Tiêm chủng vacxin và miễn dịch ở mèo
Sự luyện tập
Luyệntậpvừaphảivàthườngxuyênsẽgiúptăng
cường chức năng miễn dịch, nhưng nếu quá sức sẽ
dẫn đến Stress oxy-hóa và tăng cường khả năng dễ
bị tổn thương đối với các bệnh truyền nhiễm. Chấn
thươngnghiêmtrọngdẫnđếnsuygiảmmiễndịchvà
có thể dẫn đến nhiễm trùng huyết và tử vong do giải
phóng một lượng lớn corticosteroid, prostaglandins
và peptide hoạt tính ức chế. Tất cả những chất này
đều gây ức chế miễn dịch. Phẫu thuật thông thường
không có tác động đáng kể đến phản ứng của động
vật khỏe mạnh đối với việc tiêm phòng.
Bệnh đồng nhiễm
Các bệnh đồng nhiễm có thể làm giảm đáp ứng
miễn dịch. Những nguyên nhân dẫn đến mất protein
có thể làm giảm sản xuất kháng thể. Thyrotoxicosis
và đái tháo đường là những yếu tố ức chế miễn dịch.
Nhiễm FeLV dẫn đến mất tế bào lympho CD4; ở
mèo con, có thể nhìn thấy teo các hạch bạch huyết.
Hoạt động của tế bào lympho B bình thường ở mèo
bị nhiễm FeLVvà FIV, do vậy tiêm chủng cho những
động vật này được khuyến cáo. Các sản phẩm vacxin chết được ưa thích hơn vacxin sống (MLV).
Không nên tiêm phòng cho mèo bị bệnh nặng, suy
nhược hoặc sốt cao. Mèo mắc bệnh đường hô hấp
hoặc đường tiêu hóa nhẹ vẫn có thể được tiêm chủng.
Một số loại thuốc gây độc tế bào có thể dẫn tới ức
chế miễn dịch đáng kể. Các loại thuốc khác có thể ức
chếtủyxươngdẫnđếngiảmbạchcầuvàsuygiảmmiễn
dịch,vídụ,clindamycin,chloramphenicol,griseofulvin.
Sử dụng corticosteroid kéo dài có thể làm cho việc sử
dụng vacxin chết được ưa thích hơn vacxin MLV.Tiêm
vacxin khi đối mặt với việc sử dụng corticosteroid có
thể dẫn đến đáp ứng miễn dịch kém hơn bình thường.
Bất kỳ thành phần vacxin sống nào dùng trong giai
đoạn thai kỳ đều có nguy cơ về mặt lý thuyết là đi qua
nhau thai, xâm lấn thai nhi và gây tổn thương cho thai
nhi. Điều này chỉ được chứng minh ở những mèo có
huyếtthanhâmtínhvớipanleukopeniađượctiêmvacxin
sống, dẫn đến chứng teo tiểu não ở mèo con. Mèo mang
thai hoặc đang cho con bú có thể dễ bị các tác dụng phụ
hơnvìhoạtđộngsinhlýcaomànóđãtrảiqua.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiêm chủng vacxin và miễn dịch ở mèo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
87
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
I. HỆ THỐNG MIỄN DỊCH CỦA MÈO
Hệ thống miễn dịch của mèo, bao gồm các cơ
quan chức năng như tuyến ức, tủy xương, hệ thống
bạch huyết ngoại vi (các hạch bạch huyết, mạch bạch
huyết, lách và amidan) và các cơ quan lympho ngoại
bào như mảng Peyer, manh tràng và các mô bạch
huyết phế quản.
Tất cả các động vật, trong đó có mèo, có một hệ
thống miễn dịch bẩm sinh hoạt động thông qua các đáp
ứng có tính di truyền đối với các kháng nguyên phổ
biến và bao gồm các biện pháp bảo vệ cơ bản dựa vào
hoạt động của các tế bào bạch cầu (bạch cầu trung tính /
bạch cầu đa nhân) cũng như của bản thân hệ thống miễn
dịch. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh này có vai trò to lớn
trong các phản ứng miễn dịch xuất hiện đầu tiên.
Hệ thống miễn dịch thu được bao gồm các đáp
ứng phụ thuộc và độc lập đối với kháng thể. Hệ
thống này bao gồm các tế bào lymphoid, đại thực
bào và các tế bào trình diện kháng nguyên khác
nhau. Những tế bào này giải phóng các cytokine để
mở rộng đáp ứng miễn dịch tới các hệ thống phòng
thủ khác của cơ thể, như là bạch cầu đa nhân, bạch
cầu ái toan và đại thực bào.
Các chất kháng nguyên kích hoạt sự thay đổi
cấu trúc hạch bạch huyết thông qua nhiều tương
tác giữa các tế bào lympho, đại thực bào và các
chất hóa học truyền tin. Trong khoảng thời gian
7-10 ngày sau kích thích của kháng nguyên, các
tế bào plasma phát triển (đáp ứng dịch thể) và tạo
ra globulin miễn dịch (immunoglobulins / kháng
thể). Đáp ứng ban đầu được điều hòa thông qua
IgM và đáp ứng chưa được ghi nhớ chủ yếu thông
qua IgG. Đại thực bào và tế bào lympho T là các tế
bào hiệu lực của đáp ứng miễn dịch qua trung gian
tế bào (CMI) đối với kích thích kháng nguyên.
II. TẾ BÀO LYMPHO VÀ CÁC TẾ
BÀO MIỄN DỊCH KHÁC
Có nhiều loại tế bào tham gia vào hệ thống miễn
dịch ở mèo.
2.1 Tế bào lympho B
Là những tế bào đặc hiệu kháng nguyên
hoạt động thông qua các thụ thể trên kháng
thể đặc hiệu đối với kháng nguyên. Các tế bào
lympho B đạt mức trưởng thành sau 12 tuần
tuổi. Các tế bào plasma đại diện cho giai đoạn
cuối của sự biệt hóa tế bào B nằm trong các
vùng tủy của hạch bạch huyết, tủy đỏ của lách
và dưới biểu mô của màng nhầy. Các tế bào
plasma thường thấy trên niêm mạc hoặc bất
kỳ vị trí nào đó tiếp xúc với môi trường. Các
tế bào này thường liên kết với mô bào nhưng
cũng có thể lưu thông. Các tế bào plasma có
thể được tìm thấy trong các mô không phải
bạch huyết khi có sự kích thích kháng nguyên
mạn tính hiện diện như viêm miệng hoặc các
dạng bệnh viêm ruột.
2.2 Tế bào lympho T
Các tế bào lympho T xử lý các kháng nguyên
đặc hiệu trên bề mặt của chúng. Có 32-41% tế bào
lympho máu ngoại biên là tế bào lympho T. Có ba
loại tế bào lympho T:
- Các tế bào T trợ giúp (CD4) hợp tác với các tế
bào lympho B và tạo điều kiện cho sản xuất kháng thể.
- Các tế bào T ức chế (CD8) ức chế sự hình thành
kháng thể của các tế bào B.
- Tế bào T-effector hoạt động trong các phản ứng
CMI.
TIEÂM CHUÛNG VACXIN VAØ MIEÃN DÒCH ÔÛ MEØO
Margie Scherk
Feline specialist
88
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
2.3 Các tế bào diệt tự nhiên (NK/natural killer)
Còn được gọi là “tế bào null” hoặc “tế bào
lympho hạt lớn” có thể phá hủy các tế bào khối u
và tế bào bị nhiễm virus. Chúng chiếm 20% tế bào
lympho mèo.
Đại thực bào (macrophage)
Các đại thực bào đóng một số vai trò quan trọng
trong phản ứng miễn dịch, bao gồm:
- Xử lý và trình diện kháng nguyên cho các tế
bào lympho T
- Sản xuất các cytokine
- Phân hủy các tế bào khối u bằng cách sử dụng
các chất chuyển hóa gây độc và enzyme phân giải
protein
- Là các tế bào effector trong một số dạng CMI
(nghĩa là, loại IV / phản ứng quá mẫn chậm).
III. HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
MIỄN DỊCH MÈO
3.1. Sản xuất kháng thể
Mèo không có khả năng miễn dịch đối với
tất cả các kháng nguyên khi mới sinh. Nồng độ
immunoglobulin khác nhau đáng kể ở mèo tùy thuộc
vào môi trường mà chúng được nuôi dưỡng. IgG
và IgA được tìm thấy trong huyết thanh và dịch tiết
màng nhầy, IgA cũng có trong chất nhầy đường ruột
và đường hô hấp. IgM rất quan trọng trong đáp ứng
chính với một số kháng nguyên nhất định và được
tiết vào sữa non, dịch tiết và chất nhầy đường mũi-
hầu. IgE gây dị ứng được tìm thấy trong da, màng
nhầy và phổi và có ái lực cao với các thụ thể trên
màng tế bào mast. Nó có liên quan đến phản ứng quá
mẫn loại I (quá mẫn tức thì).
3.2. Miễn dịch qua trung gian tế bào (Cell
mediated immunity)
CMI liên quan đến sự tương tác giữa các tế bào
lympho T effector (hoặc đại thực bào) với một kháng
nguyên đặc hiệu để giải phóng lymphokine. Những
hoạt động này nhằm: a) tiêu diệt các tế bào tiếp xúc
với tế bào lympho; b) ức chế đại thực bào và di
chuyển bạch cầu khỏi vị trí và c) gây ra sự phân bào
của tế bào lympho. Mèo có CMI rất phát triển.
3.3. Hệ thống thực bào
Hệ thống thực bào mèo phát triển mạnh và bao
gồm các tổ chức thực bào cố định, tế bào lách, hạch
bạch huyết, đại thực bào màng phổi và màng bụng.
Bạch cầu đơn nhân tăng trong nhiễm trùng mạn tính;
chúng được chuyển thành đại thực bào. Nhóm bạch
cầu trung tính có tính thực bào mạnh.
3.4. Bạch cầu ái toan
Bạch cầu ái toan tham gia vào các sự kiện của tế
bào mast và sốc phản vệ.
3.5. Hệ thống bổ thể
Hệ thống bổ thể bao gồm một loạt các protein
hoạt hóa, được sản xuất bởi nhiều loại mô bào khác
nhau. Sau khi được kích hoạt, chúng trở thành các
enzyme ly giải protein đặc hiệu. Các kháng thể xác
định mục tiêu, còn bổ thể quyết định hiệu quả của
tác động.
3.6. Cytokine
Cytokine là một nhóm lớn các phân tử
polypeptide truyền tin hòa tan có tác động ngắn, có
vai trò tương tác trung gian và chức năng hiệu ứng
của các phản ứng miễn dịch. Cytokine có vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh các đáp ứng gây viêm và
hồi phục của vật chủ. Có bốn nhóm cytokine chính:
- Những cytokine trung gian miễn dịch tự nhiên
- Những cytokine điều chỉnh tăng trưởng,
kích hoạt và biệt hóa các tế bào lympho
- Những cytokine kích hoạt các tế bào viêm
- Những cytokine kích thích sự tạo máu.
3.7. Miễn dịch niêm mạc
Niêm mạc và da là những rào cản tự nhiên ngăn
chặn sự xâm nhập cơ thể của các loài vi sinh vật.
Chúng bảo vệ cơ thể một cách cơ học cũng như
với những quá trình miễn dịch phức tạp. Trong
giai đoạn sớm của quá trình nhiễm trùng, các tế
bào biểu mô tiết interferon, chống lại sự xâm nhập
của virus cho đến khi các phương diện khác của
phản ứng miễn dịch được kích hoạt. Sự liên kết
với bổ thể tạo điều kiện cho quá trình thực bào và
ly giải vi khuẩn. Những sự kiện này xảy ra trước
khi các phản ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch
qua trung gian tế bào xuất hiện.
89
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
IV. CÁC YẾU TỐ ĐIỀU TIẾT MIỄN DỊCH
Những yếu tố xuất hiện hàng ngày có ảnh hưởng
lớn đến hệ thống miễn dịch của mèo và do đó, cần
phải xác định khi nào và liệu có nên tiêm chủng
vacxin hay không?
Các yếu tố Stress
Stress có thể là những yếu tố tâm lý, môi trường
hoặc thể chất và bao gồm rất nhiều sự tổn thương
khác. Stress cấp tính làm giải phóng epinephrine;
Stress mạn tính giải phóng cortisol. Stress đặc biệt
bất lợi đối với khả năng miễn dịch tại chỗ ở màng
nhầy. Glucocorticoids đã được chứng minh là có
thể chuyển đổi trạng thái nhiễm trùng tiềm ẩn sang
trạng thái nhiễm trùng cấp tính và nhiễm trùng
thoáng qua thành nhiễm trùng thường trực (ví dụ,
viêm mũi họng, nhiễm FeLV, hemobartonellosis và
toxoplasmosis). Stress xuất hiện khi mang thai, đẻ
và cho con bú; cai sữa quá sớm; thiếu ngủ; gây mê
tổng quát; thời tiết khắc nghiệt hoặc thay đổi thời
tiết, biến cực độ ẩm hoặc nhiệt độ; sự di chuyển
đường dài; vận động quá mức; tập trung quá đông
hoặc bị sắp xếp lại nhóm; chấn thương, bệnh tật
Tuổi
Miễn dịch mẹ truyền bảo vệ mèo con trong suốt
12 tuần đầu tiên bằng cách cung cấp kháng thể trong
khi chờ hệ thống miễn dịch của bản thân chúng phát
triển. Tuy nhiên, những kháng thể này cũng cản trở
đáp ứng sau tiêm chủng vacxin ở mèo con.
Khả năng bảo vệ mèo con của kháng thể mẹ
truyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh xẩy ra
nghiêm trọng hơn nếu liều lượng và độc lực vi sinh
vật xâm nhập quá mạnh. Việc cai sữa trước 6-8 tuần
tuổi sẽ tạo Stress sinh lý khiến mèo con dễ bị tổn
thương hơn. Ngược lại, khi khả năng miễn dịch của
mẹ đang suy yếu, mức độ căng thẳng dinh dưỡng
tăng cao sẽ làm tăng tính nhạy cảm với các tác nhân
truyền nhiễm cũng như sẽ kích hoạt các quá trình
nhiễm trùng / bài xuất vi trùng tiềm ẩn. Mèo con
càng nhỏ vào thời điểm bị nhiễm bệnh, khả năng
mắc bệnh càng nghiêm trọng, dễ chuyển thành mạn
tính hoặc tử vong càng cao. Tốt nhất là tránh tiếp xúc
mèo con với tất cả các tác nhân truyền nhiễm, bất kể
tình trạng miễn dịch mẹ truyền như thế nào.
Miễn dịch qua mẹ bao gồm miễn dịch có nguồn
gốc từ sữa non, và miễn dịch tiết sữa bảo vệ tại chổ.
Sữa non tốt nhất được sản xuất trong năm ngày đầu
nhưng chỉ được mèo con hấp thụ trong 24 giờ đầu
tiên. Nó chứa nồng độ IgG và IgA cao và cung cấp khả
năng miễn dịch toàn thân cho mèo sơ sinh trong 12-16
tuần đầu tiên của cuộc đời. Miễn dịch tuyến sữa liên
quan đến kháng thể trong sữa, giúp bảo vệ mèo con
chống lại các mầm bệnh đường ruột (thông qua IgA)
trong vài tuần đầu tiên. Bảo vệ tai-mũi-họng được
hình thành thông qua kháng thể IgA cũng như IgG và
IgM. Những kháng thể này phải đặc hiệu đối với mầm
bệnh và phải được cung cấp liên tục, bởi vì mèo con
không thể tăng mức đáp ứng dịch thể ở độ tuổi này.
Sức đề kháng đối với bệnh cũng liên quan đến
tuổi (ví dụ FeLV). Mèo dưới 16 tuần tuổi dễ bị nhiễm
FeLV nhất; nhưng nếu mèo con tiếp xúc lần đầu với căn
nguyên gây bệnh này xảy ra sau một năm tuổi, chúng sẽ
ít bị nhiễm bệnh hơn. Khi mèo già đi, CMI và đáp ứng
dịch thể bị suy giảm. Các tế bào T trợ giúp (CD4) giảm
khi có sự xâm lấn tuyến ức và quần thể tế bào bạch
huyết ngoại vi thay đổi từ những tế bào nguyên thủy
thành một quần thể tế bào trí nhớ miễn dịch. Tủy xương
không bị ảnh hưởng bởi sự lão hóa. Sự xử lý và trình
diện kháng nguyên bị ảnh hưởng rất ít ở mèo.
Thực hành chăn nuôi
Cách chăm sóc và chăn nuôi mèo cũng ảnh hưởng
đáng kể đến đáp ứng miễn dịch. Mật độ quần thể cao,
vệ sinh kém và thông gió không đầy đủ dẫn đến tăng
phơi nhiễm với mầm bệnh và cũng gây ra Stress, làm
suy yếu khả năng miễn dịch. Nuôi mèo nhiều lứa
tuổi cùng nhau sẽ làm tăng sự phơi nhiễm cho mèo
có miễn dịch yếu, vì mèo trưởng thành thường mang
và bài thải mầm bệnh như FHV-1, FCV, coronavirus
đường ruột, Chlamydophila, Mycoplasma, vi khuẩn
gây bệnh đường ruột, các loại nội và ngoại ký sinh
trùng. Giao phối cận huyết cho phép hình thành một
số dạng miễn dịch bẩm sinh yếu kém tồn tại (ví dụ, hội
chứng Chediak-Higashi ở mèo Ba Tư).
Dinh dưỡng
Dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong hiệu quả
và chức năng của miễn dịch và ảnh hưởng của suy
dinh dưỡng đến các chức năng miễn dịch rất phức
tạp. Nhìn chung, sự thiếu hụt dinh dưỡng nghiêm
trọng sẽ gây ra sự suy giảm chức năng tế bào lympho
T, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến chức năng tế
bào lympho B. Kết quả cuối cùng có thể là CMI dưới
mức tối ưu nhưng không ảnh hưởng đến khả năng
90
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
miễn dịch dịch thể. Nồng độ immunoglobulin huyết
thanh không thay đổi; nhưng mức bổ thể giảm và
bạch cầu trung tính và chemotaxis đại thực bào bị
suy yếu. Suy dinh dưỡng dẫn đến thay đổi sức đề
kháng đối với bệnh truyền nhiễm. Trong suy dinh
dưỡng, các bệnh do vi khuẩn sẽ nghiêm trọng hơn,
ngược lại, suy dinh dưỡng có thể dẫn đến tăng sức đề
kháng đối với nhiễm vi-rút! Tác dụng của suy dinh
dưỡng đối với bệnh ký sinh trùng rất thay đổi. Nói
chung, khi bị đói sẽ gây ức chế miễn dịch tổng thể.
Ảnh hưởng của sự thiếu hụt một chất dinh dưỡng
cụ thể tới miễn dịch đã được thừa nhận.
- Thiếu vitamin A, axit béo không bão hòa và một
số vitamin B làm giảm nồng độ immunoglobin.
- Thiếu magiê tác động lên lympho B làm giảm
nồng độ kháng thể.
- Thiếu vitamin A, B12 và axit folic làm giảm
CMI.
- Thiếu vitamin D dẫn tới đại thực bào kém
phát triển.
- Thiếu kẽm gây giảm trọng lượng tuyến ức,
giảm hoạt động tế bào lympho T gây độc tế bào,
suy giảm hoạt động tế bào lympho B, chức năng tế
bào NK (ở lợn) và ở động vật mang thai, thiếu kẽm
dẫn đến rối loạn chức năng miễn dịch ở con non.
- Thiếu đồng làm giảm số lượng và chức năng
của bạch cầu đa nhân trung tính, tế bào lympho T và
tế bào NK, suy giảm khả năng đáp ứng phân bào; tế
bào mast trở nên dễ giải phóng histamin.
- Thiếu hụt selen làm suy giảm chức năng của
hầu hết các tế bào miễn dịch.
- Thiếu hụt taurine làm suy giảm chức năng và
số lượng bạch cầu trung tính, hoạt động của tế bào
lympho B bị suy yếu.
Bổ sung selen làm tăng mức biểu hiện của một
số interleukin và ngăn ngừa tổn thương oxy-hóa cho
các tế bào miễn dịch. Bổ sung chrome cũng làm tăng
cường một số khía cạnh của đáp ứng miễn dịch. Gần
đây, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các chất chống
oxy-hóa làm tăng cường đáp ứng dịch thể đối với việc
tiêm phòng. Ngược lại, dinh dưỡng quá mức có thể
làm tăng tính nhạy cảm đối với nhiễm virus; béo phì
là một yếu tố gây Stress lớn trong nhiều phương diện.
Sự luyện tập
Luyện tập vừa phải và thường xuyên sẽ giúp tăng
cường chức năng miễn dịch, nhưng nếu quá sức sẽ
dẫn đến Stress oxy-hóa và tăng cường khả năng dễ
bị tổn thương đối với các bệnh truyền nhiễm. Chấn
thương nghiêm trọng dẫn đến suy giảm miễn dịch và
có thể dẫn đến nhiễm trùng huyết và tử vong do giải
phóng một lượng lớn corticosteroid, prostaglandins
và peptide hoạt tính ức chế. Tất cả những chất này
đều gây ức chế miễn dịch. Phẫu thuật thông thường
không có tác động đáng kể đến phản ứng của động
vật khỏe mạnh đối với việc tiêm phòng.
Bệnh đồng nhiễm
Các bệnh đồng nhiễm có thể làm giảm đáp ứng
miễn dịch. Những nguyên nhân dẫn đến mất protein
có thể làm giảm sản xuất kháng thể. Thyrotoxicosis
và đái tháo đường là những yếu tố ức chế miễn dịch.
Nhiễm FeLV dẫn đến mất tế bào lympho CD4; ở
mèo con, có thể nhìn thấy teo các hạch bạch huyết.
Hoạt động của tế bào lympho B bình thường ở mèo
bị nhiễm FeLV và FIV, do vậy tiêm chủng cho những
động vật này được khuyến cáo. Các sản phẩm vac-
xin chết được ưa thích hơn vacxin sống (MLV).
Không nên tiêm phòng cho mèo bị bệnh nặng, suy
nhược hoặc sốt cao. Mèo mắc bệnh đường hô hấp
hoặc đường tiêu hóa nhẹ vẫn có thể được tiêm chủng.
Một số loại thuốc gây độc tế bào có thể dẫn tới ức
chế miễn dịch đáng kể. Các loại thuốc khác có thể ức
chế tủy xương dẫn đến giảm bạch cầu và suy giảm miễn
dịch, ví dụ, clindamycin, chloramphenicol, griseofulvin.
Sử dụng corticosteroid kéo dài có thể làm cho việc sử
dụng vacxin chết được ưa thích hơn vacxin MLV. Tiêm
vacxin khi đối mặt với việc sử dụng corticosteroid có
thể dẫn đến đáp ứng miễn dịch kém hơn bình thường.
Bất kỳ thành phần vacxin sống nào dùng trong giai
đoạn thai kỳ đều có nguy cơ về mặt lý thuyết là đi qua
nhau thai, xâm lấn thai nhi và gây tổn thương cho thai
nhi. Điều này chỉ được chứng minh ở những mèo có
huyết thanh âm tính với panleukopenia được tiêm vacxin
sống, dẫn đến chứng teo tiểu não ở mèo con. Mèo mang
thai hoặc đang cho con bú có thể dễ bị các tác dụng phụ
hơn vì hoạt động sinh lý cao mà nó đã trải qua.
Trần Đình Từ (Hội Thú y Việt Nam) dịch từ
“Vaccination and the Immune Status of the Cat” - In
World Small Animal Veterinary Association World
Congress Proceedings, 2008).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tiem_chung_vacxin_va_mien_dich_o_meo.pdf