền sử dụng đất. Việc chưa tiến hành đăng ký
lại (sang tên, đổi chủ) do nhiều nguyên nhân,
cả từ phía hộ gia đình, cả từ phía cơ quan nhà
nước. Về phía hộ gia đình không muốn đăng
ký lại bởi vì thủ tục phức tạp, chi phí phải trả
như thuế trước bạ, lệ phí còn cao vượt quá khả
năng đối với phần lớn hộ gia đình. Hơn nữa, họ
không đăng ký lại cũng chưa ảnh hưởng gì đến
quyền lợi của họ. Về phía nhà nước, việc tiến
hành đăng ký lại phải tốn nhiều thời gian, kinh
phí vì phải đo đạc lại hiện trạng đất, lập lại bản
đồ, điều chỉnh lại quy hoạch (nếu có) và chi phí
in lại giấy chứng nhận. Việc không đăng ký lại
sẽ tiềm ẩn nhiều tranh chấp hơn nữa sẽ khó khi
thực hiện các lần chuyển nhượng kế tiếp. Do đó,
để thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất phát
triển, thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất phải được nhà nước đảm bảo thực hiện
dễ dàng, nhanh chóng, Nhà nước phải xem đây
là dịch vụ công phục vụ nhân dân.
Tăng cường công tác cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu cho các đối tượng
sử dụng đất: Hiện nay, cả nước còn khoảng 5%
tổng diện tích đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lần đầu vì các loại đất
này có nguồn gốc sử dụng đất phức tạp, đất đang
có tranh chấp, xây dựng trái phép, giao đất trái
thẩm quyền, đất lấn chiếm v.v. Vì thế, trong thời
gian tới nhà nước nên sớm hoàn thiện thủ tục
như hoàn thành công tác đo đạc, quy hoạch, lập
bản đồ địa chính, giải quyết các tranh chấp.
để cấp hết số diện tích đất còn lại này để tăng
cường khối lượng cung về quyền sử dụng đất ra
thị trường.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tích tụ, tập trung ruộng đất ở Việt Nam và đề xuất hướng phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÍCH TỤ, TẬP TRUNG RUỘNG ĐẤT Ở VIỆT NAM VÀ
ĐỀ XUẤT HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Kiều Đỗ Minh Luân1 *
TÓM TẮT
Tổ chức lại sản xuất của nông dân cá thể với mảnh, thửa ruộng phân tán, nhỏ lẻ trên cơ sở liên
kết chặt chẽ với doanh nghiệp công nghệ cao để tái cấu trúc nền nông nghiệp theo hướng hữu cơ,
hiện đại và bền vững đang là một vấn đề cơ bản trong phát triển của Việt Nam hiện nay dưới tác động
trực tiếp, mạnh mẽ của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu. Chỉ trên cơ sở tích
tụ và tập trung đất nông nghiệp trên nền tảng một tư duy thị trường đúng đắn và thực thi chính sách
hạn điền linh hoạt cùng với sự ưu đãi đủ mức độ hấp dẫn của Nhà nước về thuế, tín dụng thì mới tạo
được những đột phá mới trong liên kết giữa doanh nghiệp và các hộ nông dân, hợp tác xã để phát
triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Bài viết giới thiệu một số hình thức tích tụ và
tập trung ruộng đất hiện nay trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp đẩy mạnh để phát triển bền
vững trong tương lai.
Từ khóa: Tích tụ, tập trung, ruộng đất, doanh nghiệp, nông dân.
ANALYZING AND FOCUSING THE LAND OF THE LAND IN VIETNAM
AND PROPOSAL OF DEVELOPMENT ORIENTATIONS
ABSTRACT
Reorganize production of individual farmers with scattered and small plots based on close links
with high-tech enterprises to restructure agriculture towards organic, modern and sustainable This
is a fundamental issue in Vietnam’s current development under the direct and strong impact of the
market economy, international integration and climate change. Only on the basis of accumulating
and concentrating agricultural land on the basis of a proper market mindset and implementing
flexible policy of land filling with the preferential level of attractiveness of the State on tax and credit,
new breakthroughs in linkages between businesses and farmers and cooperatives have been created
to develop high-tech agriculture and clean agriculture. The article introduces some current forms
of land accumulation and concentration on the basis of which offer solutions to promote sustainable
development in the future.
Keywords: Accumulation, concentration, land, enterprises, farmers.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện cả nước có gần 14 triệu hộ nông dân với khoảng 78 triệu mảnh ruộng. Tình trạng nông dân
“bỏ ruộng” đã trở thành hiện tượng lan rộng ở nhiều tỉnh, nhất là ở các tỉnh khu vực Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tập trung đất đai luôn được coi là một
công cụ hoặc điểm xuất phát cho phát triển nông thôn. Sản xuất hàng hoá quy mô lớn, tập trung, cần
* Th.S.GV. Trường Đại học An Giang. Email: kdmluan@gmail.com
87
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
đầu tư khoa học công nghệ trong khi sản xuất
riêng lẻ của hộ cá nhân không đáp ứng được yêu
cầu này nên tất yếu có nhu cầu hợp tác sản xuất
kinh doanh dưới các hình thức thích hợp. Đó là
hợp tác sản xuất kinh doanh từ khâu sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm, góp vốn với các doanh
nghiệp nông nghiệp. Vì vậy, để phát triển bền
vững và hội nhập kinh tế quốc tế, cần đẩy mạnh
tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm tạo điều kiện,
khuyến khích các thành phần kinh tế tổ chức sản
xuất hàng hóa, hình thành các vùng chuyên canh
lớn tập trung, ứng dụng công nghệ cao giúp nâng
cao giá trị nông sản Việt Nam hướng đến sự phát
triển bền vững trong tương lai.
2. MỘT SỐ HÌNH THỨC TÍCH TỤ, TẬP
TRUNG RUỘNG ĐẤT TRONG NÔNG
THÔN HIỆN NAY
Tích tụ ruộng đất là một dạng tích tụ tư bản
dưới hình thức hiện vật trong nông nghiệp, biểu
hiện về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình
công nghiệp hóa nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa và chuyên môn hóa. Do đặc điểm
của sản xuất nông nghiệp với đối tượng là các
cây trồng, vật nuôi mang tính sinh học, nên tích
tụ ruộng đất trong nông nghiệp cũng phải phù
hợp và thúc đẩy phát huy lợi thế so sánh theo
quy mô của đơn vị sản xuất nông nghiệp trên
các vùng sinh thái khác nhau dựa trên các đặc
điểm sản xuất do tính sinh học của cây trồng,
vật nuôi quy định. Ruộng đất được tích tụ sẽ
khuyến khích nông dân, các nhà đầu tư nông
nghiệp thay đổi cung cách sản xuất, chuyển từ
sản xuất manh mún, tự cấp tự túc sang sản xuất
hàng hóa, có điều kiện ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất để nâng cao nĕng suất và hiệu quả
sản xuất. Vì vậy, tích tụ ruộng đất trong sản xuất
nông nghiệp hàng hóa là xu thế tất yếu của trong
hội nhập kinh tế và phân công lao động quốc tế.
Ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra các hình
thức tích tụ ruộng đất chính như sau: (i) Tích tụ
ruộng đất bằng lập trang trại thông qua giao đất,
thuê, mua, mượn thừa kế, cho tặng đất đai để
phát triển kinh tế trang trại có quy mô từ nhỏ đến
lớn; (ii) Tích tụ ruộng đất thông qua dồn điền,
đổi thửa để phát triển kinh tế nông hộ nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế; (iii) Tích tụ ruộng đất
thông qua việc các hộ nông dân tự nguyện góp
đất, vốn mua máy lập tổ hợp tác sản xuất chế
biến và tiêu thụ sản phẩm; (iv) tích tụ ruộng đất
thông qua hợp đồng liên kết với doanh nghiệp
hình thành nên chuỗi giá trị hàng nông sản.
2.1. Tích tụ, tập trung ruộng đất để phát
triển kinh tế hộ gia đình
Kết quả giao đất nông nghiệp cho hộ nông
dân được thực hiện vào những nĕm đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX thể hiện nặng tính bình
quân chủ nghĩa. Mặt tích cực của cách làm này
là tạo được sự công bằng nhưng cũng kéo theo
hệ lụy là đất đai được giao của hộ rất manh mún,
ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất.
Để khuyến khích nông dân tập trung đất nông
nghiệp phục vụ sản xuất quy mô lớn, Chính phủ
đã ban hành chỉ thị số 10/1998/ CT - TTg ngày
20 tháng 2 nĕm 1998 và Chỉ thị số 18/1999 /CT-
TTg ngày 01 tháng 7 nĕm 1999, khuyến khích
nông dân, Chính quyền địa phương các cấp xây
dựng phương án chuyển đổi ruộng đất từ thửa
nhỏ manh mún dồn thành những thửa lớn thuận
tiện cho việc sản xuất nông nghiệp
Thực tế cả quá trình dồn điền đổi thửa thời
gian qua đã tạo được một số kết quả quan trọng,
tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu của sản
xuất nông nghiệp hàng hóa của hộ gia đình nông
dân. Kết quả Điều tra hộ gia đình nông thôn Việt
Nam do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương phối hợp cùng với Viện Chính sách Chiến
lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Viện
Khoa học Lao động Xã hội và Trường đại học
tổng hợp Copenhagen (Đan Mạch) thực hiện 2
nĕm một lần từ nĕm 2006 đến nay cho thấy bình
quân mảnh đất/hộ giảm rất chậm từ 4,9 mảnh/
hộ nĕm 2006 xuống 4,6 mảnh/hộ nĕm 2010,
nĕm 2012 là 4,4 mảnh và đến 2014 vẫn còn 4
88
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
mảnh/hộ. Điều đáng nói là quy mô bình quân
mỗi mảnh đất của hộ nông dân cũng chỉ tĕng
rất chậm và số hộ có nhiều mảnh đất vẫn còn
cao. Một điểm đáng lưu ý là những hộ giàu nhất
lại là những hộ có ít đất nông nghiệp nhất, điều
đó cho thấy trong điều kiện Việt Nam hiện nay
thì với quy mô diện tích đất hiện nay thì khó có
thể làm giàu từ nông nghiệp được. Vì vậy trong
những nĕm gần đây nhiều địa phương đang đẩy
mạnh kết hợp việc dồn điền đổi thửa gắn với
quy hoạch đồng ruộng và quy hoạch sử dụng đất
cho phát triển kinh tế nông thôn phục vụ chương
trình Nông thôn mới.
2.2. Tích tụ, tập trung ruộng đất để phát
triển kinh tế hộ trang trại
Ngày 02 tháng 02 nĕm 2000 Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP nhằm
tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho sự
phát triển kinh tế trang trại, theo đó, Nhà nước
khuyến khích và đảm bảo cho sự phát triển của
kinh tế trang trại. Hộ gia đình, cá nhân đầu tư
phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản
xuất kinh doanh. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất
đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm
sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy
mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những
hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có
nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong
nông nghiệp. Nhà nước còn hỗ trợ về vốn, khoa
học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây
dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho
các trang trại phát triển bền vững.
Cùng với hộ gia đình và trang trại, một số
công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài cũng thuê đất của nông dân hoặc
đất công để tổ chức sản xuất nông nghiệp. Phần
lớn các doanh nghiệp sản xuất các loại nông sản
hàng hoá chất lượng cao như rau an toàn, hoa,
cây cảnh, chĕn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
2.3. Tích tụ ruộng đất qua hình thức liên kết
hình thành hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nông
nghiệp
Trong hình thức này một số hộ gia đình
liên kết lại với nhau để hình thành hợp tác xã, tổ
hợp tác. Các thành viên cùng nhau góp đất đai,
vốn liếng để tổ chức sản xuất nông nghiệp; trong
đó hợp tác xã, tổ hợp tác thực hiện vai trò cung
cấp dịch vụ cung ứng vật tư đầu vào, dịch vụ kỹ
thuật cho sản xuất, cũng như tiêu thụ sản phẩm
do các thành viên sản xuất ra. Thực tế tại nhiều
địa phương đã hình thành các hợp tác xã, tổ hợp
tác sản xuất rau, hoa quả theo hình thức này
và mang lại hiệu quả tích cực.
2.4. Tích tụ, tập trung ruộng đất thông qua
liên kết với doanh nghiệp hình thành nên chuỗi
giá trị hàng nông sản
Trong mô hình này, doanh nghiệp đóng vai
trò là đầu tàu của chuỗi giá trị hàng nông sản.
Doanh nghiệp có nhiều hình thức trong liên kết
với nông dân như: (i) Nông dân góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp
để trở thành cổ đông, trở thành công nhân của
doanh nghiệp và nhận được cổ tức theo cổ phần
đóng góp; (ii) Nông dân cho doanh nghiệp thuê
đất có thời hạn để tổ chức sản xuất nông nghiệp,
thời hạn cho thuê đủ dài để doanh nghiệp yên
tâm đầu tư sản xuất kinh doanh, quyền sử dụng
đất vẫn thuộc về hộ nông dân và nông dân vẫn
có thể được doanh nghiệp thuê để canh tác trên
đúng ruộng đất của mình nhưng theo quy trình
canh tác chung của doanh nghiệp; (iii) Mô hình
cánh đồng lớn, đây là mô hình được kế thừa từ
rất nhiều các mô hình sản xuất nông nghiệp trước
đây, các hộ nông dân hợp tác với nhau cùng nhau
tổ chức sản xuất chung dưới sự hỗ trợ cung cấp
vật tư, bao tiêu sản phẩn của các Công ty hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp.
Mục đích của cách làm này là khắc phục tình
trạng ruộng đất manh mún, không đồng nhất,
gắn kết chuỗi sản xuất nông nghiệp từ khâu sản
xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Như vậy “cánh
đồng lớn” là hình thức canh tác tập trung, một
89
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
hình thức hành động tập thể mà ở đó cánh đồng
có thể một chủ hoặc nhiều chủ nhưng cùng được
thực hiện một quy trình canh tác thống nhất,
cùng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cung ứng
đồng đều và ổn định về số lượng và chất lượng
sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Đây là
nhân tố tích cực tác động mạnh đến nhận thức
tích tụ ruộng đất của các hộ nông dân và các đơn
vị hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp
sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả hơn.
Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, từ khi phát động mô
hình “Cánh đồng lớn” đã nhận được sự hưởng
ứng mạnh mẽ của nhiều địa phương, được coi
là hướng mở ra cho nhiều nông sản hàng hóa
trong giải quyết bất cập về đất đai manh mún
của hộ nông dân và yêu cầu tập trung quy mô
lớn của sản xuất hàng hóa. Diện tích tham gia
“cánh đồng mẫu lớn” tĕng lên nhanh chóng từ
8 ngàn ha từ vụ hè thu 2011 lên 20 ngàn ha vụ
đông xuân 2011-2012 và đến vụ hè thu 2012
tĕng lên trên 30 ngàn ha. Từ nĕm 2013 đến hết
vụ Đông Xuân nĕm 2015 đã có hàng ngàn mô
hình cánh đồng lớn được liên kết, xây dựng ở
các địa phương với diện tích khoảng 556.000
ha, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long có
diện tích thực hiện liên kết lớn nhất là 450.000
ha. Mô hình đã lôi cuốn được sự tham gia mạnh
mẽ của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và đã
phát triển tại nhiều tỉnh phía Bắc.
3. NHỮNG KHÓ KHĔN VÀ BẤT CẬP
TRONG THỰC HIỆN TÍCH TỤ, TẬP
TRUNG ĐẤT ĐAI
3.1. Thị trường quyền sử dụng đất trong
nông thôn còn chậm phát triển
Thị trường quyền sử dụng đất trong nông
thôn chưa phát triển cả về thị trường mua bán
cũng như thị trường thuê đất; ngoài ra hoạt động
của các thị trường này cũng không đồng đều
giữa các vùng, miền. Có thể thấy dấu ấn rất rõ
nét của thị trường sơ cấp về quyền sử dụng đất
nông nghiệp ở nông thôn thông qua tỷ lệ lớn các
mảnh đất của hộ có được là do Nhà nước giao
đất. Theo thời gian, hoạt động giao dịch đất đai
của hộ diễn ra làm cho tỷ lệ mảnh đất do Nhà
nước giao có xu hướng giảm đi và tĕng tỷ lệ
mảnh đất có được qua mua bán, trao đổi trên thị
trường hoặc qua thừa kế. Điều đó cho thấy vai
trò của thị trường đất đai đang tĕng dần.
Đối với thị trường mua bán và cho thuê đất
trong nông thôn cho thấy thị trường mua bán
quyền sử dụng đất phát triển mạnh hơn tại các
tỉnh phía Nam nhưng thị trường cho thuê đất lại
chiếm ưu thế hơn tại các tỉnh phía Bắc.
Đối với thị trường mua bán đất. Ở các tỉnh
miền núi phía Bắc, các hộ có ruộng đất ít hơn
thường có xu hướng mua đất nhiều hơn. Điều
này lại ngược lại ở các tỉnh miền Nam. Ở các
tỉnh đồng bằng sông Hồng, các hộ giàu hơn có xu
hướng tham gia vào việc mua bán đất đai nhiều
hơn trong khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, các hộ có nhiều thành viên trong độ tuổi
lao động có xu hướng ít bán đất hơn, điều này
trái ngược với khu vực đồng bằng sông Hồng.
Các hộ có nhiều lao động hơn có xu hướng
thuê nhiều đất hơn. Các hộ có chủ hộ có trình độ
cao hơn có xu hướng thuê nhiều đất hơn, ngoại
trừ Tây Nguyên. Do đó, thị trường cho thuê đất
giúp dịch chuyển đất đai sang các hộ có khả
nĕng cao hơn với thu nhập thấp hơn và có nhiều
lao động nhàn rỗi hơn.
Như vậy có thể thấy thị trường mua bán đất ở
nông thôn Việt Nam còn kém phát triển, với rất
ít giao dịch diễn ra. Ở khía cạnh khác, các hoạt
động cho thuê đất đang có xu hướng gia tĕng và
có tác động khá tích cực đến tính công bằng và
hiệu quả. Riêng ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
hoạt động cho thuê đất đai hầu như rất ít, ít hơn
nhiều so với các vùng khác.
Hình thức chuyển nhượng đất phổ biến nhất
là chuyển cho người thân (con cái của chủ hộ).
Hình thức phổ biến thứ hai là chuyển/hiến đất
cho Nhà nước. Khoảng 14% các mảnh đất được
giao trở lại cho nhà nước là do thu hồi. Mặc dù
90
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
các hộ đều đã được nhận bồi thường, nhưng đa
phần họ không tự nguyện giao nộp lại các mảnh
đất của mình.
3.2. Chưa tháo gỡ được nguồn cung đất đai
trên thị trường
Hiện đất nông nghiệp được giao cho hộ gia
đình sử dụng (theo hình thức giao đất có thu tiền
sử dụng đất và giao đất không thu tiền sử dụng
đất, nhưng phần lớn hộ nông dân được giao đất
không thu tiền sử dụng đất). Việc sử dụng đất
nông nghiệp của hộ (trong hạn mức) được miễn
trả tiền thuế sử dụng đất. Ngoài ra nông dân còn
được miễn thủy lợi phí. Nên đối với nông dân,
đất nông nghiệp được coi như “của để dành” vì
vậy chỉ trừ một số ít trường hợp bị nhà nước thu
hồi, còn lại phần lớn nông dân vẫn có tâm lý
nắm giữ đất đai để đảm bảo sinh kế cho các thế
hệ con cháu sau này. Chính điều này làm hạn
chế nguồn cung đất đai trên thị trường.
3.3. Khả nĕng thu hút lao động ra khỏi nông
nghiệp còn yếu và đất đai đóng vai trò bảo hiểm
rủi ro cho lao động rút khỏi nông nghiệp
Nước ta có diện tích đất nông nghiệp vào loại
thấp trong khi số lượng lao động nông nghiệp
còn đông nên bình quân diện tích đất nông
nghiệp rất thấp. Đất nông nghiệp ít lại chia nhỏ
và manh mún nên hiệu quả sản xuất thấp. Trong
khi đó tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa
chưa thu hút được đáng kể số lượng lao động
nông nghiệp hiện có cũng như số lượng lao động
nông thôn đến tuổi lao động gia nhập vào lực
lượng lao động hàng nĕm lên tới 1 triệu người.
Trong khi đó một bộ phân lao động tuy thoát
khỏi nông nghiệp nhưng chỉ tham gia được vào
thị trường lao động phi chính thức trong khu
vực đô thị, trong bối cảnh đó đất đai trở thành
tài sản bảo hiểm rủi ro cho họ. Theo điều tra
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, thì
có tới 77% lực lượng lao động của Việt Nam là
thuộc về nhóm “lao động phi chính thức”, phần
lớn tại những khu vực nông thôn đất chật, người
đông thì phần lớn lao động nông thôn rút ra khu
vực đô thị, công nghiệp thì những lao động “phi
chính thức” này chấp nhận rủi ro rất lớn về tình
trạng mất việc làm và hoàn toàn không được bảo
đảm an sinh xã hội, vì vậy người lao động tuy
ra khỏi nông thôn nhưng vẫn giữ lại đất đai để
phòng khi bất trắc. Như vậy đất đai chuyển vai
trò từ “tư liệu sản xuất” thành “vật bảo hiểm rủi
ro”.
3.4. Lo ngại những bất ổn trong nông thôn
Mặc dù xã hội nông thôn đã có nhiều thay
đổi, nhưng quan điểm bình quân về đất đai và
đảm bảo “người cày có ruộng” dẫn đến đất nông
nghiệp rất manh mún và không tập trung vào
tay những người làm nông nghiệp giỏi được, có
nguyên nhân do những lo ngại bất ổn trong nông
thôn liên quan đến đất đai, nên tốt nhất vẫn giữ
bình quân để đảm bảo an toàn.
3.5. Tiềm lực kinh tế của kinh tế hộ còn quá
yếu, chưa có điều kiện tập trung ruộng đất
Quy mô của kinh tế hộ tuy đã có sự tiến bộ
nhưng chưa thoát khỏi tự cấp, tự túc, tiềm lực
về vốn, khoa học công nghệ, kỹ nĕng quản lý,
thâm nhập thị trường, thông tin, sản xuất hàng
hóa, quan hệ thị trường nên chưa có điều kiện
để tập trung ruộng đất. Bên cạnh đó kinh tế tập
thể chưa phát triển để hỗ trợ cho kinh tế hộ phát
triển theo hướng kinh tế trang trại sản xuất hàng
hóa.
3.6. Chưa động viên được sự tham gia của
khu vực doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn nhưng do
tỷ suất lợi nhuận nông nghiệp thấp, quy mô
đất đai của hộ manh mún, cơ sở hạ tầng nông
thôn chậm phát triển. nên chưa hấp dẫn các
nhà đầu tư quan tâm đầu tư vào nông nghiệp.
Thời gian gần đây, một số doanh nghiệp đã bắt
đầu đầu tư vào nông nghiệp theo mô hình cánh
đồng mẫu lớn, theo đó doanh nghiệp đóng vai
trò đầu tàu trong lôi kéo các tác nhân khác trong
chuỗi giá trị hàng nông sản. Tuy nhiên phạm vi
còn hạn chế và ở hầu hết các địa phương doanh
91
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
nghiệp còn gặp nhiều khó khĕn trong tiếp cận
đất đai với quy mô đủ lớn để kinh doanh có lãi.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC
ĐẨY TÍCH TỤ, TẬP TRUNG ĐẤT ĐAI
CHO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
HÀNG HÓA
4.1. Định hướng thúc đẩy tích tụ và tập trung
ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa
Tích tụ ruộng đất là tất yếu của phát triển
nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường,
quá trình tích tụ ruộng đất phải phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế, xã hội, giúp nông dân
tiếp cận được ruộng đất để nâng cao đời sống.
Tích tụ ruộng đất phải nhằm vào khai thác và sử
dụng đất một cách hiệu quả nhất.
Tích tụ ruộng đất phải gắn với việc chuyển
dịch một phần lớn lao động nông nghiệp sang
làm công nghiệp dịch vụ tại nông thôn và cả
ở đô thị. Hiện tại, nông dân - đối tượng đông
nhất trong xã hội - lại ít được đào tạo nghề nên
tỷ lệ thiếu việc làm luôn ở mức cao. Theo Bộ
LĐ-TB-XH, có trên 83% lao động ở nông thôn
chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (so với
tỷ lệ này ở thành thị là 49%). Ngoài ra hàng nĕm
nông nghiệp, nông thôn phải tiếp nhận hàng
triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và
chia sẻ khối lượng công việc nông nghiệp vốn
đã ít ỏi nên nĕng suất lao động và thu nhập trong
nông nghiệp không thể cải thiện được dù nĕng
suất cây trồng, con nuôi có tĕng.
Chính sách tích tụ ruộng đất phải nhằm vào
phát triển kinh doanh nông nghiệp và vì nông
dân, cho nông dân. Khuyến khích nông dân tích
tụ ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp,
nghiêm cấm việc đầu cơ ruộng đất, sử dụng
ruộng đất kém hiệu quả.
Tốc độ và quy mô tích tụ ruộng đất phải được
tính toán theo vùng miền và phù hợp với tốc
độ và quy mô việc rút lao động ra khỏi nông
nghiệp để tránh tình trạng một bộ phận nông dân
không còn đất sản xuất, nhưng vẫn chưa có việc
làm mới để đảm bảo cuộc sống. Tiến trình này
không giống nhau tại các địa phương, do đó quá
trình tích tụ đất đai cũng mang đặc trưng từng
vùng miền.
Tích tụ ruộng đất với mục tiêu là phát triển
nông nghiệp, phát triển xã hội và đời sống người
dân nông thôn. Do đó bên cạnh chính sách
khuyến khích để nông dân trở thành chủ thể
chính quá trình tích tụ, đồng thời giúp họ sở hữu
tư liệu sản xuất, giúp họ sản xuất được những
hàng hóa đử sức cạnh tranh, giúp họ liên kết để
tập trung sản xuất.
4.2. Phát triển thị trường đất nông nghiệp
trong nông thôn phải gắn với thị trường lao
động nông thôn
Một trong những nguyên nhân làm cho thị
trường đất đai trong nông thôn chậm phát triển
là do nguồn cung bị hạn chế do tâm lý giữ đất
như vật bảo đảm rủi ro. Vì vậy, phát triển thị
trường đất đai trong nông thôn phải đi liền với
giải quyết tốt thị trường lao động. Một khi lao
động tham gia vào thị trường trả công, trả lương
nhiều hơn, ít phụ thuộc hơn vào thị trường lao
động phi chính thức, thì khi đó sẽ bỏ được tâm
lý giữ đất qua đó tạo nguồn cung cho thị trường.
Cần mạnh dạn trong rút bớt lao động ra khỏi
nông nghiệp phục vụ cho các họat động phi
nông nghiêp ở nông thôn. Cần có chế độ khung
về bảo hiểm lao động cho dân cư nông thôn đảm
bảo họ được chĕm sóc y tế và bảo hiểm rủi ro và
nhận lương hưu khi về già.
Phát triển kinh tế dịch vụ ở nông thôn tạo
việc làm phù hợp với kỹ nĕng và trình độ của
lao động nông thôn, đồng thời qua đó rèn luyện
tinh thần và tác phong lao động công nghiệp
cho họ.
Phát triển công nghiệp và đô thị tại các nơi
có nhiều đất trống, đồi núi trọc để thu hút lao
động nhưng không mất đất nông nghiệp. Đồng
thời xây dựng và hình thành các khu nông
nghiệp công nghệ cao, có hệ thống hạ tầng hiện
đại đảm bảo cho nông nghiệp phát triển hiệu
quả.
92
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4.3. Tiếp tục đổi mới chính sách đất đai
Pháp luật hóa công nhận quyền sử dụng đất
là quyền tài sản: Hiện nay, trong luật đất đai
hiện hành chưa công nhận quyền sử dụng đất
là quyền tài sản, chưa đưa giá trị quyền sử dụng
đất vào danh mục tài sản. Khi được công nhận là
tài sản thì người sở hữu tài sản đương nhiên có
quyền sử dụng còn chỉ được công nhận quyền
sử dụng thì chưa phải đó là tài sản. Vì thế, cơ
chế bảo vệ quyền lợi của người dân (người sử
dụng đất) rất mong manh, cơ chế thu hồi đất sẽ
dễ bị lợi dụng dẫn đến tham nhũng và tiêu cực.
Điều này làm cho người dân không yên tâm để
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì sợ dễ bị
tước đoạt, bị thiệt hại từ đó kéo theo phía cung
của thị trường quyền sử dụng đất bị hạn chế.
Tĕng và tiến tới xoá bỏ thời hạn sử dụng đất
nông nghiệp: Theo Luật Đất đai 2013, thời hạn
sử dụng đất nông nghiệp đã được tĕng lên là 50
nĕm và 70 nĕm đối với đất thuộc các địa bàn
kinh tế-xã hội khó khĕn, đặc biệt khó khĕn, đất
cho các dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi
vốn chậm. Tuy nhiên hướng tới cần công nhận
quyền sử dụng lâu dài và xóa bỏ hạn mức nhận
chuyển nhượng đất nông nghiệp để tạo điều kiện
cho thị trường phát triển.
Điều tiết phần lớn địa tô chênh lệch khi
chuyển đổi mục đích sử dụng đất vào tay nhà
nước: Mục đích sử dụng đất nông nghiệp cần
phải đảm bảo tính ổn định. Việc chuyển đổi mục
đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang các loại
đất phi nông nghiệp gây ra tình trạng tĕng giá trị
của đất lên rất nhiều lần. Hơn nữa, mục đích sử
dụng đất nông nghiệp hiện nay có rất nhiều biến
động và không ổn định. Những điều này cũng
là một nguyên nhân quan trọng làm cho người
có quyền sử dụng đất nông nghiệp không muốn
chuyển nhượng quyền sử dụng cho người khác
để trông đợi vào sự thay đổi mục đích sử dụng
từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
nhằm thu lợi lớn từ việc chuyển đổi mục đích
sử dụng này.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch: Cần có các
quy định và sự giám sát chặt chẽ về việc lập,
điều chỉnh và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, việc thu hồi đất đai và việc chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp nhằm hạn
chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước thông qua
các quyền này. Theo đó:
Trước hết việc lập quy hoạch và kế hoạch sử
dụng đất phải đảm bảo chất lượng (trong đó đòi
hỏi phải có tầm nhìn chiến lược dài hạn để hạn
chế tối đa việc thay đổi, điều chỉnh quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất);
Cần có các quy định, chế tài đủ mạnh buộc
các cấp phải thực hiện theo đúng quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, trong đó
gắn chặt trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức
thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch.
Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch và mục
đích sử dụng đất chỉ được áp dụng trong những
điều kiện đặc biệt, có phạm vi và mức độ ảnh
hưởng lớn trong toàn vùng hoặc quốc gia và
phải được quy định cụ thể, chặt chẽ. Chỉ điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch và mục đích sử
dụng đất trong các trường hợp để phát triển
kinh tế-xã hội có ảnh hưởng lớn trên phạm vi
toàn vùng và quốc gia.
Việc thu hồi đất không nên áp dụng đối với
các trường hợp thu hồi cho các doanh nghiệp, tổ
chức, đơn vị để hoạt động kinh doanh.
Thu hồi đất để phát triển kinh tế-xã hội
(ngoại trừ các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật, công trình di tích lịch sử-vĕn hoá) cần
đạt được thỏa thuận với tối thiểu 90% (hoặc một
mức nhất định-cần nghiên cứu thêm) người có
đất bị thu hồi đồng ý với phương án bồi thường
được đưa ra.
Sự rộng quyền hiện nay, cùng với hệ thống
giám sát không đủ mạnh có thể dễ dàng tạo ra
những sự tuỳ tiện trong việc thực thi pháp luật
về đất đai của bộ máy hành chính nhà nước, qua
đó làm cho các quyền tài sản và quyền sử dụng
đất đai của các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức
không được đảm bảo đầy đủ.
93
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
Để tĕng cầu sử dụng đất, cần phải quy hoạch
đất sao cho hạn chế việc phải chuyển đổi mục
địch sử dụng đất. Giải quyết vấn đề này, công
tác quy hoạch đất phải tính đến quy mô quy
hoạch lớn hơn như quy hoạch theo vùng, theo
khu vực; cùng với đó là tĕng thời gian cho kỳ kế
hoạch sử dụng đất, hiện nay là 5 nĕm, nên tĕng
lên 10 nĕm; công khai khu vực nào được, khu
vực nào được phép và không được phép tham
gia giao dịch trên thị trường quyền sử dụng đất.
Minh bạch và hiện đại hóa thông tin thị
trường: Xây dựng hệ thống thông tin đất đai đầy
đủ, khoa học, đảm bảo công khai, minh bạch
và dễ dàng tiếp cận đối với mọi đối tượng
khi muốn có thông tin về mảnh đất trước khi
thực hiện các giao dịch về đất đai trên thị trường
quyền sử dụng đất.
Hiện nay, công tác quản lý đất đai chưa được
hiện đại hóa, các thửa đất chưa được số hóa. Chỉ
có một số hoạt động trong nội dung quản lý nhà
nước về đất đai được điện tử hóa. Gần đây, Luật
đất đai 2013 đã có quy định việc đĕng ký đất đai,
nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất được
triển khai bằng hai hình thức khác nhau đó là
đĕng ký trên giấy và đĕng ký điện tử và cả hai
đều có giá trị pháp lý như nhau.
Vì thế, để thuận lợi cho việc quản lý nhà
nước về đất đai cũng như thuận lợi cho các giao
dịch về quyền sử dụng đất của người dân Nhà
nước phải nâng cấp hạ tầng thông tin để việc
đang ký, cấp giấy quyền sử dụng đất, quản lý
các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất
được thuận lợi, nhanh chóng và công khai.
Hoàn thiện cơ chế hoạt động cho thị trường
quyền sử dụng đất: Hiện nay, các giao dịch
quyền sử dụng đất trong xã hội phần lớn thực
hiện “ngầm”, bên cung và bên cầu tự trao đổi
quyền sử dụng đất cho nhau, không có sự công
nhận của nhà nước thông qua việc nộp thuế
hay thay đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do đó, nhà nước nên tạo cơ chế thuận lợi
để các giao dịch quyền sử dụng đất được hợp
pháp, thuận lợi, dễ dàng như các sàn giao dịch
bất động sản hiện nay. Hiện nay đã có sàn giao
dịch bất động sản, nhưng hoạt động chưa hiệu
quả do thiếu minh bạch (chủ yếu phụ thuộc vào
bên bán), hoạt động không có sự gắn kết với các
địa phương khác, thị trường thường bị cắt khúc
xét dưới góc độ chủ thể đầu tư và loại sản phẩm,
chi phí cao tham gia thị trường cao... Vì thế, nên
tránh những hạn chế này để thị trường hoạt động
được thông suốt, hiệu quả và phù hợp với từng
loại hàng hóa.
Tĕng cường việc hoàn thiện xác nhận lại
quyền sử dụng đất: Hiện nay, việc chuyển quyền
sử dụng đất đang diện ra rất phổ biến ở nhiều
địa phương khác nhau trong cả nước, đặc biệt từ
khi có chính sách dồn điền đổi thửa. Trên thực
tế, nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất của gia
đình khác và gia đình khác đang sử dụng đất
của gia đình mình mà không cần đĕng ký lại
quyền sử dụng đất. Việc chưa tiến hành đĕng ký
lại (sang tên, đổi chủ) do nhiều nguyên nhân,
cả từ phía hộ gia đình, cả từ phía cơ quan nhà
nước. Về phía hộ gia đình không muốn đĕng
ký lại bởi vì thủ tục phức tạp, chi phí phải trả
như thuế trước bạ, lệ phí còn cao vượt quá khả
nĕng đối với phần lớn hộ gia đình. Hơn nữa, họ
không đĕng ký lại cũng chưa ảnh hưởng gì đến
quyền lợi của họ. Về phía nhà nước, việc tiến
hành đĕng ký lại phải tốn nhiều thời gian, kinh
phí vì phải đo đạc lại hiện trạng đất, lập lại bản
đồ, điều chỉnh lại quy hoạch (nếu có) và chi phí
in lại giấy chứng nhận. Việc không đĕng ký lại
sẽ tiềm ẩn nhiều tranh chấp hơn nữa sẽ khó khi
thực hiện các lần chuyển nhượng kế tiếp. Do đó,
để thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất phát
triển, thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất phải được nhà nước đảm bảo thực hiện
dễ dàng, nhanh chóng, Nhà nước phải xem đây
là dịch vụ công phục vụ nhân dân.
Tĕng cường công tác cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu cho các đối tượng
sử dụng đất: Hiện nay, cả nước còn khoảng 5%
tổng diện tích đất chưa được cấp giấy chứng
94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nhận quyền sử dụng đất lần đầu vì các loại đất
này có nguồn gốc sử dụng đất phức tạp, đất đang
có tranh chấp, xây dựng trái phép, giao đất trái
thẩm quyền, đất lấn chiếm v.v. Vì thế, trong thời
gian tới nhà nước nên sớm hoàn thiện thủ tục
như hoàn thành công tác đo đạc, quy hoạch, lập
bản đồ địa chính, giải quyết các tranh chấp...
để cấp hết số diện tích đất còn lại này để tĕng
cường khối lượng cung về quyền sử dụng đất ra
thị trường.
5. KẾT LUẬN
Để thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất, Nhà
nước cần quy hoạch trung và dài hạn phát triển
các vùng và sản phẩm nông nghiệp hàng hóa,
nhất là hàng hóa nông sản chất lượng cao theo
quan điểm thị trường; gắn quá trình tích tụ, tập
trung ruộng đất với quá trình cơ cấu lại nền kinh
tế, bố trí phân công lại lao động trên phạm vi địa
phương; đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông
dân theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với
điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực và theo
quy hoạch; phát triển các mô hình hợp tác xã
kiểu mới; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn... Đồng thời, đẩy mạnh tuyên
truyền, vận động người dân thực hiện các quyền
cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất để sử dụng đất nhằm mang lại lợi ích
cho người sử dụng, đồng thời, cũng tạo ra diện
tích đất lớn để đầu tư phát triển nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
[2]. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3 tháng 6 nĕm 2017, Hội
nghị lần thứ nĕm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
[3]. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
[4]. Bộ Xây dựng (2016), Báo cáo tổng kết thị trường bất động sản từ nĕm 2013 đến nĕm 2016, Hà
Nội.
[5]. Klaus Deininger (2003), Chính sách đất đai cho tĕng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Báo cáo
nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới.
[6]. Martin Ravallion, Dominique van de Walle (2008), Đất đai trong thời kỳ chuyển đổi: Cải cách và
nghèo đói ở nông thôn Việt Nam. Nhà xuất bản Vĕn hóa Thông tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tich_tu_tap_trung_ruong_dat_o_viet_nam_va_de_xuat_huong_phat.pdf