Tiềm năng địa du lịch đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận

KẾT LUẬN Hoạt động phun trào, phun nổ và sự chạm khắc lâu dài của sóng, gió, mưa vào nền đá bazan nhô lên giữa biển khơi đã tạo lên đảo nhỏ Phú Quý với bốn di sản địa mạo có giá trị cả về khoa học và bổ sung (văn hóa, thẩm mỹ và sinh thái), trong đó núi lửa phun nổ Cao Cát xứng đáng là di sản cấp khu vực; di sản núi lửa núi Cấm, Bờ biển xâm thực gành Hang – bãi Nhỏ và Đảo núi lửa hòn Tranh là di sản cấp địa phương. Giá trị khoa học nổi bật của di sản núi Cao Cát đó là: biển trong quá khứ đã cắt đôi ngọn núi, để lại những vách đứng chênh vênh cấu trúc bởi những trầm tích vụn thô của núi lửa phun nổ. Chùa Linh Sơn hơn 100 tuổi có kiến trúc độc đáo tọa lạc trên núi Cao Cát; những di tích văn hóa cổ được tìm thấy quanh chân núi; ngắm nhìn đất, biển, trời Phú Quý từ tượng Phật Quan Thế Âm là những giá trị bổ sung (tâm linh, thẩm mỹ) đặc biệt của di sản núi lửa phun nổ Cao Cát. Sự đa dạng địa hình bờ biển xâm thực của các di sản địa mạo như gành đá, mũi đá, vách đá với đủ hình dạng được gắn địa danh như gò Móng Tay, vũng Gấm, vũng Bàn, mũi Xương Cá, vũng Phật, bàu Mực Khô hay hòn Đen, hòn Giữa, hòn Đỏ làm cho đảo Phú Quý càng trở nên hấp dẫn với du khách. Diễn giải các giá trị khoa học và bổ sung của di sản địa mạo Phú Quý bằng sách báo, mô hình, hình ảnh sẽ thúc đẩy địa du lịch – một ngách của du lịch bền vững đang được phát triển ở nhiều nước, nhất là sự ra đời hàng loạt Công viên Địa chất trên thế giới.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng địa du lịch đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu 1Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên 2Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Liên hệ Hoàng Thị Phương Chi, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Email: htpchi@hcmus.edu.vn Lịch sử  Ngày nhận: 06/8/2020  Ngày chấp nhận: 23/10/2020  Ngày đăng: 21/12/2020 DOI : 10.32508/stdjns.v4i1.997 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. TiềmNăng Địa Du Lịch Đảo Phú Quý, Tỉnh Bình Thuận Hoàng Thị Phương Chi1,2,*, Hà Quang Hải1,2, Nguyễn Thị Quế Nam1,2 Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận cách thành phố Phan Thiết 120 km về phía Đông Nam, nơi mà sự phá hủy lâu dài của sóng, gió, mưa trên các vật liệu núi lửa giữa biển khơi để cấu thành bốn di sản địa mạo có giá trị cả về khoa học và bổ sung (văn hóa, thẩm mỹ và sinh thái), trong đó núi lửa phun nổ Cao Cát xứng đáng là di sản cấp khu vực (Nam Trung Bộ); các di sản núi lửa núi Cấm, Bờ biển xâm thực gành Hang – bãi Nhỏ và Đảo núi lửa hòn Tranh là di sản cấp địa phương (cấp tỉnh). Những vách núi chênh vênh để lộ các lớp trầm tích vụn thô dốc nghiêng do phun nổ; địa hình bờ biển xâm thực như gành đá, mũi đá, vách đá đủ hình dạng, sắc màu gắn với địa danh như gò Móng Tay, vũng Gấm, vũng Bàn, mũi Xương Cá, vũng Phật, bàu Mực Khô, hòn Đen, hòn Giữa, hòn Đỏ là những giá trị khoa học nổi bật của di sản. Các di tích văn hóa Sa Huỳnh (niên đại cách nay 2.500 – 3.000 năm) phát hiện ở núi Cao Cát; những ngôi chùa cổ kính Linh Sơn, Linh Bửu; điểm nhìn biển, trời Phú Quý từ hải đăng núi Cấm hay các rạn san hô đa sắc màu ở đảo hòn Tranh là những giá trị bổ sung làm tăng thêm chất lượng của các di sản địa mạo đảo Phú Quý. Diễn giải các giá trị khoa học và bổ sung của các di sản địa mạo của hòn đảo này bằng sách báo, mô hình, hình ảnh sẽ thúc đẩy địa du lịch – một ngách của du lịch bền vững đang được nhiều nước, nhất là sự ra đời hàng loạt Công viên Địa chất trên thế giới. Từ khoá: địa du lịch, di sản địa mạo, đảo Phú Quý GIỚI THIỆU Địa du lịch là loại hình du lịch giúp duy trì và tăng cường đặc điểm đặc sắc của một vùng lãnh thổ tập trung vào các đặc điểm địa chất, môi trường, văn hoá, thẩm mỹ, di sản và phúc lợi của cư dân địa phương 1. Địa du lịch bao gồm hai hợp phần “địa” (geo-) và “du lịch” (-tourism), trong đó “địa” nghĩa là “địa học”, bao gồm các dạng thành tạo (form), các quá trình địa chất (process), và thời gian địa chất (time); hợp phần “du lịch” trong khái niệm này quan tâm đến khía cạnh: Nguồn cung ( upply): làm thế nào để phát triển các điểm đến – nhu cầu (demand): du khách trong nước và quốc tế2. Địa du lịch phát triển toàn diện, bao gồm giới vô sinh (địa chất, khí hậu, cảnh quan), hữu sinh (động thực vật) và văn hoá (tâm linh, lịch sử, khảo cổ). Nhờ vậy, loại hình du lịch này có thể đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Phú Quý, là huyện đảo của tỉnh BìnhThuận, nơi cảnh quan địa mạo núi lửa và bãi biển còn hoang sơ, nơi có sự đa dạng về văn hóa; nghề truyền thống ở đây là đánh bắt và chế biến hải sản và nông, lâm nghiệp. Từ khi những “cây” điện gió mọc lên và tuyến tàu cao tốc PhanThiết – Phú Quý hoạt động, du lịch hòn đảo này đã khởi sắc, du khách đến đảo gia tăng nhanh, năm 2019, Phú Quý đón 42.300 lượt khách. Tuy vậy, hoạt động du lịch tại đây đang ở buổi sơ khai, những home- stay chỉ là nhữngnơi lưu trú thông thường; hướngdẫn du khách thăm quan chỉ là những hoạt động tự phát, thiếu những lộ trình thăm quan và những diễn giải về tài nguyên thiên nhiên và văn hóa cho du khách một cách khoa học. Bài báo này trình bày sơ bộ về giá trị khoa học và giá trị bổ sung của bốn di sản địa mạo nổi bật đảo Phú Quý làm cơ sở phát triển hoạt động địa du lịch cho hòn đảo này – một khuynh hướng đang thịnh hành tại nhiều nơi trên thế giới. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài báo thực hiện dựa trên ba nhóm phương pháp chính là 1) tổng hợp các nghiên cứu về địa chất, địa mạo khu vực; 2) khảo sát thực địa bổ sung và 3) xác định các geosite cho khu vực nghiên cứu theo hướng dẫn của Reynard3,4. Khu vực đảo Phú Quý hiện chưa có nhiều nghiên cứu về địa chất địa mạo và cũng chưa có bản đồ địa chất của đảo nên bài báo chủ yếu dựa vào nghiên cứu của Lê Đức An, Trần Đức Thạnh và cộng sự 5,6 kết hợp với nghiên cứu của Khương Văn Hải7 làm cơ sở cho các khảo sát thực địa về đặc điểm địa chất, địa mạo đảo Phú Quý. Thời gian khảo sát là từ 4/4/2019 đến 8/4/2019 trên các tuyến quanh đảo và hòn Tranh (hòn lẻ lớn nhất của đảo). Từ kết quả thực địa, nhóm tác giả tiến hành đánh giá kiểm kê các vị trí khảo sát và định hướng phát triển các địa điểm có đặc tính địa học lý Trích dẫn bài báo này: Chi H T P, Hải H Q, Nam N T Q. Tiềm Năng Địa Du Lịch Đảo Phú Quý, Tỉnh Bình Thuận . Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 4(SI):SI126-SI135. SI126 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 thú cũng như giá trị khoa học và bổ sung theo định nghĩa của Reynard để đề xuất các geosite cho khu vực nghiên cứu. Giá trị khoa học của geosite dựa vào 4 tiêu chí: tính toàn vẹn, đại diện, hiếm quý, cổ địa lý và giá trị bổ sung bao gồm: giá trị sinh thái, thẩm mỹ và văn hóa 3,4. KHU VỰC NGHIÊN CỨU Đảo Phú Quý (còn gọi là cù laoThu hay cù lao Khoai Xứ) là một cụm đảo có tổng diện tích 17,9 km2 nằm cách thành phố Phan Thiết 120 km về phía Đông Nam. Phú Quý là hòn đảo lớn nhất (Hình 1), những đảo nhỏ hơn gồm: hòn Tranh, hòn Trứng – hòn Trào ở phía nam, hòn Đỏ, hòn Đen, hòn Giữa ở phía bắc. Đảo Phú Quý trong khung tọa độ địa lý: Từ 10º28’58” đến 10º33’35” Vĩ độ Bắc. Từ 108º55’13” đến 108º58’12” Kinh độ Đông. Đặc trưng tự nhiên của khu vực nghiên cứu Địa hình Địa hình đảo Phú Quý giảm dần độ cao từ Bắc xuống Nam, hai núi cao là núi Cấm cao 107,2m; núi Cao Cát cao 89 m; ở trung tâm đảo phân bố các thềm biển 15 – 20 m, 5 m và 2 m, các đụn cát cao 10 – 15 m; các bãi biển nhỏ hẹp rải rác quanh đảo 5,6. Sự phá hủy của sóng biển vào nền đá bazan dòng chảy, đá vụn núi lửa hay đá cát kết đã tạo nên sự đa dạng địa hình bờ biển xâm thực. Địa tầng - Hệ tầng mũi Né, trầm tích biển tuổi Pleistocen sớm – giữa (mQ112 mn), chủ yếu là cát kết hạt nhỏ màu xám, đá hệ tầng lộ tại chân vách biển gành Hang. Hệ tầng mũi Né là hệ tầng có tuổi cổ nhất lộ trên đảo. - Hệ tầng Phan Thiết, trầm tích biển tuổi Pleistocen muộn, thời sớm (mQ131pt), thành phần trầm tích gồm cát thạch anh hạt nhỏ ít bột màu đỏ, vàng cam phân bố trên diện tích rộng ở trung tâm đảo. - Hệ tầng Phú Quý, bazan dòng chảy và phun nổ tuổi Pleistocen muộn, thời giữa (b /Q132pq). Thành phần thạch học chủ yếu là bazan olivin đặc sít hoặc lỗ rỗng; cát kết tuf chứa các mảnh, mảnh đá, sắc cạnh, khối đá, bom núi lửa. Đá hệ tầng phân bố diện rộng ở khu vực núi Cấm, núi Cao Cát và, dải ven biển gành Hang – bãi Nhỏ. - Trầm tích biển tuổi Pleistocen muộn, thời muộn. (mQ133) lộ chủ yếu ở phía đông nam và phía nam. Thành phần trầm tích gồm cát sạn chứa vụn vỏ sò, vụn san hômàu xám trắng, gắn kết từ vừa tới chặt (đá chai hoặc cát kết dính). Đá chai (còn gọi là đá quánh) trong quá khứ đã được dân đảo khai thác để xây dựng nhà và các cơ sở hạ tầng. - Các trầm tích Holocen có nguồn gốc biển (mQ2) và gió (vQ2) hình thành thềm biển cao 2–5 m, các đụn cát và các bãi biển hiện đại. Thành phần trầm tích gồm chủ yếu cát hạt nhỏ màu xám, xám vàng chứa vụn sinh vật biển (vỏ sò, san hô). Khí hậu, hải văn Phú Quý thuộc vùng khí hậu hải dương nhiệt đới gió mùa á xích đạo. Gió hoạt động theomùa: giómùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 9, gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Các tháng 4 và 10 là thời gian gió mùa chuyển hướng, tốc độ gió trung bình năm là 5,7m/s lớn gấp 2 – 3 lần so với tốc độ gió trong đất liền. Phú Quý thường chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Bão đổ bộ nhiều nhất vào tháng 11 chiếm 36%, sau đó đến tháng 10 chiếm 28%, tháng 12 chiếm 16% tổng số bão và áp thấp nhiệt đới cả năm7. Sóng do gió, bão là nguyên nhân gây xâm thực mạnh mẽ bờ biển đảo, nhưng cũng là nhân tố điêu khắc sự đa dạng địa hình ven biển. Chế độ mưa phân theo hai mùa khá rõ rệt. Mùa mưa gần như trùng với thời kỳ giómùaTâyNamvà thường kéo dài 7 tháng (từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình đều trên 100 mm). Thủy triều thuộc loại hỗn hợp, độ lớn triều trung bình 1,6 m, lớn nhất 2,2 m, nhỏ nhất 0,3m. Biển Phú Quý thuộc khu vực nước trồi mạnh8, sinh vật phù du và sinh vật đáy phát triển nên sản lượng hải sản cao. Nước dưới đất Là đảo nhỏ nhưng Phú Quý có nguồn nước dưới đất dồi dào. Các hệ tầng trầm tích và phun trào đều chứa nước. Tổng trữ lượng nước ngọt trên đảo khoảng 6,08 đến 7,28 triệum3. Trữ lượng khai thác tiềm năng trên đảo vào khoảng 2,5 đến 3,6 triệu m3 chiếm 40,8 đến 50,4% tổng trữ lượng nước ngọt trên đảo. Theo số liệu điều tra năm 2011, mức độ khai thác trên đảo vào khoảng 86,3 đến 95,5 nghìn m3/tháng chiếm 2,6 đến 3,7% trữ lượng khai thác tiềm năng7. Nước ngọt dồi dào sẽ là thếmạnh của đảo trong phát triển các ngành kinh tế như nông, lâm nghiệp cũng như du lịch. Tài nguyên biển Đáy biển ven bờ có hai hệ sinh thái là san hô và cỏ biển. Thảm cỏ biển bao quanh đảo rộng khoảng 100 m, có nơi đến 200 m. San hô cứng có gần 140 loài, trong đó, chiếm ưu thế lớn là Acropora cùng sự hiện diện của Seriatopora tạo nên đặc trưng rạn san hô nơi đây9. SI127 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 1: Vị trí đảo Phú Quý Đặc trưng văn hóa của khu vực nghiên cứu Phú Quý có 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh. Số dân trên đảo khoảng trên 28.000 người, mật độ dân là 1.580 người/km2 10. Các di tích khảo cổ cho thấy chủ nhân đầu tiên của đảo là cư dân Sa Huỳnh, tiếp theo là Chămpa. Cuối thế kỷ 16 – đầu thế kỷ 17, hòn đảo bình an này chào đón các ngư dân từ các tỉnhmiềnTrung. Vào thế kỷ 17, một số ngườiHoa cũng hòa nhập vào cộng đồng cư dân Phú Quý. Quá trình sinh sống các dân tộc Chăm, Kinh, Hoa đã tạo nên một bản sắc văn hóa riêng cho đảo Phú Quý11. Đảo hiện có 35 di tích tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có ba di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia (Đền thờ Công chúa Bàn Tranh, Vạn AnThạnh nơi lưu giữ gần 100 bộ xương cốt gồm cá voi, rùa da, Chùa Linh Quang) và bảy di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh, cùng nhiều lễ hội văn hóa rất đặc sắc như lễ hội rước sắc Thầy và lễ hội cầu Ngư11. KẾT QUẢNGHIÊN CỨU Các di sản địa mạo Kết quả tổng hợp tài liệu, khảo sát thực địa và đánh giá giá trị khoa học đã xác định đảo PhúQuý có bốn di sản địa mạo (Hình 2) bao gồm: núi lửa vòm núi Cấm, núi lửa phunnổCaoCát, bờ biển xâm thực gànhHang – bãi Nhỏ và đảo núi lửa hòn Tranh, trong đó núi lửa SI128 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 2: Các di sản địa mạo đảo Phú Quý phun nổ Cao Cát là di sản cấp khu vực (Nam Trung Bộ), ba di sản còn lại thuộc cấp địa phương (tỉnh). Núi lửa vòm núi Cấm Giá trị khoa học Núi Cấm cao 108m là núi lửa kiểu vòm, lộ bazanmàu xám đen đặc sít, vỏ phong hóa dày kết tảng, rắn chắc, những khối lăn kích thước tới 1 m3. Phía dưới chân núi lộ bazan phong hóa bóc cầu (Hình 3 và 4). Giá trị bổ sung Chân núi có chùa Linh Bửu (Hình 5), trên đỉnh núi có tháp đuốc Bác Hồ, trạm viễn thông quân sự và hải đăng núi Cấm (Hình 6). Hải đăng núi Cấm được xây dựng năm 1997, cao 18m, là điểm nhìn ấn tượng toàn đảo Phú Quý: 1) theo hướng đông bắc là cảnh quan núi lửa Cao Cát (Hình 7), 2) theo hướng đông nam là thềm cát đỏ kiểu Phan Thiết trải rộng và xa xa là núi lửa hòn Tranh, 3) theo hướng nam là làng chài Ngũ Phụng và 4) theo hướng tây bắc (khi trời quang) có thể thấy được núi Tà Cú (HàmThuận Nam), mũi Cà Ná (Ninh Phước) và phần phía Nam dãy núi Trường Sơn12. Núi lửa phun nổ Cao Cát Giá trị khoa học Núi Cao Cát cao 89 m, các vách xâm thực (vách biển cổ) cắt vào núi để lộ các lớp cát kết tuf phân dải chứa các mảnh đá bazan đen, sắc cạnh, các khối đá và bom Hình 3: Khối bazan lăn dọc đường lên núi Cấm Hình 4: Bazan phong hóa bóc cầu núi Cấm SI129 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 5: Chùa Linh Bửu Hình 6: Hải đăng núi Cấm 13 Hình 7: Cảnh quan phía đông núi Cấm núi lửa (Hình 8 và 9). Quan sát hình thái, kết hợp đo thế nằm các lớp cát kết tuf, bột kết tuf nhận thấy núi Cao Cát có cấu trúc phun nổ. Cấu trúc này có đường kính khoảng 5 km (Hình 8–Hình 13) và một nửa đã bị phá hủy bởi biển. Giá trị bổ sung Quanh núi Cao Cát nhiều di tích văn hóa cổ đã được phát hiện trong đó có chiếc mộ vò lớn bên trong có 3 rìu, bôn đá đặc trưng cho văn hóa Sa Huỳnh có niên đại cách nay 2500 – 3000 năm9. Chùa Linh Sơn trên 100 năm tuổi trên núi Cao Cát, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng của các tín độ Phật tử. Chùa cũng là điểm tựa tinh thần cho ngư dân khi ra khơi đánh bắt hải sản. Trên đỉnh cao 89 m có tượng Phật Bà Quan Âm rất uy nghi, từ đây có thể quan sát các lớp trầm tích vụn núi lửa và chiêm ngưỡng cảnh biển, phía đông có Dinh Thầy, phía đông bắc có hòn Đen – hòn giữa – hòn Đỏ, phía tây có mũi Long Hải, xóm Bát Tràng, xóm Long Hải. Trước cảnh đẹp hữu tình, dân gian đã khắc trên vách đá hai câu thơ: “Khen ai khéo tạo cảnh chùa Trên sơn dưới thủy, bốn mùa xanh tươi” Hình 8: Trầm tích vụn núi lửa phân dải chứa các mảnh đá bazan đen, sắc cạnh. Hình 9: Khối bazan trong cát kết tuf Hình 10: Cấu trúc núi lửa phun nổ Cao Cát là đường gờ dạng vòng từ Doi Thầy qua hòn Đen – hòn Giữa – hòn Đỏ đến mũi Long Hải. Bờ biển xâm thực gành Hang – bãi Nhỏ Giá trị khoa học Gò gành Hang cao 45 m, đặc trưng hình thái và thế nằm các lớp đá cho phép dự đoán đây cũng là núi lửa kiểu trung tâm như núi Cao Cát. Phần lớn diện SI130 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 11: Cấu trúc phân lớp trầm tích vụn núi lửa vách tây nam núi Cao Cát Hình 12: Địa hình từ núi Cao Cát đến bãi Bát Tràng – mộ Thầy Sài Nại – mũi Doi Thầy Hình 13: Vách biển mũi Doi Thầy nhìn ra các hòn Đen – Giữa – Đỏ tích phía đông núi lửa bị biển phá hủy tạo nên nhiều dạng địa hình bờ biển hấp dẫn du khách như: gành đá (Hình 14), thềm biển mài mòn, vách biển, bờ biển răng cưa, bãi biển dạng túi (Hình 14 và 15) hay cầu thiên nhiên (Hình 16). Địa hình do phong hóa muối dạng tổ ong gặp phổ biến trên đá bazan và cả trên đá cát kết (Hình 17). Tại vách biển gành Hang lộ một quan hệ địa tầng lý thú, đó là bazan lỗ rỗng màu đen phân lớp tuổi Pleis- tocenmuộn thuộc hệ tầng tầngPhúQuý (b /Q132pq) phủ bất chỉnh hợp lên cát kết nguồn gốc biển tuổi Pleistocen sớm – giữa (mQ112 mn) thuộc hệ tầng mũi Né (Hình 18). Giá trị bổ sung Cột cờ Tổ quốc tại thôn Triều Dương, xã TamThanh (Hình 19) cao 22,6 m trên thềm biển cao 30 m có vách dốc đứng. Cột cờ Phú Quý nhưmột tấm bia chủ quyền vững chãi giữa biển, khẳng định vùng lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Du khách đến đảo Phú Quý đều ghi lại những hình ảnh dưới chân cột cờ thiêng liêng này. Từ chân cột cờ, du khách còn có thể chiêm ngưỡng cảnh quan biển với sắc màu tương phản đen, đỏ của đá và màu xanh ngọc bích của nước biển. Hình 14: Gành đá do biển phá hủy đá bazan lỗ rỗng Hình 15: Bãi Nhỏ nhìn từ cột cờ Hình 16: Cầu thiên nhiên cấu tạo từ đá bazan lỗ rỗng SI131 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 17: Phong hóa tổ ong (Honeycomb Tafoni) trên cát kết Hình 18: (a) bất chỉnh hợp giữa bazan lỗ rỗng (b) và cát kết (c) Đảo núi lửa hòn Tranh Giá trị khoa học Hòn Tranh có diện tích 55 ha, chỉ nhỏ hơn đảo Phú Quý. Sự phá hủy của sóng biển vào đá bazan dòng chảy và vật liệu phun nổ đã tạo nên sự đa dạng địa hình quanh đảo. Sự đa dạng địa hình được thể hiện bằng các địa danh tượng trưngmà chỉ những ngư dân già đi biển lâu năm mới biết như: gò Móng Tay, vũng Gấm, vũng Bàn, mũi Xương Cá (Hình 20), vũng Phật (Hình 21), bàuMựcKhô; hangCònước, hangCòkhô, hang Đú (Hình 22), cầu thiên nhiên (Hình 23). Giá trị bổ sung Trên hòn Tranh cómiếu thờ vua Gia Long, miếu Trấn Bắc, thờ quận công Bùi Huy Ích, một vị tướng giỏi mất trên đường bảo vệ Nguyễn Ánh. Tại đây đã từng Hình 19: Cột cờ đảo Phú Quý, trên bậc thềm mài mòn cao 30 m có 77 cá Ông dạt vào bờ, nên có Vạn thờ thần Nam Hải. Vũng Phật cũng là nơi khởi nguồn truyền thuyết về “linh thạch”, một câu chuyện tâm linh hấp dẫn liên quan đến chùa LinhQuang hơn 250 tuổi trên đảo lớn. Các du khách đến đây rất ngạc nhiên khi giếng “Vua” hơn trăm năm tuổi lúc nào nước cũng ngọt, trong khi giếng mới đào cách đó chỉ khoảng 15 m luôn trơ đáy. Hòn Tranh có biển xanh trong vắt quanh năm, nơi để ngắm nhìn những rạn san hô hoang sơ đa sắc màu (Hình 24). Hình 20: Mũi Xương Cá phía nam hòn Tranh SI132 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 Hình 24: Rạn san hô nhiều màu sắc tại Hòn Tranh – Phú Quý. Nguồn:Facebook Sang Phú Quý và Tính Phú Quý Hình 21: Cột đá hình bàn tay Phật tại Vũng Phật Hình 22: Hang biển rộng 110 cm, sâu 270 cm, cao 85 cm Hình 23: Cầu thiên nhiên nhiên cao hơn 2 m 14 KẾT LUẬN Hoạt động phun trào, phun nổ và sự chạm khắc lâu dài của sóng, gió, mưa vào nền đá bazan nhô lên giữa biển khơi đã tạo lên đảo nhỏ Phú Quý với bốn di sản địa mạo có giá trị cả về khoa học và bổ sung (văn hóa, thẩm mỹ và sinh thái), trong đó núi lửa phun nổ Cao Cát xứng đáng là di sản cấp khu vực; di sản núi lửa núi Cấm, Bờ biển xâm thực gành Hang – bãi Nhỏ và Đảo núi lửa hòn Tranh là di sản cấp địa phương. Giá trị khoa học nổi bật của di sản núi Cao Cát đó là: biển trong quá khứ đã cắt đôi ngọn núi, để lại những vách đứng chênh vênh cấu trúc bởi những trầm tích vụn thô của núi lửa phun nổ. Chùa Linh Sơn hơn 100 tuổi có kiến trúc độc đáo tọa lạc trên núi Cao Cát; những di tích văn hóa cổ được tìm thấy quanh chân núi; ngắm nhìn đất, biển, trời Phú Quý từ tượng Phật QuanThếÂm là những giá trị bổ sung (tâm linh, thẩmmỹ) đặc biệt của di sản núi lửa phun nổCaoCát. Sự đa dạng địa hình bờ biển xâm thực của các di sản địa mạo như gành đá, mũi đá, vách đá với đủ hình dạng được gắn địa danh như gòMóng Tay, vũngGấm, vũng Bàn, mũi Xương Cá, vũng Phật, bàu Mực Khô hay hònĐen, hònGiữa, hònĐỏ làm cho đảo PhúQuý càng trở nên hấp dẫn với du khách. Diễn giải các giá trị khoa học và bổ sung của di sản địa mạo Phú Quý bằng sách báo, mô hình, hình ảnh sẽ thúc đẩy địa du lịch –một ngách của du lịch bền vững đang được phát triển ở nhiều nước, nhất là sự ra đời hàng loạt Công viên Địa chất trên thế giới. XUNGĐỘT LỢI ÍCH Các tác giả cam đoan rằng họ không có xung đột lợi ích. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Nghiên cứu này được thiết kế và thực hiện bởi tác giả Hoàng Thị Phương Chi. Tác giả Hà Quang Hải, HoàngThịPhươngChi vàNguyễnThịQuếNamkhảo sát thực địa và tổng hợp tài liệu tham khảo. Tác SI133 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI126-SI135 giả Hoàng Thị Phương Chi viết bản thảo, tác giả Hà Quang Hải chỉnh sửa bản thảo. LỜI CÁMƠN Nghiên cứu sinh Hoàng Thị Phương Chi được hỗ trợ bởi Chương trình học bổng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong nước của Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF), Viện Nghiên cứu Dữ liệu lớn (VINBIG- DATA). TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. UNESCO. Definition of Geotourism. Declaration Arouca. 2011;. 2. Hose TA. 3G’s for Modern Geotourism. Geoheritage. 2012;4(1- 2):7–24. Available from: https://doi.org/10.1007/s12371-011- 0052-y. 3. Reynard E. A method for assessing ”scientific” and ”ad- ditional values” of geomorphosites. Geographica Helvetica. 2007;62(3):148–158. Available from: https://doi.org/10.5194/ gh-62-148-2007. 4. Reynard E, Perret A, Bussard J, et al. Integrated Approach for the Inventory and Management of Geomorphological Her- itage at the Regional Scale. Geoheritage. 2016;8(1):43–60. Available from: https://doi.org/10.1007/s12371-015-0153-0. 5. Thạnh TD, An LD, Cử NH, et al. Biển đảo Việt Nam - Tài nguyên vị thế và những kỳ quanđịa chất, sinh thái tiêu biểu, NXBKhoa học tự nhiên và công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 2012;. 6. An LD. Đới bờ biển Việt Nam - Cấu trúc và tài nguyên thiên nhiên - Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. 2015;. 7. Hải KV. Ảnhhưởngnướcbiểndângđến tài nguyênnướcngầm trên huyện đảo Phú Quý, Luận văn Thạc sỹ khoa học, Trường đại học Khoa Học Tự Nhiên - Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội. 2012;. 8. LongBH, et al. Hiện tượngnước trồi trongvùngbiểnViệtNam. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 2009;. 9. Trinh DT. Rạn san hô đặc trưng biển đảo Phú Quý. Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, accessed: 06/12/2020. 2017;Avail- able from: bien-dao-phu-quy/t708/c249/i636. 10. Nien giam thong ke 2017 tinh Binh Thuan. accessed: 11/15/2020.;Available from: index.htm. 11. Tổng quan về lịch sử hình thành và văn hóa huyện Phú Quý. accessed: 05/02/2019.;Available from: thanh-va-van-hoa-huyen-phu-quy.htm. 12. Giới thiệu các di tích lịch sử - văn hoá trên địa bàn huyện Phú Quý. accessed: 07/24/2020.;Available from: https://phuquy. binhthuan.gov.vn/mDefault.aspx?sid=1355&pageid=4161& catid=61927&id=563779&catname=van-hoa&title=gioi-thieu- cac-di-tich-lich-su-van-hoa-tren-dia-ban-huyen-phu-quy. 13. Ngọn hải đăng trên đảo Phú Quý. Công ty du lịch Ấn Tượng Châu Á. accessed: 07/26/2020. 2018;Available from: https:// antuongchaua.com.vn/ngon-hai-dang-tren-dao-phu-quy/. 14. Bộ ảnh check in đảo Phú Quý hoang sơ cực truyền cảm hứng. Du Lịch Chất. accessed: 07/26/2020. 2019;Available from: https://dulichchat.com/bo-anh-check-in-dao-phu-quy- hoang-so-cuc-truyen-cam-hung/. SI134 Science & Technology Development Journal – Natural Sciences, 4(SI):SI126-SI135 Open Access Full Text Article Research Article 1Faculty of Environment, University of Science 2Vietnam National University Ho Chi Minh City Correspondence Hoang Thi Phuong Chi, Faculty of Environment, University of Science Vietnam National University Ho Chi Minh City Email: htpchi@hcmus.edu.vn History  Received: 06/8/2020  Accepted: 23/10/2020  Published: 21/12/2020 DOI :10.32508/stdjns.v4i1.997 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Geotourism Potential Of Phu Quy Island, Binh Thuan Province Hoang Thi Phuong Chi1,2,*, Ha Quang Hai1,2, Nguyen Thi Que Nam1,2 Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Phu Quy island – Binh Thuan province, is 120 km southeast of Phan Thiet city, where the long – lasting destruction of waves, wind, and rain into oceanic volcanic materials formed four significant geomorphological heritages. These geomorphosites have scientific and additional values (cultural, aesthetic, and ecological values), of which mountain Cao Cat cinder cones deserves to be a South Central Coast geomorphosite; while mountain Cam volcano, Hang Cliff – Nho beach erosion coast and Tranh volcanic islet are proposed at a local level. The impressive cliffs exposed layers of coarse and steeply sloping sediments caused by blasting; erosion coastal terrain such as cliffs, rocky head- lands, stacks, arch, islets, etc. all shapes and colors associated with landmarks such as Mong Tay tack, Gam inlet, Ban inlet, Xuong Ca headland, Phat inlet, Dried Squid pond, Den islet, Giua islet, Do islet... are outstanding scientific values. Furthermore, Sa Huynh cultural relics (2,500 – 3,000 years ago) discovered inmountain Cao Cat; Linh Son, and Linh Buu ancient pagodas; Phu Quy landscape viewpoints from mountain Cam Lighthouse or colorful coral reefs on Tranh islet... are additional values that increase the worth of Phu Quy island's geomorphosites. Interpreting the scientific and additional values of these geomorphosite with images, books, geometrically similar models, etc. would promote the geotourism – a niche of the sustainable tourismmarket that is developed along with Global Geoparks recognized by UNESCO. Key words: geotourism, geomorphosite, Phu Quy island Cite this article : Chi H T P, Hai H Q, Nam N T Q. Geotourism Potential Of Phu Quy Island, Binh Thuan Province. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 4(SI):SI126-SI135. SI135

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftiem_nang_dia_du_lich_dao_phu_quy_tinh_binh_thuan.pdf