Đảo Quan Lạn nói riêng, hệ thống đảo ven
bờ tỉnh Quảng Ninh nói chung còn lưu giữ các
giá trị du lịch sinh thái đặc sắc: hệ thống bãi cát
biển đẹp như Minh Châu, Sơn Hào, Nhãng Rìa,
Chương Nẹp; hệ sinh thái rừng trâm thuần
chủng; các di tích lịch sử, di chỉ bến thuyền cổ,
lễ hội đình Quan Lạn, . Bên cạnh tài nguyên
du lịch đa dạng thì khả năng tiếp cận từ đất liền
ra đảo bằng tàu và khả năng cung ứng cơ sở lưu
trú đã có những chuyển biến tích cực là nền
tảng thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái.
Lượng khách du lịch đến đảo Quan Lạn tắm
biển, nghỉ dưỡng vào mùa hè ngày càng tăng
thể hiện qua số lượt khách đến xã Minh Châu
năm 2013 tăng 4,6 lần so với năm 2010. Thực
trạng du lịch tại đảo đã bước đầu thỏa mãn các
nguyên tắc phát triển của DLST như bảo tồn giá
trị du lịch, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
và bước đầu mang lại lợi ích tài chính cho
người dân địa phương. Tuy nhiên, khả năng
cung ứng dịch vụ điện lưới, nước sinh hoạt, vui
chơi giải trí còn đơn điệu. Do vậy, đề tài đã đề
xuất một số giải pháp nhằm tiến tới xây dựng
mô hình du lịch sinh thái bền vững tại đảo Quan
Lạn nói riêng hay đảo ven bờ nói chung.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 1037 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng tài nguyên và giải pháp phát triển du lịch sinh thái đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
 54 
Tiềm năng tài nguyên và giải pháp phát triển du lịch sinh thái 
đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh 
Phạm Quang Tuấn*, Dương Thị Thủy, Lê Phương Thúy 
Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 09 tháng 01 năm 2015 
Chỉnh sửa ngày 27 tháng 01 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 03 tháng 03 năm 2015 
Tóm tắt: Đảo Quan Lạn nằm trong hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh, có vị trí quan trọng về 
mặt an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, trong quy hoạch tổng thể kinh tế xã 
hội khu kinh tế Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đảo được xác định là một trong 
bốn cụm điểm du lịch sinh thái tập trung điển hình của huyện. Tuy nhiên, hiện trạng khai thác du 
lịch sinh thái tại các đảo ở đây còn khá manh mún và tự phát. Trong bài viết này, nhóm tác giả 
phân tích cụ thể những tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của đảo dựa trên quan điểm phân 
tích tổng hợp, quan trắc môi trường và điều tra thực địa. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hỗ 
trợ việc quản lý và phát triển du lịch sinh thái tại đảo Quan Lạn như xây dựng mô hình cơ sở dữ 
liệu GIS và các giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường giáo dục môi trường cũng như 
khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch. 
Từ khóa: Du lịch sinh thái, đảo ven bờ, đảo Quan Lạn. 
1. Đặt vấn đề∗ 
Hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh là 
cửa ngõ, là đầu mối giao lưu kinh tế trong nước 
và quốc tế, là điểm trung gian, cầu nối giữa đất 
liền và biển khơi trong quá trình chinh phục và 
khai thác tài nguyên biển, là điểm dừng chân 
trên đường hàng hải quốc tế. Hệ thống đảo ven 
bờ có điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên 
biển, ven biển (hệ sinh thái san hô, cỏ biển, 
rừng ngập mặn; bãi cát biển, thủy sản,) được 
đánh giá cao, ý nghĩa to lớn trong phát triển du 
lịch sinh thái (DLST), bảo tồn thiên nhiên và 
nghiên cứu khoa học [1]. DLST với mục tiêu 
bảo vệ môi trường, sinh thái và văn hóa cũng 
_______ 
∗
 Tác giả liên hệ. ĐT: 84-988081161. 
 Email: phamquangtuan@hus.edu.vn 
như đảm bảo mang lại lợi ích về tài chính cho 
cộng đồng địa phương [2] đang dần trở thành 
định hướng phát triển lâu dài tại hệ thống các 
đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh nói chung, đảo 
Quan Lạn nói riêng. Tuy nhiên, hiện trạng khai 
thác DLST tại các đảo này còn khá manh mún, 
tự phát và chưa được người dân biết đến nhiều. 
 Trong bài viết này, nhóm tác giả đã phân 
tích, đánh giá tiềm năng tài nguyên du lịch, đề 
xuất mô hình cơ sở dữ liệu GIS phục vụ quản lý 
và các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển 
DLST tại đảo Quan Lạn trên quan điểm phân 
tích tổng hợp, sinh thái - môi trường và hệ 
thống phương pháp khảo sát thực tế, quan trắc 
môi trường nước biển cũng như điều tra xã hội 
học tại đảo. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 55 
2. Tiềm năng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn 
2.1. Vị trí địa lý 
Tỉnh Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo [3] 
thuộc khu vực ven bờ, chiếm khoảng 2/3 số đảo 
ven bờ cả nước (2078/2779), trong đó có 1.030 
đảo đã có tên. Tổng diện tích các đảo ven bờ 
tỉnh Quảng Ninh là 619,913km², trong đó tập 
trung lớn tại 2 huyện đảo Cô Tô và Vân Đồn 
với tổng số đảo chính 33 đảo [4] (bảng 1). 
Bảng 1. Khái quát các huyện đảo của tỉnh Quảng Ninh 
Tên 
huyện 
đảo 
Diện 
tích 
(km2) 
Số đảo 
chính 
Cách đất liền từ trung 
tâm huyện (km) 
Cô Tô 46,2 16 - Cách Hạ Long: 80km 
- Cách Cái Rồng:22km 
Vân 
Đồn 551,3 17 
- Cách Cửa Ông: 7km 
- Cách Hạ Long: 50km 
Nguồn: [4] 
Hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh với 
nguồn tài nguyên đa dạng thúc đẩy phát triển 
kinh tế biển và ven biển của tỉnh Quảng Ninh 
thông qua nuôi trồng hải sản, xây dựng các 
trung tâm phát triển kinh tế biển tổng hợp, dịch 
vụ hàng hải, thông tin liên lạc và đặc biệt là 
DLST. Hệ thống đảo ven bờ này vừa là cửa ngõ 
đất liền của tỉnh Quảng Ninh, vừa là cửa ngõ ra 
biển, làm cơ sở để phát triển thành các trung 
tâm giao thương quốc tế đường biển, đường bộ, 
đường hàng không; đồng thời còn là các vọng 
gác nhằm kiểm soát tàu bè ra vào cảng biển 
(cảng Cái Lân,). Một số đảo có vị trí an ninh 
quốc phòng đặc biệt quan trọng (đảo Trần, đảo 
Cô Tô,), là hệ thống tiền tiêu trên biển, mở 
rộng chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển, bảo 
vệ vững chắc an ninh vùng biển đảo ven bờ và 
lãnh hải, đóng góp cho bảo vệ chủ quyền biển 
đảo. 
Đảo Quan Lạn thuộc cụm đảo vịnh Bái Tử 
Long, có tọa độ địa lý 20053’04’’ vĩ độ bắc, 
107030’42’’ kinh độ đông. Đảo gồm hai xã 
Quan Lạn, Minh Châu với 5 thôn và một phần 
diện tích đảo thuộc địa phận vườn quốc gia Bái 
Tử Long (hình 1). 
Đảo có diện tích 118,638 km2, kéo dài theo 
phương đông bắc – tây nam, từ chân dãy núi 
Vân Đồn tới núi Gót, cách trung tâm huyện Vân 
Đồn khoảng 40km về phía đông nam. Đảo có vị 
trí quan trọng về mặt an ninh - quốc phòng và 
phát triển kinh tế biển. Đảo như một vòng cung 
ôm lấy rìa phía đông của vịnh Bái Tử Long, đây 
là tuyến đảo phía ngoài cùng của vịnh Bắc Bộ. 
Chính điều này khiến đảo Quan Lạn trở thành 
bức bình phong vững vàng ngăn sóng biển, che 
chắn cho Vân Đồn, giúp Vân Đồn trở thành nơi 
neo đậu tàu thuyền thuận tiện và an toàn. 
Hình 1. Sơ đồ vị trí địa lý đảo Quan Lạn. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
56 
Đảo Quan Lạn cấu tạo chủ yếu bởi các trầm 
tích lục nguyên hệ tầng Sông Cầu tuổi Devon 
và các trầm tích biển bở rời tuổi Đệ tứ (thường 
được gọi là đảo đất), mang sức hấp dẫn hoàn 
toàn khác biệt so với đảo cấu tạo bởi đá vôi 
(thường gọi là đảo đá) khá phổ biến của khu 
vực vịnh Hạ Long – Cát Bà [3]. Do diện tích 
của đảo khá nhỏ hẹp, tài nguyên đất, khoáng 
sản, hạn chế, việc trao đổi kinh tế giữa đảo 
với đất liền tương đối khó khăn nên cần tập 
trung khai thác các thế mạnh về du lịch nhằm 
nâng cao đời sống vật chất cho người dân trên 
đảo. Trong quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội 
khu kinh tế Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn 
đến năm 2030 cũng đã xác định cụm đảo Quan 
Lạn – Minh Châu sẽ là một trong bốn cụm du 
lịch tập trung điển hình của huyện. 
2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên 
Phần lớn các đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh 
được thành tạo chủ yếu do quá trình bóc mòn, 
xâm thực chia cắt lục địa và hình thành nên các 
đồi núi sót ven bờ, sau đó bị biển tiến Holocen 
tràn ngập và tạo nên các giá trị địa chất, địa 
hình và tài nguyên sinh vật đặc sắc. 
Địa chất, địa hình: Đảo có địa hình đồi núi 
- hải đảo đa dạng, phân dị mạnh với độ cao 
trung bình khoảng 40m so với mực nước biển, 
độ dốc trung bình là 250C. Hình thái chủ yếu 
của địa hình là đồi núi thấp và đảo đá vôi và 
một phần nhỏ diện tích có kiểu địa hình đồng 
bằng ven biển. Quan Lạn thuộc vùng đảo đông 
bắc bộ có cấu trúc địa chất phức tạp gồm các 
thành tạo có tuổi rất khác nhau như Paleozoi, 
Mesozoi, Kainozoi [3] và có cấu tạo khác nhau 
với thành phần nham thạch cũng khá phong 
phú. Địa hình đảo hết sức đa dạng từ đồi núi 
thấp, vũng cho đến các bãi triều, trong đó địa 
hình đồi núi thấp chiếm tới 74%. Quan sát ven 
chân đảo Quan Lạn thấy xuất hiện nhiều vũng, 
bãi triều đất bùn, bãi cát hẹp, bãi đá rộng 15 - 
70m, kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu 
thuyền. 
Cảnh quan đa dạng phân bố thành dải theo 
hướng tây bắc – tây nam khá thuận lợi cho khai 
thác du lịch tham quan – nghỉ dưỡng. Tại Quan 
Lạn, địa hình đáy biển tương đối đơn giản và 
bằng phẳng, khu vực đáy biển giữa các bãi 
Quan Hào và Minh Châu xảy ra quá trình bào 
mòn tích tụ, tạo nên bề mặt bằng phẳng nhất 
định, vật liệu tích tụ ở đây chủ yếu là cát bột sỏi 
sạn, vụn vỏ sinh vật. Đảo Quan Lạn là nơi phân 
bố của hệ thống bãi cát biển sạch, cát mịn và 
trắng trải dài hàng kilômét, điển hình như bãi 
Nhãng Rìa, Bể Thích, Chương Nẹp, bãi Giữa 
rất thuận lợi cho du lịch tắm biển, xây dựng khu 
resort nghỉ dưỡng. Đặc biệt là bãi biển Minh 
Châu với chiều dài gần 3km, cát trắng mịn, 
sóng êm, được đánh giá là bãi biển đẹp nhất 
Vịnh Bắc Bộ. Cũng không kém phần lộng lẫy, 
bãi biển Sơn Hào trên đảo Quan Lạn vào mùa 
hè với bãi cát trắng dài mịn như nhung, nước 
biển trong xanh và nắng dịu nhẹ đã tạo nên một 
thiên đường nghỉ dưỡng cho du khách. Phía 
trên các bãi tắm là rừng trâm tự nhiên thuần loại 
trên 100 tuổi, bao bọc lấy bãi biển, rất phù hợp 
cho việc phát triển các hoạt động du lịch sinh 
thái như căm trại, nghiên cứu khoa học, nghỉ 
dưỡng. 
Khí hậu: đây cũng là yếu tố quan trọng cho 
phát triển du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng. Đảo 
Quan Lạn nằm trong khu vực nhiệt đới gió 
mùa. Từ tháng 3 đến tháng 8, gió đông nam từ 
biển thổi vào mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm 
22,80C, cao nhất 37,30C và thấp nhất 4,60C [4] 
thuận lợi cho phát triển DLST, nhưng cũng gây 
ra tính mùa vụ du lịch nơi đây bởi sự xuất hiện 
của mùa đông từ tháng 10 năm trước đến tháng 
4 năm sau. Vì vậy, du lịch tắm biển, tham quan 
tại đảo chủ yếu sầm uất vào mùa hè từ tháng 4 
đến tháng 6, 7 dương lịch. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 57 
Thủy văn: nhiệt độ nước biển cũng là thông 
số có ảnh hưởng tới các hoạt động vui chơi giải 
trí dưới nước, theo các nghiên cứu thực nghiệm 
thì nhiệt độ nước thích hợp nhất cho vui chơi 
giải trí dưới nước là trên 200C. Kết quả quan 
trắc của Dự án Quy hoạch bảo vệ Môi trường 
huyện Vân Đồn đến năm 2020 tầm nhìn đến 
năm 2030 tại một số điểm xã Minh Châu và 
Quan Lạn cho thấy nhiệt độ nước biển dao động 
từ 160C đến 210C vào mùa đông, 240C đến 300C 
vào mùa hè, nằm trong mức khá phù hợp để 
phát triển các loại hình du lịch dưới nước và các 
chỉ tiêu như pH, độ dẫn điện, độ đục cũng đều 
nằm trong giới hạn cho phép. Với điều kiện 
dòng chảy vừa phải (0,1 – 0,2m/s), độ mặn của 
nước biển trung bình trên 27 0/00 và nhiệt độ 
nước biển trung bình năm là 25,10C,đều rất 
thuận lợi cho tắm biển, lặn biển, thể thao dưới 
nước. 
Tài nguyên sinh vật: hệ sinh thái rừng ngập 
mặn tại đảo Quan Lạn với quy mô khoảng 30 
ha có vai trò điều hòa khí hậu, tham gia kiến tạo 
bảo vệ cảnh quan ven bờ, chống xói mòn bờ 
biển, bảo vệ hệ thống đê ven bờ, hạn chế những 
cơn bão lớn quét qua đây, Hệ sinh thái vùng 
triều phân bố chính tại xã Minh Châu, nơi đây 
tập trung nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế 
như cá song, cầu gai, hải sâm, trai ngọc và đặc 
biệt là sá sùng. Hệ sinh thái vùng triều không 
chỉ là điểm tham quan du lịch mà còn là nguồn 
cung cấp ẩm thực cho du khách đến đảo Quan 
Lạn. Ngoài ra, đến Quan Lạn du khách còn bắt 
gặp hệ sinh thái rong cỏ biển, tập trung tại các 
bãi ven bờ quy mô khoảng 100 ha với sự phân 
bố các loài như Halophila ovalis, Zostera 
japonica [5]. Trên địa bàn xã Minh Châu còn 
tồn tại hệ sinh thái rừng Trâm với độ thuần 
chủng trên 90% [5], được đánh giá là một trong 
những rừng Trâm tự nhiên lớn nhất Việt Nam 
với diện tích khoảng 14 ha, trải dài 4-5km theo 
hình vòng cung, phủ kín cồn cát cạnh bãi tắm 
Chương Nẹp. Rừng Trâm sẽ là điểm lý tưởng tổ 
chức tour du lịch thám hiểm, đi bộ dã ngoại, 
cắm trại và với những du khách có thời gian lưu 
trú 1-2 ngày có thể tham gia câu cá mú và mực 
ngay tại vũng Ô Lợn. Không chỉ vậy, đến với 
Quan Lạn du khách có cơ hội ngắm rùa biển đẻ 
trứng tại bãi Dưới. 
Với không khí trong lành, các hệ sinh thái 
điển hình cả về quy mô và cấu trúc, bãi cát biển 
mềm mại đã tạo cho đảo Quan Lạn những điểm 
mạnh thu hút khách du lịch trong và ngoài 
nước. Đến với đảo du khách không chỉ tham 
quan, tìm hiểu, nghiên cứu giá trị tự nhiên đặc 
sắc mà còn được tắm biển và thưởng thức 
những món ăn ngon chế biến từ hải sản tươi 
ngay trên bãi biển. 
2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn 
Quan Lạn với tổng số dân 4.787 người 
thuộc 1.071 hộ và mật độ dân số khá cao 55 
người/km2 tại xã Quan Lạn và 20 người/ km2 tại 
xã Minh Châu [6,7]. So với xã Ngọc Vừng và 
Bản Sen đảo Vân Hải thì đảo Quan Lạn có mật 
độ dân số đông hơn bởi nơi đây trước kia từng 
là thương cảng nổi tiếng của Vân Đồn. Với lịch 
sử phát triển lâu đời, Quan Lạn đang lưu giữ 
trong mình những giá trị du lịch nhân văn đặc 
sắc. 
Di tích lịch sử: từ thế kỷ XI, Quan Lạn đã 
trở thành thương cảng sầm uất và thịnh vượng 
của Vân Đồn. Hiện nay, trên đảo vẫn còn lưu 
giữ những di tích của Bến thuyền cổ như bến 
Cái Làng, bến Cống Cái thuộc xã Quan Lạn và 
bến Con Quy xã Minh Châu. Di chỉ còn lại của 
các bến thuyền cổ là mảnh gốm, bát đĩa từ thời 
Đường – Tống của Trung Quốc, tiền Việt từ 
thời Lý, Trần và Lê. Đình Quan Lạn là ngôi 
đình cổ nhất tỉnh Quảng Ninh, là ngôi đình duy 
nhất còn thờ vua Lý Anh Tông được xây dựng 
từ thế kỷ XVIII với kiến trúc cổ. Đình với các 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
58 
hàng cột cao 5-6m có đường kính một người 
ôm không xuể được làm bằng gỗ Mần Lái, loại 
cây chỉ có trên đảo đá Ba Mùn (gần cảng Cái 
Làng), chống chịu mối mọt cao. Bên cạnh đó, 
đảo còn là nơi ghi dấu chiến thắng của vị thành 
hoàng Trần Khánh Dự tại đền thờ Trần Khánh 
Dư thuộc xóm Thái Hòa xã Quan Lạn và di tích 
dòng sông Mang lịch sử. Đền được xây theo 
kiểu chữ Đinh gồm 3 gian tiền đường và 2 gian 
hậu cung và đền thờ Trần Khánh Dư là nơi diễn 
ra lễ tế thành hoàng trong mỗi dịp lễ hội. 
Lễ hội: lễ hội đình Quan Lạn còn gọi lễ hội 
đua bơi Quan Lạn vừa là kỷ niệm chiến thắng 
đánh quân Nguyên Mông của tướng Trần 
Khánh Dư, vừa là ngày hội cầu được mùa của 
cư dân vùng biển. Lễ hội diễn ra từ ngày 10 đến 
ngày 20 tháng 6 âm lịch hàng năm tại khu vực 
trung tâm thương cảng Vân Đồn. 
3. Hiện trạng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn 
Hiện trạng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn 
đã đạt được thành công nhất định như lượng 
khách du lịch liên tục tăng qua các năm, hệ 
thống hạ tầng được quan tâm hơn, người dân 
địa phương đã bước đầu được hưởng lợi từ các 
hoạt động du lịch địa phương. 
3.1. Khả năng tiếp cận điểm du lịch 
Từ Hà Nội du khách có thể lựa chọn xe 
buýt xuất phát từ bến Mỹ Đình đến Cái Rồng 
hoặc sử dụng xe khách chạy tuyến Hà Đông – 
Mỹ Đình – Vân Đồn. Việc đi lại giữa đất liền 
với đảo Quan Lạn ngày càng thuận tiện, ngoài 
tàu gỗ đi từ Hòn Gai, Cái Rồng ra Quạn Lạn thì 
từ tháng 3 năm 2009 du khách có thể di chuyển 
bằng tàu cao tốc tại điểm xuất phát Cái Rồng ra 
đảo với thời gian hơn 1 giờ. 
Trong phạm vi đảo Quan Lạn có ba bến tàu 
phục vụ cho giao thương đi lại của khách du 
lịch và người dân địa phương là bến tàu gần 
miếu Đồng Hồ, bến tàu gần sông Mang (nối 
đảo Quan Lạn và đảo Trà Bản) và cảng cát Nam 
Hải đưa du khách đi tham quan bãi Minh Châu. 
Bên cạnh đó, đảo đã đầu tư hệ thống tàu cao 
tốc, 5 tàu chở khách đi các xã trong huyện đảo 
Quan Lạn cùng phương tiện vận chuyển đường 
bộ như xe lam (xe túc túc), xe ôm và xe buýt. 
Với du khách ưa thích tuyến du lịch tham quan 
dã ngoại Quan Lạn – Minh Châu – Sơn Hào – 
Yến Hải thì xe buýt sẽ là phương tiện hữu ích. 
3.2. Cơ sở hạ tầng – vật chất phục vụ du lịch 
Du lịch đảo Quan Lạn đang trong giai đoạn 
đầu của quá trình phát triển nên cơ sở hạ tầng – 
vật chất kỹ thuật còn nhiều bất cập như: số 
lượng cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống đạt tiêu 
chuẩn chưa nhiều, dịch vụ vui chơi giải trí gần 
như chưa có và chất lượng dịch vụ còn hạn chế. 
Cơ sở kinh doanh lưu trú và công ty du lịch 
sinh thái: năm 2013, trên đảo có 54 cơ sở kinh 
doanh lưu trú, trong số có 63% số cơ sở tập 
trung tại bãi Vân Hải, trung tâm xã Quan Lạn 
và 20 cơ sở tập trung tại xã Minh Châu. Chất 
lượng cơ sở lưu trú còn thấp, 50% trong số đó 
chưa được xếp hạng, chủ yếu là nhà nghỉ bình 
dân với công suất sử dụng buồng phòng đạt 
48% (tập trung các tháng mùa hè). Hiện nay, số 
cơ sở lưu trú với quy mô 20 buồng chỉ có 4 cơ 
sở là Vân Hải Đỏ resort (80 phòng), khách sạn 
Lepont Minh Châu (36 phòng), khách sạn Ann 
(21 phòng) và nhà nghỉ Ngân Hà (22 phòng) 
(bảng 2). Bên cạnh đó, dịch vụ “homestay” là 
hình thức ngủ tại nhà dân cũng đã thu hút được 
lượng du khách nhất định vào mùa hè đặc biệt 
là khách quốc tế, nhưng các cơ sở còn tự phát 
gây khó khăn cho thống kê và kiểm duyệt chất 
lượng. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 59 
Bảng 2. Thực trạng cơ sở lưu trú tại đảo Quan Lạn 
đến 4 tháng đầu năm 2014 
Xã 
Tổng số 
cơ sở 
lưu trú 
Tổng số cơ 
sở lưu trú 
được 
xếp hạng 
Tổng 
buồng 
phòng 
Buồng 
phòng 
đạt tiêu 
chuẩn 
Quan 
Lạn 34 18 897 311 
Minh 
Châu 20 9 110 85 
 Nguồn: [6,7] 
Phát triển dịch vụ nói chung hay du lịch nói 
riêng theo hướng bền vững đang dần trở thành 
ngành kinh tế mũi nhọn của huyện đảo Vân 
Đồn với cơ chế chính sách thu hút đầu tư DLST 
cởi mở hơn. Trên đảo đã có 4 doanh nghiệp đầu 
tư phát triển du lịch sinh thái là Công ty Vân 
Hải, Công ty VIT Hạ Long, Công ty Việt Mỹ, 
Công ty TNHH Vân Hải Xanh. 
Cơ sở hạ tầng khác và những khó khăn: do 
nằm xa đất liền, tính đến tháng 11/2014 đảo 
Quan Lạn vẫn chưa có điện lưới quốc gia, mọi 
hoạt động dựa vào 2 trạm điện chạy bằng 
diezen và tỷ lệ hộ được dùng điện còn thấp 
khoảng 30%. Không chỉ vậy, giá điện tại Quan 
Lạn rất cao: 17,800 đồng/số điện (gấp 11 lần so 
với giá điện quốc gia) và thời gian được cấp 
điện giới hạn từ 17giờ đến 22 giờ hàng ngày. 
Ngoài ra, trên đảo chưa có nước sạch dẫn tới 
hạn chế trong sinh hoạt của du khách, chi phí 
nhiều dịch vụ khác cũng tăng cao như giá “xe 
ôm” đắt gấp đôi so với đất liền bởi xăng dầu 
phải chở từ đất liền ra. 
3.3. Loại hình và tuyến du lịch 
Loại hình du lịch: dựa trên lợi thế nhiều bãi 
biển đẹp vẫn còn nguyên sơ, các loại hình du 
lịch được khai thác phổ biến tại địa phương là 
du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng tại bãi Sơn Hào, 
bãi VIP của xã Quan Lạn. Du khách có thể đắm 
mình trên các bãi biển cát trắng tinh, không in 
dấu chân như bãi Chương Nẹp, bãi Nhẵng 
Rìa, Tham gia hoạt động du lịch thăm quan, 
khám phá các điểm du lịch tự nhiên như hệ sinh 
thái rừng Trâm, bãi rùa đẻ trứng và tìm hiểu giá 
trị du lịch nhân văn đặc sắc tại đình Quan Lạn, 
đền thờ Trần Khánh Dư và lễ hội diễn ra tại đây. 
Tuyến du lịch: hiện nay, các tuyến du lịch tổ 
chức trong xã Quan Lạn và Minh Châu khá 
ngắn và đơn điệu, nên chưa thu hút khách du 
lịch tham gia. Nhằm nâng cao hiệu quả kinh 
doanh du lịch, các tuyến du lịch liên kết giữa 
Quan Lạn, Minh Châu với một số điểm du lịch 
khác đã được triển khai. Ví dụ như: 
- Tuyến 1: Hạ Long – Ngọc Vừng – Quan 
Lạn – Minh Châu – Vườn quốc gia (VQG) Bái 
Tử Long – Hạ Long (3 ngày 2 đêm). 
- Tuyến 2: Cái Rồng – Soi Nhụ - Minh 
Châu – Cái Lim – Cái Rồng (1 ngày). 
- Tuyến 3: Cái Rồng – Trà Thần – Cái Lim 
– Cái Đẻ - Minh Châu – Quan Lạn – Soi Nhụ - 
Cái Rồng (2 ngày 1 đêm). 
3.4. Khách du lịch 
Khách du lịch: khai thác những tuyến du 
lịch liên kết, lượng khách du lịch đến xã Quan 
Lạn ngày càng tăng ước đạt năm 2013 lượng 
khách tới Quan Lạn là 18.500 lượt, khách nội 
địa tăng 22% và khách quốc tế tăng 26% so với 
cùng kỳ năm 2012 [7]. Cũng tương tự, lượng 
khách du lịch đến xã Minh Châu năm 2010 chỉ 
đạt 4.500 lượt đến năm 2013 con số này đã tăng 
4,6 lần (bảng 3). 
Bảng 3. Lượng khách du lịch đến xã Minh Châu giai 
đoạn 2010-2014 
Năm 2010 2011 2012 2013 
Số lượng khách 
(người) 4.500 6.031 8.402 21.089 
Số lượng khách 
lưu trú qua đêm 
(người) 
1.251 2.134 5.231 11.838 
Nguồn: [6] 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
60 
Thời gian lưu trú trung bình của du khách là 
1,5 ngày, với những hoạt động du lịch được ưa 
thích như tắm biển bãi Minh Châu, thăm quan 
đình chùa Quan Lạn và thưởng thức ẩm thực 
địa phương. 
Mức độ hài lòng của du khách: Quan Lạn là 
hòn đảo đẹp, giàu tiềm năng du lịch, nhưng hệ 
thống hạ tầng vật chất còn hạn chế về điện sinh 
hoạt, nước sạch và giá dịch vụ cao khiến tỷ lệ 
du khách hài lòng về du lịch địa phương không 
cao 20,3%, tỷ lệ cảm thấy bình thường là 41,1% 
và đặc biệt tỷ lệ cảm nhận không hài lòng tới 
16,2%. Nguyên nhân không hài lòng của du 
khách chủ yếu do dịch vụ còn khá đơn điệu, 
thiếu các hoạt động như vui chơi giải trí trên 
biển, các hoạt động thương mại dịch vụ về đêm, 
sản phẩm lưu niệm của địa phương. 
3.5. Hoạt động giáo dục và thuyết minh môi trường 
Hoạt động giáo dục và diễn giải môi trường 
tại các điểm du lịch là nguyên tắc hoạt động cơ 
bản của DLST, hoạt động này tại đảo Quan Lạn 
đã có và gắn kết chặt chẽ với VQG Bái Tử 
Long. Vườn thường xuyên mở các khóa học 
nâng cao nhận thức về “bảo tồn rùa biển” cho 
các thầy cô dạy môn sinh vật và làm công tác 
Đoàn, Đội của huyện Vân Đồn cũng như các 
ngư dân đang sinh sống vãng lai và nuôi trồng 
thủy sản trong VQG. Trung tâm giáo dục cộng 
đồng do Fronter – Việt Nam đã tài trợ xây dựng 
phòng trưng bày tại xã Minh Châu, du khách có 
thể tìm hiểu giá trị tự nhiên, lịch sử cũng như 
những loài động thực vật quý hiếm của Vườn 
tại đây. Bên cạnh đó, hai xã Quan Lạn và Minh 
Châu cũng đã mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng du 
lịch cho một số nhà nghỉ, khách sạn và khóa 
học tiếng anh, bồi bàn, buồng phòng, nấu bếp, 
hướng dẫn viên nhưng số lượng người tham gia 
còn hạn chế. 
3.6. Hỗ trợ cộng đồng địa phương 
Du lịch tại đảo Quan Lạn đã bước đầu mang 
lại lợi ích xã hội cho người đân địa phương, 
giảm tỷ lệ thất nghiệp bằng việc tạo cơ hội việc 
làm tại các khu du lịch, resort, cơ sở kinh doanh 
lưu trú và ăn uống với các công việc cụ thể như 
quản lí nhà nghỉ, khách sạn, chạy xe túc túc đưa 
đón khách du lịch, mở quán ăn, lễ tân, hướng 
dẫn viên, bán hải sản, cho thuê xe máy, Dựa 
trên kết quả điều tra xã hội học tại đảo Quan 
Lạn vào tháng 5 năm 2013, nhóm tác giả đã thu 
thập được thông tin về mức độ tham gia của 
cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch 
(bảng 4). 
Bảng 4. Sự tham gia du lịch của một số hộ dân tại đảo Quan Lạn 
Họ và tên Thôn, Xã Năm bắt đầu hoạt 
động du lịch 
Người tham 
gia/tổng số người 
trong gia đình 
Hoạt động tham gia 
Phạm Hữu 
Thỏa 
Đông Nam, 
Quan Lạn 
2008 Xây dựng nhà 
nghỉ Khải Huyền 6/7 
Kinh doanh nhà nghỉ; bán hải sản 
khô; cho thuê xe đạp, xe máy 
Phạm 
Hùng Văn 
Xóm Đoài, 
Quan Lạn 
2011 Mượn đất 
công ty Vic giá 1 
triệu/năm 
4/6 
Xây dựng lều nghỉ chân gần bãi tắm 
Quan Lạn; thu mua hải sản, (từ 
tháng 4-9) 
Nguyễn 
Trọng Đức 
Đông Nam, 
Quan Lạn 
2002 Xây dựng nhà 
nghỉ Ngân Hà 2/5 
Kinh doanh nhà nghỉ; Bán tạp hóa; 
Cho thuê xe máy, xe đạp 
Bùi Thị 
Hải 
Quang 
Trung, Minh 
Châu 
2013 Bán tạp hóa 2/4 Bán hàng tạp hóa; Bán hải sản khô 
Nguyễn 
Thị Thảo 
Nam Hải, 
Minh Châu 2007 Mua xe túc túc 1/4 
Chạy xe túc túc (giá 
600.000đ/chuyến); Bán hải sản khô 
Lài Xuân 
Thành 
Ninh Hải, 
Minh Châu 
2010 Bắt đầu cho 
khách nghỉ lại tại 
nhà 
3/4 Cho khách nghỉ qua đêm; Hướng dẫn du lịch; cho thuê xe máy, xe đạp 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 61 
Du lịch đã thu hút số hộ nhất định tham gia, 
có gia đình tới 6/7 người làm dịch vụ du lịch, 
các hình thức tham gia khá đa dạng và có sự 
phân hóa giữa xã Quan Lạn và Minh Châu. 
Dịch vụ tham gia phổ biến của người dân xã 
Quan Lạn là kinh doanh lưu trú, cho thuê xe 
máy xe đạp, còn với xã Minh Châu là dịch vụ 
hướng dẫn viên, lái xe túc túc và bán hải sản khô. 
3.7. Đánh giá chung du lịch đảo Quan Lạn 
a) Thuận lợi 
Đảo Quan Lạn thuộc cụm đảo ven bờ tỉnh 
Quảng Ninh có vị trí chiến lược về an ninh 
quốc phòng, là bức bình phong vững vàng ngăn 
sóng biển, che chắn cho Vân Đồn, giúp Vân 
Đồn trở thành nơi neo đậu tàu thuyền an toàn 
và thuận tiện trong kết nối du lịch đảo Quan 
Lạn với đảo xung quanh. 
 Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong 
phú như bãi Minh Châu, bãi Nhãng Rìa, bãi Bể 
Thích, bãi Chương Nẹp, bãi Giữa, hệ sinh thái 
rừng Trâm, hệ sinh thái rừng ngập mặncùng 
các giá trị nhân văn đặc sắc như các bến thuyền 
cổ, di tích lịch sử và lễ hội là tiềm năng thuận 
lợi cho phát triển du lịch sinh thái địa phương. 
Độ sâu tại các bãi biển trên đảo khá thấp từ 5 
đến 10m, được bao bọc trong vịnh Bái Từ Long 
nên nước biển tại các bãi tắm rất sạch. Ngoài ra, 
các thông số khí hậu, hải văn khá thuận lợi cho 
loại hình du lịch tắm biển và nghỉ dưỡng. 
Du lịch đã dần thay đổi chất lượng cơ sở hạ 
tầng địa phương như đường giao thông, phương 
tiện vận chuyển kết nối đảo Quan Lạn với thị 
trấn Cái Rồng và đường bộ kết nối các thôn 
trong đảo; số lượng cơ sở lưu trú và dịch vụ ăn 
uống cũng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, du lịch 
đã giúp người dân nâng cao chất lượng sống, 
giúp họ có thêm việc làm và thu nhập. 
b) Khó khăn 
Du lịch Quan Lạn có tính mùa khá rõ nét, 
lượng khách du lịch đến đảo tập trung chủ yếu 
vào các tháng hè từ tháng 4 đến tháng 7, 8 
dương lịch do vậy công suất sử dụng phòng 
khách sạn không thực sự hiệu quả. 
Đảo Quan Lạn nằm cách thành phố Hạ 
Long khoảng 55km nên khả năng cung ứng 
nước ngọt, điện lưới cho sinh hoạt của người 
dân và du khách còn nhiều khó khăn kéo theo 
sự nghèo nàn và đơn điệu của dịch vụ vui chơi 
giải trí, dịch vụ thương mại về buổi đêm. 
Hiện nay, số doanh nghiệp du lịch tại đảo 
còn ít và đa phần đầu tư cho lưu trú, ăn uống 
mà chưa chú trọng cho sản phẩm du lịch tại các 
điểm như bãi Minh Châu, Sơn Hào, bãi Nhãng 
Rìa. Số lượng cơ sở lưu trú tăng qua các năm 
nhưng chất lượng còn hạn chế, số buồng phòng 
đạt tiêu chuẩn thấp và chất lượng nguồn lao 
động du lịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. 
4. Một số giải pháp phát triển và quản lý du 
lịch sinh thái đảo Quan Lạn 
4.1. Đề xuất mô hình cơ sở dữ liệu GIS phục vụ 
quản lý du lịch sinh thái 
Với mục tiêu giúp các nhà quản lý có thể 
truy vấn, cập nhật, quản lý dữ liệu du lịch trên 
địa bàn được thuận lợi và dễ dàng, nhóm tác giả 
đã đề xuất mô hình cơ sở dữ liệu (CSDL) GIS 
phục vụ quản lý du lịch đảo Quan Lạn thể hiện 
đầy đủ các nội dung về tài nguyên du lịch tự 
nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn, cơ sở hạ 
tầng du lịch, tuyến du lịch, 
Các nguồn dữ liệu nhóm tác giả thu thập 
được bao gồm dữ liệu không gian và dữ liệu 
thuộc tính. Dữ liệu không gian là 148 mảnh bản 
đồ địa chính (trong đó có 69 mảnh bản đồ tỷ lệ 
1/1000, 79 mảnh bản đồ tỷ lệ 1/2000). Ngoài ra 
còn có bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Quan 
Lạn năm 2010 định dạng *.dgn tỷ lệ 1/2000. Dữ 
liệu thuộc tính nhóm tác giả thu thập từ các 
nguồn là báo cáo kinh tế - xã hội các xã Minh 
Châu, Quan Lạn qua các năm; số liệu thống kê 
du lịch huyện Vân Đồn, tài liệu thu thập từ điều 
tra thực địa, Hình 2 mô tả quy trình xây dựng 
CSDL do đề tài đề xuất với sự hỗ trợ của phần 
mềm ArcGIS. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
62 
Hình 2. Quy trình xây dựng CSDL GIS phục vụ quản lý du lịch sinh thái đảo Quan Lạn. 
Cấu trúc CSDL bao gồm 3 nhóm chính là nhóm nền địa lý, nhóm cơ sở hạ tầng phục vụ cho du 
lịch và nhóm tài nguyên du lịch. Cụ thể các nhóm này bao gồm các lớp đối tượng sau: 
Bảng 5. Các lớp đối tượng trong CSDL 
STT Tên lớp đối tượng Mô tả Định dạng Các trường thuộc tính 
1 RanhGioi Ranh giới hành chính Polyline Loại ranh giới 
2 HienTrang Hiện trạng sử dụng đất Polygon Mục đích sử dụng, năm hiện 
trạng, ghi chú 
3 GiaoThong Giao thông Polyline Tên, mô tả 
4 DiemKTXH Điểm kinh tế, xã hội như ủy ban, 
trường học, 
Point Tên, mô tả 
5 BenTauThuy Bến tàu thủy Point Tên bến tàu, tọa độ X, tọa độ Y 
6 CoSoLuuTru Cơ sở kinh doanh lưu trú Point Tên cơ sở, địa chỉ, số phòng, mô 
tả chất lượng 
7 DoanhNghiepDL Doanh nghiệp du lịch Point Tên, địa chỉ, hình thức cung ứng 
8 TTGDCongDong Trung tâm giáo dục cộng đồng Point Tọa độ X, tọa độ Y, ý nghĩa 
9 BaiTam Bãi tắm Polygon Nhiệt độ, độ đục, pH 
10 HeSinhThai Hệ sinh thái Polygon Tên hệ sinh thái, mô tả 
11 DiTich Di tích lịch sử như đền, chùa, Point Tên, địa chỉ, mô tả, hình ảnh minh 
họa 
12 LeHoi Điểm lễ hội Point Tên, thời gian diễn ra, mô tả, hình 
ảnh minh họa 
13 TuyenDuLich Tuyến du lịch Polyline Tên, chiều dài, giá cả, thời gian, 
mô tả 
14 GhiChuKhac Ghi chú khác Point Tên ghi chú 
Mục tiêu nghiên cứu 
Thu thập dữ liệu 
Chuẩn hóa dữ liệu 
Thiết kế cấu trúc CSDL Dữ liệu không gian Dữ liệu thuộc tính 
 Nhóm nền địa lý Nhóm cơ sở hạ tầng 
phục vụ du lịch 
Nhóm tài nguyên du lịch 
Biên tập dữ liệu 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 63 
Hình 3. Minh họa chức năng hiển thị thông tin thuộc tính. 
Dựa trên cấu trúc dữ liệu đã xây dựng, các 
lớp đối tượng được tiến hành biên tập và cập 
nhật thông tin thuộc tính trong CSDL. 
Nhóm tác giả đã xây dựng được CSDL 
phục vụ quản lý du lịch sinh thái đảo Quan Lạn 
với một số các chức năng cơ bản như hiển thị 
thông tin, tra cứu thông tin và đo đạc. Đây cũng 
là những chức năng mà du khách muốn tìm 
hiểu khi đến với đảo. Hình 3 thể hiện các thông 
tin thuộc tính của di tích lịch sử đình Quan Lạn 
- ngôi đình cổ nhất của tỉnh Quảng Ninh. Du 
khách có thể nhìn thấy hình ảnh trực quan của 
ngôi đình này. Tương tự, khách du lịch có thể 
xem được các thông tin của các đối tượng khác 
như nhà nghỉ, khách sạn, hay các điểm lễ hội, 
Một trong những nhu cầu của du khách là 
muốn tìm kiếm những tuyến du lịch phù hợp 
với sở thích của mình để thăm quan và nghỉ 
ngơi. Hệ thống cũng có thể cung cấp một số 
công cụ tìm kiếm với các điều kiện như loại 
hình du lịch, giá cả, hay thời gian. Chỉ cần nhập 
điều kiện tìm kiếm vào công cụ lựa chọn theo 
thuộc tính, hệ thống sẽ hiển thị kết quả phù hợp. 
Hình 4 là ví dụ với điều kiện tìm kiếm là thời 
gian của tuyến du lịch là 2 ngày 1 đêm và loại 
hình du lịch sinh thái. Kết quả hiển thị là tuyến 
du lịch màu đỏ. Các thuộc tính chi tiết của 
tuyến cũng được hiển thị trực quan giúp du 
khách nắm bắt được thông tin, bao gồm mô tả 
tuyến du lịch, giá cả và phương tiện đi lại, cũng 
như các hình ảnh đặc trưng của các điểm du 
lịch. CSDL này sẽ hỗ trợ các nhà quản lý trong 
việc định hướng phát triển và quy hoạch khu du 
lịch sinh thái tốt hơn. 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
64 
Hình 4. Minh họa chức năng tìm kiếm thông tin tuyến du lịch. 
4.2. Một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái 
Hiện nay, các tuyến du lịch trên đảo chưa 
thực sự đa dạng, còn thiếu các tuyến du lịch cho 
mục đích thể thao giải trí. Với mục tiêu mở 
rộng sức ảnh hưởng của du lịch địa phương, đề 
tài cũng cho rằng cần đẩy mạnh liên kết du lịch 
với một số cụm điểm du lịch nổi bật như: Hà 
Nội – Vân Đồn – VQG Bái Tử Long – đảo 
Quan Lạn; Hà Nội – Cái Rồng – đảo Quan 
Lạn; Hà Nội – Vịnh Hạ Long – đảo Quan Lạn; 
Hà Nội – Hòn Gai – đảo Quan Lạn. 
Nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc 
trong quá trình hoạt động của DLST tại đảo 
Quan Lạn nói riêng hay hệ thống đảo ven bờ 
tỉnh Quang Ninh nói chung nhóm tác giả cũng 
đề xuất một số giải pháp khắc phục như: 
Cải thiện cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật 
phù hợp với DLST: cải thiện chất lượng đường 
bộ đến các điểm du lịch như đường đến bãi Sơn 
Hào, bãi Quan Lạn; nâng cao khả năng cung 
ứng nước ngọt và điện lưới quốc gia cho đảo. 
Đảo cần tiếp tục nâng cấp về số lượng cũng như 
chất lượng của hệ thống cơ sở ăn uống, mua 
sắm, lưu trú, giải trí tại các bãi tắm. Bên cạnh 
đó, đảo cũng cần quan tâm đến chất lượng 
thông tin liên lạc, dịch vụ y tế tại các xã Quan 
Lạn, Minh Châu nhằm phục vụ tốt hơn cho 
người dân trên đảo và khách du lịch. Địa 
phương có thể kêu gọi vốn đầu tư cho xây dựng 
các bến du thuyền, bãi đáp trực thăng và khu 
nghỉ dưỡng cao cấp 5 sao để đón khách quốc tế 
từ nhiều quốc gia trong Đông Nam Á. Nhằm đa 
dạng hóa các sản phẩm du lịch địa phương có 
thể tổ chức các hoạt động vui chơi như Bungee, 
chèo xuồng Caiac, quan sát hệ động thực vật 
hoang dã trên đảo. 
Tăng cường giáo dục môi trường trong du 
lịch sinh thái: thiết kế và phổ biến các tờ gấp, tờ 
rơi gìn giữ môi trường phù hợp đặt từng trạm 
kéo dài từ khu du lịch sinh thái Vân Hải thuộc 
xã Quan Lạn tới các bãi Chương Nẹp, Nhãng 
Rìa của xã Minh Châu. Bên cạnh đó, tiếp tục 
tăng cường các phương tiện truyền tin, giáo dục 
môi trường trên tuyến tham quan đi dạo trong 
rừng Trâm, tham quan bãi rùa đẻ trứng, khu du 
lịch sinh thái Vân Hải; xây dựng Trung tâm đón 
khách cùng giáo dục môi trường tại khu du lịch 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 65 
sinh thái Vân Hải và các hoạt động giáo dục 
môi trường cho người dân địa phương hai xã 
cần tổ chức thường niên. 
Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng 
địa phương vào hoạt động du lịch: du lịch tại 
đảo Quan Lạn đã dần lôi kéo người dân địa 
phương vào các dịch vụ du lịch như chạy xe túc 
túc, cho thuê xe đạp, cho thuê xe máy, bán đặc 
sản địa phương, cung ứng khách sạn, nhà nghỉ, 
dịch vụ homestay, phục vụ ăn uống Chính 
quá trình tham gia đáp ứng những nhu cầu của 
du khách đã tạo việc làm và tăng thu nhập cho 
cộng đồng địa phương. Nhằm nâng cao khả 
năng tham gia du lịch của cộng đồng địa 
phương có thể tổ chức một số mô hình du lịch 
sinh thái cộng đồng như: 
Mô hình ki ốt dịch vụ: đặt tại bãi Chương 
Nẹp, bãi Nhằng Rìa xã Minh Châu. Du khách 
sẽ được trải nghiệm quy trình sản xuất mực 
khô, sá sùng khô, tôm khô và tại đây du 
khách có thể mua đặc sản địa phương về làm quà. 
Mô hình nuôi thủy hải sản: mô hình được 
đề xuất sẽ giúp đa dạng hóa các hình thức tham 
gia của cộng đồng vào du lịch và cung cấp thực 
phẩm cho khách. Tại xã Minh Châu tập trung 
nuôi nhuyễn thể như tu hài, ốc với quy mô nuôi 
150 ha và tiến hành nuôi thả tự nhiên cầu gai, 
bào ngư, hải sâm với quy mô khoảng 359 ha. 
Với xã Quan Lạn mô hình nuôi tu hài có thể tổ 
chức tại đầm Cống Chậu và một số ao, đầm 
thuộc thôn Hải Yến, thôn Đông Nam quy mô 
đạt 326 ha. Bên cạnh đó, ven rừng ngập mặn 
cũng là địa điểm thuận lợi cho nuôi ngán, ốc, 
bào ngư, cá ghim, sá sùng Các điểm nuôi 
thủy hải sản là nơi trải nghiệm thú vị cho du 
khách ưa khám phá cuộc sống của người dân 
miền biển. 
Tuyên truyền quảng bá du lịch: tăng cường 
phát hành các ấn phẩm, sách hướng dẫn du lịch, 
tờ rơi giới thiệu về du lịch đảo Quan Lạn rộng 
rãi đến nhiều đối tượng trong và ngoài nước. 
Kết hợp với công ty lữ hành các tỉnh thành phố 
giới thiệu hình ảnh đảo Quan Lạn trên internet, 
truyền hình và tổ chức định kỳ phát phiếu 
thăm dò để lấy ý kiến của du khách trong một 
số tuyến du lịch tắm biển tại bãi Minh Châu 
(thôn Ninh Hải), khu du lịch Vân Hải và đến 
thờ Trần Khánh Dư vào mùa lễ hội nhằm đánh 
giá những mặt mạnh, yếu, được và chưa được 
để có hướng tiếp thị cũng như điều chỉnh kịp 
thời trong quá trình vận hành du lịch. 
5. Kết luận 
Đảo Quan Lạn nói riêng, hệ thống đảo ven 
bờ tỉnh Quảng Ninh nói chung còn lưu giữ các 
giá trị du lịch sinh thái đặc sắc: hệ thống bãi cát 
biển đẹp như Minh Châu, Sơn Hào, Nhãng Rìa, 
Chương Nẹp; hệ sinh thái rừng trâm thuần 
chủng; các di tích lịch sử, di chỉ bến thuyền cổ, 
lễ hội đình Quan Lạn,. Bên cạnh tài nguyên 
du lịch đa dạng thì khả năng tiếp cận từ đất liền 
ra đảo bằng tàu và khả năng cung ứng cơ sở lưu 
trú đã có những chuyển biến tích cực là nền 
tảng thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái. 
Lượng khách du lịch đến đảo Quan Lạn tắm 
biển, nghỉ dưỡng vào mùa hè ngày càng tăng 
thể hiện qua số lượt khách đến xã Minh Châu 
năm 2013 tăng 4,6 lần so với năm 2010. Thực 
trạng du lịch tại đảo đã bước đầu thỏa mãn các 
nguyên tắc phát triển của DLST như bảo tồn giá 
trị du lịch, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường 
và bước đầu mang lại lợi ích tài chính cho 
người dân địa phương. Tuy nhiên, khả năng 
cung ứng dịch vụ điện lưới, nước sinh hoạt, vui 
chơi giải trí còn đơn điệu. Do vậy, đề tài đã đề 
xuất một số giải pháp nhằm tiến tới xây dựng 
mô hình du lịch sinh thái bền vững tại đảo Quan 
Lạn nói riêng hay đảo ven bờ nói chung. Ngoài 
ra, địa phương cần tích cực công tác quảng bá 
P.Q. Tuấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 31, Số 2 (2015) 54-66 
66 
hình ảnh du lịch bằng việc đầu tư xây dựng cơ 
sở dữ liệu GIS và cung cấp thông tin trên mạng 
Internet rộng rãi hơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] P.P. Wong (1991), Coastal Toursim in Southeart 
Asia, United States Coastal Resources 
Management Project, 40 pages. 
[2] Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, 
những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở 
Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 45 tr. 
[3] Lê Đức An (1999), “Nghiên cứu hệ thống đảo 
ven bờ phục vụ quản lý tổng hợp vùng biển Việt 
Nam”, Tuyển tập báo cáo khoa học tập 2, Hội 
nghị khoa học công nghệ toàn quốc lần thứ IV, 
Hà Nội, tr. 725-729. 
[4] UBND tỉnh Quảng Ninh (2009), Báo cáo thuyết 
minh tổng hợp quy hoạch chung xây dựng khu 
kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh, 
252 tr. 
[5] Vũ Văn Thành (2006), “Tiềm năng phong phú 
của du lịch Vân Đồn”, Kỷ yếu hội thảo khoa học 
quốc tế “Nâng cao nhận thức và nănh lực phát 
triển du lịch bền vững trong thời đại toàn cầu 
hóa”, Hạ Long, tr.125-137. 
[6] UBND xã Minh Châu (2013), Báo cáo kinh tế xã 
hội xã Minh Châu, Quảng Ninh, 17 tr. 
[7] UBND xã Quan Lạn (2013), Báo cáo kinh tế xã hội 
xã Quan Lạn, Quảng Ninh, 14 tr. 
Potential Resources and Resolution to Develop Eco-tourism in 
Quan Lạn Island, Vân Đồn District, Quảng Ninh Province 
Phạm Quang Tuấn, Dương Thị Thủy, Lê Phương Thúy 
Faculty of Geography, VNU University of Science, 334 Nguyễn Trãi, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Quan Lạn Island which is located in the coastal islands system of Quảng Ninh has an 
important role in terms of national security and the development of marine economy. In especially, the 
general planning of socio-economic in Vân Đồn by 2020, with a vision to 2030, the island has been 
identified as one of the four typical clusters of eco-tourism system in this district. However, the 
situation of eco-tourism exploitation in the island is quite fragmented and spontaneous. In this paper, 
we would like to analyze the natural potential and humanity potential specifically based on the 
comprehensive analysis view, environment monitoring and field survey. Then we would like to 
propose the resolutions in order to support the management and development of eco-tourism in Quan 
Lạn island such as establishment of GIS database model, improvement of infrastructure, strengthen 
environmental education as well as encourage the participation of local communities in tourism 
activities. 
Keywords: Coastal islands system, eco-tourism, Quan Lạn Island, Vân Đồn district. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
6_8864.pdf