Qua những phân tích cho thấy, khu vực lãnh thổ phía Tây Quảng Nam có nguồn tài
nguyên du lịch hết sưc phong phú, đa dạng, đặc biệt, vùng này có những sản phẩm du
lịch hết sức độc đáo như du lịch văn hóa cộng đồng, sinh thái nghỉ dưỡng, ẩm thực vùng
núi. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên này vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả.
Hoạt động du lịch ở vùng này chưa phát triển, số lượng khách tham quan còn ít, du lịch
chưa tạo được nhiều việc làm, thu nhập cho cộng đồng bản địa.
Trong thời gian tới, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương cần
phải liên kết phát triển, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng thương
hiệu sản phẩm.Việc khai thác có hiệu quả các tài nguyên, các giá trị văn hóa phục vụ
phát triển du lịch sẽ góp phần tạo nguồn lực và động lực cho quá trình khôi phục, bảo
tồn các giá trị văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc; tạo việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương; tạo ra một
không gian hoạt động du lịch với những sản phẩm du lịch độc đáo bên cạnh các di sản
thế giới Hội An và Mỹ Sơn, từ đó thu hút khách đông hơn và kéo dài thời gian lưu trú
khi khách đến tham quan Quảng Nam.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch các huyện miền núi phía tây Quảng Nam gắn liền với bảo tồn giá trị văn hoá các dân tộc và xoá đói giàm nghèo bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(30)/2014: tr. 107-113
TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY QUẢNG NAM
GẮN LIỀN VỚI BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CÁC DÂN TỘC
VÀ XOÁ ĐÓI GIÀM NGHÈO BỀN VỮNG
TRẦN VĂN ANH
Trường Đại học Quảng Nam
Tóm tắt: Du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế tổng hợp, tác động đến
sự phát triển kinh tế xã hội ở cấp toàn cầu, quốc gia, lãnh thổ và đến từng thôn
bản ở vùng sâu vùng xa, những nơi có nguồn tài nguyên phong phú. Du lịch
đang góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều vùng quê của cả
nước nói chung và các làng quê, các làng dân tộc vùng phía Tây Quảng Nam
nói riêng. Bài nghiên cứu này giới thiệu những tiềm năng, những sản phẩm và
những giải pháp để thúc đẩy du lịch ở khu vực này phát triển.
Từ khóa: Du lịch phía Tây Quảng Nam, Du lịch miền núi Quảng Nam
1. GIỚI THIỆU
Quảng Nam được biết đến với thương hiệu Một điểm đến hai di sản văn hóa. Hội An,
Mỹ Sơn và Cù Lao Chàm đã tạo nên thương hiệu, động lực và những sản phẩm du lịch
chính của tỉnh miền Trung này. Bên cạnh các di sản có giá trị quốc tế, mảnh đất này còn
có những giá trị văn hóa, lịch sử, tự nhiên hết sức độc đáo, đặc sắc, có sức cuốn hút rất
lớn đối với du khách mỗi lần đặt chân đến tham quan, nghỉ dưỡng. Bộ phận lãnh thổ
phía Tây Quảng Nam với địa hình núi cao thuộc phần Đông của dãy Trường Sơn Nam
là địa bàn sinh sống của hơn 12 dân anh em với những giá trị văn hóa, phong tục tập
quán hết sức đặc sắc. Với tiềm năng lớn những vẫn chưa được khai thác có hiệu quả để
phục vụ phát triển du lịch
2. NHỮNG TIỀM NĂNG VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
2.1. Những tiềm năng và sản phẩm du lịch
Vùng phía Tây Quảng Nam là vùng đất còn ẩn chứa trong mình nhiều giá trị, tài nguyên
phát triển du lịch hết sức đa dạng, độc đáo nhưng vẫn chưa được khai thác một các có
hiệu quả và tương xứng.
Trước hết là tài nguyên du lịch sinh thái, tự nhiên. Nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt
đới ẩm gió mùa, với độ ẩm không khí khoảng 90%, nhiệt độ trung bình các tháng trong
năm là 240C, lượng mưa khoảng 2.800mm [2] khu vực này có điều kiện rất thuận lợi để
phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng... Đến đây, du khách sẽ được
thưởng thức sự hùng vĩ, ngoạn mục độc đáo của tự nhiên nhưng cũng hết sức lãng mạn,
yên tĩnh, thanh bình với các đỉnh núi cao hàng ngàn mét so với mặt nước biển, thác
nước hùng vĩ, hệ thống sông suối, hồ dày đặc. Hệ thống tự nhiên này đã tạo ra không
108 TRẦN VĂN ANH
gian thơ mộng, hoang sơ, trữ tình của núi rừng, thác nước, con suối hùng vĩ, những hồ
thuỷ điện (A Vương, Đắkmi...) [5]. Đặc biệt, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nơi đây
đã hình thành và bảo tồn được một khu bảo tồn thiên nhiên lớn, với nguồn sinh vật
phong phú và khung cảnh thiên nhiên hoang dã như khu Bảo tồn thiên nhiên Sông
Thanh, hệ thống rừng nguyên sinh Đông Trường Sơn.
Tài nguyên du lịch nhân văn mang tính cộng đồng - bản địa – nguyên sơ. Đi dọc tuyến
đường Hồ Chí Minh du khách sẽ được khám phá, chìm đắm trong một không gian văn
hoá bản địa đặc sắc, độc đáo, đa dạng nhưng vẫn còn giữ được giá trị nguyên sơ. Những
giá trị văn hoá ghi dấu những chiến tích lịch sử, những dấu ấn huy hoàng của đồng bào
các dân tộc nơi đây, từ những sinh hoạt văn hoá cộng đồng như lễ hội, phong tục tập
quán đến kiến trúc, ẩm thực, âm nhạc... Các địa danh nỗi tiểng như làng Rô, Đồi E, cứ
điểm Ngok Ta Vak, địa đạo A Nông, chiến thắng Khâm Đức, Bến Giằng, Cầu Xơi, căn
cứ Khu ủy Khu V, căn cứ Phước Trà, nhà lưu niệm Cụ Huỳnh [4] chứa đựng những
giá trị về lòng yêu nước, về tinh thần quật cường của người dân xứ Quảng. Đến đây du
khách còn được tham gia, chiêm ngưỡng khám phá những lễ hội tiêu biểu, những điệu
múa độc đáo, đặc sắc của cộng đồng các dân tộc như Cơ tu, Gỉe triêng, Cadong... như lễ
xin phép giàng, lễ chọn đất phát rẫy, lễ hội mừng lúa mới, lễ chọn đất dựng làng, lễ xin
đất dựng nhà, lễ khánh thành Gươl, lễ cưới, lễ hội đâm trâu [6]... Các lễ hội trên đều ẩn
chứa những giá trị văn hoá, quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo; là một bảo tàng sống về
những hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của cộng đồng, là sự kết tinh những giá trị văn
hóa truyền thống đặc trưng nhất của tộc người. Bên cạnh đó, khách còn được thưởng
thức những món ẩm thực đặc sản của cộng đồng các dân tộc nơi đây như rượu Tà vak,
rượu Ba Kích, rượu cần, các món ăn dân dã nhưng rất ngon và hấp dẫn như cơm lam,
rượu cần, măng rừng, rau lủi, cá niêng, ếch núi, các món ẩm thực lấy từ rừng [6]...
Đến với vùng đất này du khách không chỉ được khám phá, đắm mình trong những giá
trị văn hoá bản địa mang tính cộng đồng sâu sắc mà còn có những sản phẩm làm quà
lưu niệm hết sức hấp dẫn như các sản phẩm dệt thổ cẩm (tấm đắp (tuốc), khố (cha lan),
váy (doóh)...với nhiều họa tiết, màu sắc sặc sỡ, hoa văn độc đáo) sản phẩm đan lát, mật
ong rừng, rượu Tà vạt, Tr’đin của người Cơtu, các loại nhạc cụ dân tộc [6]... của các
dân tộc thiểu số miền núi Quảng Nam. Đó không chỉ là những món quà từ miền núi
mang về miền xuôi, khi du khách trực tiếp quan sát, tham gia vào các công đoạn chế
biến, tạo sản phẩm sẽ là một trãi nghiệm thú vị không dễ gì quên sau chuyến hành trình
kết thúc.
Trong thời gian tới việc phát triển du lịch ở khu vực này cần tập trung xây dựng phát
triển một số sản phẩm du lịch tiêu biểu dựa trên những lợi thế so sánh sau:
Homestay và du lịch cộng đồng: nghiên cứu thưởng thức văn hoá bản địa. Đây là loại
hình - sản phẩm du lịch đã rất phổ biến ở một số nước như Pháp, Mỹ, Thái Lan,
Malaysia, Singapo... và đang có xu hướng phát triển nhanh ở nước ta như một số làng
văn hoá dân tộc ở phía Bắc như Mai Châu - Hoà Bình, Bắc Hà – Lào Cai [3] Du lịch
Homestay và du lịch cộng đồng là hình thức mà khách du lịch lưu trú trong nhà dân, ăn
ở, sinh hoạt cùng với người dân bản địa, khám phá các giá trị của văn hoá địa phương
TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY... 109
và các sản phẩm, hoạt động du lịch do người dân, cộng đồng địa phương và khách chi
trả mọi chi phí cho người dân trực tiếp làm các dịch vụ ăn ở, sinh hoạt... Khách thường
là những người thích và luôn quan tâm khám phá các giá trị văn hoá bản địa còn
nguyên sơ, mộc mạc, gần gủi, giá trị mang tính cộng đồng... Thu nhập từ hoạt động du
lịch sẽ mang lại lợi nhuận trực tiếp cho các hộ dân tham gia tổ chức dịch vụ cũng như
làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của bản – làng cộng đồng địa phương. Với tiềm
năng về các giá trị văn hoá cộng đồng bản địa đặc sắc, còn có tính nguyên sơ và từ thực
tế phát triển của loại hình homestay và du lịch cộng đồng ở một số tỉnh, vùng phía Tây
Quảng Nam hoàn toàn có khả năng hình thành và phát triển sản phẩm du lịch độc đáo
này. Trong thời gian tới có thể nghiên cứu đầu tư phát triển sản phẩm du lịch Homestay
và du lịch cộng đồng ở một số làng như Aró xã Lăng, huyện Tây Giang; làng T’ghêy xã
A vương, huyện Tây Giang; làng Tà Vàng (xã A Tiêng, Tây Giang); làng Za Ra (xã
TàBhing, huyện Nam Giang); làng Bhờ Hồông (xã sông Kôn, Đông Giang)... Biến
những làng này trở thành những ngôi nhà, cộng đồng mà khi đến đây khách luôn cảm
thấy ấm cúng, hấp dẫn, như ngôi nhà thứ hai của họ.
Du lịch sinh thái nghỉ dưỡng – leo núi - thể thao mạo hiểm: Phát triển các loại hình du
lịch thể thao leo núi mạo hiểm ở các đỉnh núi như Pôl Tăm Heo (Ngok Lum Heo) 2.045
mét, Ngok-Ti-On 2.032 mét, Pôl Gơlê Zang (núi Xuân Mãi) 1.834m, Ngọc Linh
2598m[5]. Hình thành các điểm du lịch tham quan – sinh thái - thể thao – nghĩ dưỡng
tại Thác Grăng, danh thắng nước Lang, Đèo Lò Xo, thác Nước (thác Mô Ních), thác
Bảy tầng, suối nước nóng Đắk Gà, Hồ Ban Mai; tham quan sinh thái tại các hồ thuỷ
điện trên sông như sông Cái, sông Vàng, sông A Vương, song Tranh, sông Kôn, sông
Bung, Sông Đăk My, Sông Trường, sông Đắk Mét, suối Đăk Glon, Đăk Xa Oa, Đăk
Xe...; loại hình tham quan nghiên cứu sinh thái tại khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh.
Đặc biệt, cần xây dựng hồ thuỷ điện Đăkmi 4C trở thành một điểm du lịch sinh thái
nghỉ dưỡng chính cho cả khu vực trên tuyến đường Hồ Chí Minh.
Du lịch ẩm thực thưởng thức hương vị vùng núi. Thưởng thực ẩm thực được xem là một
nhu cầu quan trọng xếp hàng thứ hai đối với mục đích đi du lịch của du khách. Miền
Tây Quảng Nam có cơ sở, điều kiện, tiềm năng để hình thành những sản phẩm ẩm thực
đặc trưng vùng núi cung cấp phục vụ nhu cầu của du khách trong thời gian tới. Vùng
này có các đặc ản nổi tiếng như món rau lủi (xào thịt bò, tỏi, luộc, nấu canh..), măng
(măng khô, xào, luộc, nấu canh..), cá niêng (trên song Tranh), tiêu Tiên Phước, Quế Trà
My, sâm Ngọc Linh... Bên cạnh đó, vùng này cần phải nghiên cứu chuyển đổi mô hình
sản xuất theo hướng trang trại chăn nuôi các loại động vật hoang dã đã được nhân
giống, lai tạo và cho phép nuôi như heo rừng, heo thả rông, gà thả đồi, nuôi nhím, nuôi
thỏ, nuôi ếch, kỳ nhông, nuôi rắn, baba để hình thành các món “gà chỉ, thỏ chỉ, rắn chỉ,
heo chỉ...”. Cùng với các sản phẩm có thể thưởng thức tại chỗ, cũng cần nghiên cứu tạo
các sản phẩm để khách có thể mang về làm quà như các loại rượu (rượu cần, ba kích,
tàvak...), cơm lam, măng khô, thịt khô xông khói (treo giàn bếp), rau lủi... Điều đặc biệt
hơn, trong tương lai không xa, khi hoạt động giao thông vận tải trên đường Hồ Chí
Minh trở nên tấp nập nhộn nhịp hơn, Khâm Đức hoàn toàn đủ điều kiện để trở thành
trạm dừng nghỉ (ăn và nghỉ trưa - tối - khuya...) của hành khách, của các hãng vận tải
110 TRẦN VĂN ANH
trên hành trình Bắc – Nam. Khi đó, hệ thống khách sạn, nhà hàng, quán ăn sẽ rất phát
triển nên việc định hướng sản phẩm ẩm thực phục vụ đối tượng khách này là hết sức
quan trọng.
Nếu một lần đi du lịch lên khu vực phía Tây, du khách có thể dừng chân ở Khâm Đức,
Thạnh Mỹ, suối nước khoáng Đắk Gà, thác Găng, thác Bảy tầng... và trong bữa ăn, du
khách được thưởng thức thực đơn với các món ăn như rau lủi, măng rừng, bắp chuối,
“gà chỉ, heo chỉ, rắn chỉ, thỏ chỉ”..., được ăn cơm lam, uống rượu đặc sản (rượu cần, ba
kích, tàvak...) và sau bữa ăn còn có những món ăn mang về làm quà cho người thân thì
chuyến du lịch sẽ trở nên trọn vẹn, tuyệt vời.
2.2. Những điều kiện phát triển du lịch
2.2.1. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng
Trên khu vực phía Tây có các tuyến đường quan trọng như quốc lộ như QL14, đường
Hồ Chí Minh và tuyến đường Trường Sơn Đông (đang trong giai đoạn thi công) và các
tỉnh lộ (từ Hội An theo đường 610, 611, từ Đà Nẵng đi theo đường 14E kết nối với
đường Hồ Chí Minh) được xây dựng đảm bảo các yêu cầu phục vụ du lịch, trong đó,
Đường Hồ Chí Minh đã trở thành nhân tố quan trọng, góp phần đánh thức tiềm năng
kinh tế, du lịch miền núi phía Tây Quảng Nam phát triển, góp phần giảm bớt khoảng
cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng. Tuyến đường Hồ Chí Minh sẽ là “kênh
dẫn khách” quan trọng bậc nhất đến với tài nguyên và các điểm du lịch trên địa bàn các
huyện phía Tây. Tuy nhiên từ tuyến quốc lộ, tỉnh lộ nối với các điểm du lịch hầu như
chưa có, chủ yếu là đường liên thôn, bản, đường xã chất lượng thấp, không có biển chỉ
dẫn, đèo dốc rất khó cho các phương tiện di chuyển, phần nào nguy hiểm cho du khách,
nhất là các điểm du lịch núi, du lịch làng văn hóa cách xa đường Hồ Chí Minh và vào
mùa mưa... Mức độ an toàn cao vào mùa khô, mức độ an toàn thấp vào mùa mưa, lũ.
Phương tiện di chuyển chính là ô tô và xe máy.
Hệ thống các cơ sở lưu trú, nhà hàng tập trung chủ yếu tập trung chủ yếu ở thị trấn
Khâm Đức (Phước Sơn) với hơn 20 cơ sở lưu trú, trong đó có 1 khách sạn đạt tiêu
chuẩn 3 sao, và một số cơ sở ở trung tâm các thị trấn (mỗi thị trấn có từ 2-3 cơ sở lưu
trú). Tổng khả năng phục vụ của các cơ sở trên khu vực này khoảng trên 1000 lượt
khách/ngày, nhưng chất lượng một số cơ sở chưa cao, thiếu chuyên nghiệp nhất là các
cơ sở ở khu vực ở Nam Giang, Đông Giang, Bắc và Nam Trà My. Các cơ sở lưu trú có
thể đáp ứng giai đoạn hiện tại, nhưng trong tương lai khi hoạt động du lịch phát triển thì
sẽ dẫn tới tình trạng quá tải.
Các điểm du lịch, nhất là các đỉnh núi, thác nước, các làng văn hóa nằm sâu trong khu
vực núi, xa các tuyến quốc lộ đều thiếu hệ thống điện, thông tin liên lạc (sóng điện thoại
di động rất hạn chế),..Điều này chưa đáp ứng các tiêu chuẩn phục vụ du lịch nên khả
năng phục vụ khách còn hạn chế.
TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY... 111
2.2.2. Dân cư và lao động
Khu vực này là địa bàn sinh sống của cộng đồng các dân tộc ít người như Cơ tu, Giẻ
triêng, Kor,.. Cộng đồng cư dân khu vực này cư trú thành các làng bản dọc các con
sông, suối, triền núi,.. nên mật độ dân cư thấp. Cộng đồng cư dân ở đây sở hữu rất nhiều
loại tài nguyên, trong đó có tài nguyên du lịch, nhưng đời sống của họ còn nhiều khó
khăn. Họ có lối sống chất phác, mộc mạc, có tinh thần và truyền thống yêu nước.
Nhưng nhận thức, kiến thức và kỹ năng làm du lịch còn nhiều hạn chế. Hầu như người
dân chưa có kiến thức và khả năng làm du lịch. Mới chỉ một số rất ít làng, người dân
được phổ biến, tập huấn các kiến thức và kỹ năng làm du lịch. Do đó, nguồn nhân lực
làm du lịch đang rất thiếu về số lượng và chất lượng thấp kể cả ở các cơ quan quản lý
nhà nước, các doanh nghiệp làm du lịch cũng như trong cộng đồng. Hiện nay, các địa
phương khu vực này chưa có đơn vị và cán bộ chuyên trách làm công tác phát triển du
lịch mà chủ yếu là phòng ghép, tổng hợp, cán bộ kiêm nhiệm, phần lớn lại chưa được
đào tạo chuyên ngành du lịch. Hệ thống các doanh nghiệp du lịch ở khu vực này gần
như chưa có. Hoạt động đưa khách lên du lịch ở khu vực này hiện tại chủ yếu là do các
doanh nghiệp ở Hội An, Tam Kỳ tổ chức.
Ngoài ra, khu vực phía Tây đã và đang được sự chú ý quan tâm của các cấp các ngành
trong quy hoạch, đầu tư phát triển du lịch. Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Nam đến
2020 xác định khu vực phía Tây là một địa bàn du lịch quan trọng gắn liền với việc khai
thác và bảo tồn các giá văn hóa cộng động, tài nguyên tự nhiên sinh thái,.. Định hướng
phát triển du lịch trong thời gian tới là mở rộng không gian và biên độ phát triển du lịch
lên phía Tây và phía Nam của tỉnh. Tỉnh và ngành du lịch luôn khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư phát triển các tour/tuyến du lịch, xây dựng sản phẩm và phát triển các điểm
du lịch ở khu vực này. Tổ chức Lao động quốc tế - ILO phối hợp với UBND tỉnh Quảng
Nam đang triển khai dự án “tăng cường hoạt động làm du lịch tại các huyện nằm sâu
trong đất liền” được thực hiện tại làng Bờhồông, thôn Đhờ rôồng ở Đông Giang.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG THỜI GIAN TỚI
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất. Trước hết cần xây dựng hệ thống các
tuyến giao thông kết nối các điểm du lịch như các làng truyền thống các dân tộc, hồ -
thác nước, khu rừng, đỉnh núi, các trang trại, khu nghỉ dưỡng, các điểm tham quan... với
tuyến đường Hồ Chí Minh và các tuyến tỉnh lộ, kết nối với các khu vực (Tây Nguyên,
Đà Nẵng, Huế, Hội An, Lào qua cửa khẩu Đắkốc...) nhằm làm tăng khả năng tiếp cận,
tăng tính tiện lợi, an toàn, nhanh chóng khi khách muốn di chuyển, tham quan, nghĩ
dưỡng. Phát triển hệ thống các phương tiện vận chuyển phù hợp, đặc thù miền núi như
hệ thống xe buýt, xe du lịch (tự lái), mô tô cho thuê (phục vụ du lịch cá nhân, du lịch
“bụi”, du lịch “phượt”), các loại thuyền (du lịch lịch trên sông, hồ...) và phát triển hệ
thống các trạm tiếp nhiên liệu, sửa chữa phương tiện, ứng cứu khẩn cấp cho khách...
Xây dựng hệ thống các cơ sở lưu trú dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh, các trung tâm
lưu trú quy mô, hiện đại, đạt tiêu chuẩn tại các trung tâm các huyện như Khâm Đức,
112 TRẦN VĂN ANH
Thạnh Mỹ, Brao... Các cơ sở lưu trú cần gắn liền với hệ thống nhà hàng, quán ăn phục
vụ các món ẩm thực truyền thống mang hương vị đặc trưng địa phương [1].
Phát triển nhân lực phục vụ du lịch. Đội ngũ cán bộ quản lý du lịch cần được tuyển
dụng đúng chuyên ngành văn hoá du lịch, hoặc phải tiến hành tập huấn, đào tạo và đào
tạo lại, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ quan lý và hoạt động liên quan đến lĩnh vực du
lịch. Đối với người dân ở du khu vực này cần tổ chức các lớp tập huấn, huấn luyện kỹ
năng, nghiệp vụ theo kiểu “cầm tay chỉ việc, làm theo, làm thật” mang tính cụ thể, trực
quan, thường xuyên liên tục cho người dân ở các địa điểm phát triển du lịch. Việc đào
tạo nguồn nhân lực cho vùng này cần tận dụng các chương trình mục tiêu quốc gia như
xây dựng nông thôn mới, chương trình phát triển 62 huyện nghèo nhất cả nước, chương
trình 134, 135, chương trình đào tạo một triệu lao động nông thôn và các dự án của các
tổ chức phi chính phủ như tổ chức Tầm nhìn thế giới, Ngân hàng thế giới, các quỹ phát
triển của châu Âu, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Lugxămbua [1]... hỗ trợ giảm nghèo ở các
địa phương.
Đẩy mạnh xây dựng và quảng bá thương hiệu các sản phẩm du lịch. Trong thời gian tới
cần có chiến lược truyền thông quảng bá thương hiệu sản phẩm du lịch một cách hiệu
quả và hợp lý nhất. Về việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm du lịch cần thuê
các chuyên gia, nhà tư vấn chuyên nghiệp, các hãng truyền thông lớn để định hình các
thương hiệu gắn với sản phẩm cụ thể của vùng này như du lịch cộng đồng – Homestay
Bờhoòng, Zara, Ating... du lịch sinh thái sông Thanh, du lịch văn hoá bản địa, lễ hội,
ẩm thực núi rừng... Việc quảng bá các sản phẩm du lịch thực hiện qua nhiều kênh khác
nhau như xuất bản các ấn phẩm du lịch (tờ rơi, sách hướng dẫn, bản đồ, video giới
thiệu, website), cần tận dụng triệt để các tính năng của internet, truyền hình cho công
tác tiếp thị quảng bá các sản phẩm du lịch; tham gia hội chợ, hội thảo, tuần lễ, tổ chức
các sự kiện có tính khu vực và quốc tế, tổ chức cho các đơn vị lữ hành khảo sát và mở
các tuyến du lịch mới, hấp dẫn. Một kênh quảng cáo được xem là quan trọng nhất, chí
phí rẻ nhất, có tác dụng lan toả lớn, lâu dài đó chính là khách du lịch. Theo hình thức
“thông tin truyền miệng, thông tin lan toả”.
Liên kết phát triển du lịch. Việc liên kết trong phát triển du lịch cần tập trung vào các
phương thức và đối tượng liên kết sau: liên kết giữa các quốc gia (Việt Nam – Lào), các
vùng (Miền núi - đồng bằng ven biển, Tây Nguyên – Duyên hải Nam Trung bộ), các địa
phương trên tuyến đường Hồ Chí Minh, liên kết với các doanh nghiệp lữ hành và người
dân địa phương nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc nhất, phục vụ nhu cầu
ngày càng cao của khách du lịch.
4. KẾT LUẬN
Qua những phân tích cho thấy, khu vực lãnh thổ phía Tây Quảng Nam có nguồn tài
nguyên du lịch hết sưc phong phú, đa dạng, đặc biệt, vùng này có những sản phẩm du
lịch hết sức độc đáo như du lịch văn hóa cộng đồng, sinh thái nghỉ dưỡng, ẩm thực vùng
núi. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên này vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả.
TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY... 113
Hoạt động du lịch ở vùng này chưa phát triển, số lượng khách tham quan còn ít, du lịch
chưa tạo được nhiều việc làm, thu nhập cho cộng đồng bản địa.
Trong thời gian tới, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương cần
phải liên kết phát triển, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng thương
hiệu sản phẩm...Việc khai thác có hiệu quả các tài nguyên, các giá trị văn hóa phục vụ
phát triển du lịch sẽ góp phần tạo nguồn lực và động lực cho quá trình khôi phục, bảo
tồn các giá trị văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc; tạo việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương; tạo ra một
không gian hoạt động du lịch với những sản phẩm du lịch độc đáo bên cạnh các di sản
thế giới Hội An và Mỹ Sơn, từ đó thu hút khách đông hơn và kéo dài thời gian lưu trú
khi khách đến tham quan Quảng Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Văn Anh (2006). Kinh tế Quảng Nam trong thời kỳ CHN, HĐH, Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[2] Lê Bá Thảo (1977). Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Minh Tuệ (2010). Địa lý du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4] Trung tâm bảo tồn di tích Quảng Nam (2001). Di tích danh thắng Quảng Nam.
Quảng Nam.
[5] Tỉnh ủy Quảng Nam (2004). Quảng Nam – Thế và lực trong thế kỷ XXI, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Sở Văn hóa, Thể thảo và Du lịch Quảng Nam (2001). Kỷ yếu hội thảo khoa học
“Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng”. Quảng Nam.
[7] UNBND tỉnh Quảng Nam, Quy hoạch du lịch Quảng Nam 2010-2015, tầm nhìn
2020.
Title: POTENTIALS AND SOLUTIONS DEVELOPMENT TOURISM IN WESTERN
MOUNTAINOUS DISTRICTS OF QUANG NAM ASSOCIATED WITH CONSERVATION
AND CULTURAL VALUES OF ETHNIC AND SUSTAINABLE POVERTY REDUCTION
Abstract: Tourism has become a synthetic economic sector, the impact on social and economic
development at the global, national, territory and to every village in remote areas, where there
rich resources. Tourism contributes to alter the social and economic aspects of many rural areas
of the country in general and the villages, the ethnic villages in Western region of Quang Nam
in particular. This paper introduces the potential products and solutions to promote tourism
development in the region.
Keywords: Travel west of Quang Nam, Quang Nam Tourism mountain
ThS. TRẦN VĂN ANH
Trường Đại học Quảng Nam
ĐT: 0912 801 079, Email: tranvanvhdl@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiem_nang_va_giai_phap_phat_trien_du_lich_cac_huyen_mien_nui.pdf