Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng những
giá trị nhân văn đặc sắc, DLSTMV ở tỉnh Đồng
Tháp có sức hấp dẫn lớn và dần định vị được
thương hiệu uy tín. Phát triển các hoạt động
DLSTMV sẽ khai thác tốt tài nguyên bản địa.
Loại hình du lịch này có vai trò quan trọng không
chỉ đối với kinh tế mà còn góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội, tiêu thụ tại chỗ hàng nông sản,
nâng cao hình ảnh và niềm tự hào của người dân
địa phương. Bài viết đã phân tích, đánh giá tiềm
năng phát triển DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp về
sản phẩm, đặc điểm vùng miệt vườn và khả năng
khai thác để phát triển du lịch, những thuận lợi
và khó khăn trong phát triển DLSTMV. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy, DLSTMV ở tỉnh Đồng
Tháp rất có tiềm năng phát triển, du khách đánh
giá khá tốt về các yếu tố cảnh quan, hoạt động
du lịch, hạ tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ,
nhân viên, giá cả dịch vụ và an ninh, an toàn của
điểm đến. Trên cơ sở đó, bài viết đã đề xuất các
giải pháp với kỳ vọng tăng cường thu hút, nâng
cao sự hài lòng của du khách trong thời gian. Qua
đó, đóng góp cho sự phát triển của loại hình du
lịch được xem là thế mạnh của vùng ĐBSCL nói
chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng./.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI MIỆT VƯỜN Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
Nguyễn Minh Triết1*
1Cục Thuế tỉnh Đồng Tháp
*Tác giả liên hệ: nmtrietdt@gmail.com
Lịch sử bài báo
Ngày nhận: 01/7/2019; Ngày nhận chỉnh sửa: 08/8/2019; Ngày duyệt đăng: 19/3/2020
Tóm tắt
Bài viết phân tích tiềm năng, thực trạng du lịch sinh thái miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp. Số liệu
nghiên cứu thu thập từ nguồn thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp 105 khách du lịch nội địa. Kết qu
ả nghiên cứu cho thấy, du lịch sinh thái miệt vườn với nhiều loại trái cây đặc sản, hoạt động trải
nghiệm phong phú, gần gũi thiên nhiên, văn hóa địa phương nên có tiềm năng phát triển lớn. Các
yếu tố phát triển du lịch sinh thái miệt vườn được đánh giá gồm cảnh quan, hoạt động du lịch, hạ
tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ, nhân viên, giá cả dịch vụ và an ninh, an toàn của điểm đến.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần phát triển loại hình du
lịch hấp dẫn này gồm: tăng cường quảng bá, tổ chức các tour du lịch sinh thái miệt vườn, cải tạo
cảnh quan, đa dạng hoạt động du lịch, cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cung cấp dịch vụ du lịch với giá hợp lí và đảm bảo an toàn cho du khách.
Từ khóa: Du lịch sinh thái miệt vườn, du lịch sinh thái, phát triển du lịch, Đồng Tháp.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
POTENTIALS AND SOLUTIONS TO DEVELOP
FARMLAND ECO-TOURISM IN DONG THAP PROVINCE
Nguyen Minh Triet1*
1Dong Thap Tax Department
*Corresponding author: nmtrietdt@gmail.com
Article history
Received: 01/7/2019; Received in revised form: 08/8/2019; Accepted: 19/3/2020
Summary
This article is to analyze the potentials and the reality of farmland eco-tourism in Dong Thap
province. The data were collected from secondary sources and interview of 105 domestic tourists. The
results show that this mode of tourism with many special fruits, rich experiential activities, nature-
friendliness, and local culture has great potentials for development. The assessed elements for its
development are landscape, tourism activities, infrastructure, service facilities, staff , service prices,
and security and safety of the destination. Based on the obtained results, the article proposes some
solutions contributing to the development of this attractive tourism, namely promoting advertisements,
organizing farmland eco-tourism tours, renovating the landscape, diversifying tourism activities,
improving infrastructure, enhancing human resources quality, off ering decent prices, and ensuring
safety for visitors.
Keywords: Dong Thap, eco-tourism, farmland eco-tourism, tourism development.
47
1. Đặt vấn đề
Theo đề án phát triển du lịch Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2020, các
sản phẩm đặc thù là tham quan sông nước, miệt
vườn, kết hợp nghỉ tại nhà dân, du lịch tìm hiểu
văn hóa các dân tộc, tham quan nghiên cứu các
hệ sinh thái của vùng (Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch, 2010). Tỉnh Đồng Tháp có địa giới
bị chia cắt thành 2 vùng là Đồng Tháp Mười và
khu vực nằm giữa sông Tiền, sông Hậu. Điều
kiện tự nhiên, nhất là khí hậu, thổ nhưỡng rất
phù hợp để phát triển một nền nông nghiệp toàn
diện với sản phẩm chủ lực là lúa gạo, cá tra, hoa
màu, cây ăn trái... Trong đó, khu vực ven sông
Tiền, sông Hậu và các cù lao là vùng chuyên
canh nhiều loại trái cây nổi tiếng như xoài Cao
Lãnh, nhãn Châu Thành, quýt hồng Lai Vung,
bưởi Phong Hòa Do đó, du lịch sinh thái miệt
vườn (DLSTMV) rất có tiềm năng phát triển
do tận dụng, phát huy được nguồn tài nguyên
bản địa và những nét riêng vốn có về cảnh vật,
con người, văn hóa miền sông nước. Tuy nhiên,
trong nhiều năm qua, việc phát triển DLSTMV
trên địa bàn tỉnh còn chưa tương xứng với tiềm
năng và lợi thế sẵn có do cơ sở hạ tầng yếu kém,
chưa đồng bộ; hoạt động vui chơi, giải trí, trải
nghiệm còn đơn điệu; trình độ chuyên môn, kỹ
năng của lao động ngành du lịch thiếu chuyên
nghiệp; vấn đề bảo vệ môi trường chưa được coi
trọng; việc xúc tiến quảng bá loại hình du lịch
này chưa được quan tâm đúng mức... Vì vậy, cần
có những phân tích, đánh giá tiềm năng, lợi thế
và thực trạng DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp, để
từ đó có những giải pháp toàn diện, hợp lí nhằm
góp phần phát triển loại hình du lịch hấp dẫn này
trong thời gian tới.
2. Cơ sở lí thuyết và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí thuyết
Theo Lê Công Lý (2015), phần đất liền ở
ĐBSCL chia thành bốn tiểu vùng có điều kiện
tự nhiên khác biệt nhau rõ rệt gồm: Tiểu vùng 1
(đồng bằng trung tâm) là vùng châu thổ nước ngọt
phù sa liên tục bồi đắp; Tiểu vùng 2 (Đồng Tháp
Mười) là đồng lụt kín nhiễm phèn nặng; Tiểu
vùng 3 (Tứ Giác Long Xuyên) là đồng lụt hở;
Tiểu vùng 4 (bán đảo Cà Mau) là vùng đất trũng
thấp, ngập mặn hầu như quanh năm. Trong đó,
tiểu vùng 1 có địa hình càng xa bờ sông càng thấp
dần, có nhiều cù lao trên sông Tiền, sông Hậu.
Vùng đất này được xem là “miệt vườn Nam Bộ”
với diện tích trồng cây ăn trái cao hơn các loại
hình kinh tế khác. Văn Nữ Quỳnh Trâm (2015)
cho rằng, “miệt vườn” là vùng đất phù sa màu
mỡ nằm ven và giữa sông, nghề trồng vườn và
làm ruộng có điều kiện phát triển thuận lợi, giao
thương dễ dàng với lợi thế sông nước. Cư dân
miệt vườn sáng tạo ra việc đào mương, lên liếp,
kết hợp mô hình làm vườn với nuôi trồng thủy
sản. Các khu dân cư miệt vườn hình thành sớm
và phát triển nhanh chóng cùng với sự trù phú
của ĐBSCL. Theo Nguyễn Trọng Nhân và cộng
sự (2015), nơi được xem là miệt vườn thường
có đất đai cao ráo, ít bị úng ngập, ít phèn, cây
trồng phát triển tươi tốt, người dân có mức sống
và trình độ dân trí cao xét trong không gian quần
cư nông thôn. Phạm vi miệt vườn là phần lãnh
thổ nằm dọc hai bờ sông Tiền, sông Hậu, xuất
phát từ biên giới Việt Nam - Campuchia chạy
dọc xuống hạ lưu, bao gồm một phần của 3 tỉnh
Đồng Tháp, An Giang, Bạc Liêu, phần lớn thành
phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Tiền
Giang, gần như toàn bộ các tỉnh Vĩnh Long, Bến
Tre, Trà Vinh ngày nay.
Lê Anh (2016) cho rằng, ĐBSCL hội đủ
các điều kiện để phát triển thành vựa trái cây
của cả nước với năng suất, chất lượng không
ngừng tăng nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thâm
canh, tuyển lựa giống mới. Những hệ sinh thái
vườn này kết hợp với cách sinh hoạt của cư dân
miền sông nước đã hình thành nên các giá trị văn
hóa bản địa đặc thù được gọi là “văn minh miệt
vườn” (Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự, 2015).
Theo Đoàn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Thị Quỳnh
Ngọc (2012), cảnh quan sông nước miệt vườn
cùng các di tích văn hóa, làng nghề có thể phát
triển thành những điểm đến hấp dẫn mà không
cần quá nhiều vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất và đào tạo nhân lực do dựa trên cơ sở phát
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56
48
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
triển các loại hình du lịch xanh, du lịch cộng
đồng. Khi nhu cầu tham quan, thưởng ngoạn,
nghỉ dưỡng của du khách tăng cao, nhất là cư
dân thành thị, thì DLSTMV ở ĐBSCL ra đời
với những điểm đến đầu tiên là cù lao An Bình,
Bình Hòa Phước (Vĩnh Long) và cồn Phụng
(Bến Tre) vào khoảng thập niên 80 của thế kỉ
XX. Dần dần, DLSTMV trở thành loại hình du
lịch đặc trưng và có thế mạnh với nhiều điểm
đến được định hướng phát triển trong tổ chức
không gian du lịch ĐBSCL đến năm 2020 như:
khu du lịch Mỹ Khánh (Cần Thơ), cồn Thới
Sơn (Tiền Giang), cù lao An Bình và Bình Hòa
Phước (Vĩnh Long), cồn Phụng, cồn Tiên, cồn
Quy, cồn Ốc và làng cây giống Cái Mơn (Bến
Tre) (Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự, 2015).
Mặc dù được xem là thế mạnh nổi bật khi đề
cập đến phát triển du lịch vùng ĐBSCL nhưng
nhận thức về du lịch miệt vườn, DLSTMV hiện
chưa có sự thống nhất. Do đó, chưa có một định
nghĩa cụ thể về du lịch miệt vườn. Đối với nhiều
người làm chính sách và cư dân vùng ĐBSCL
thì “du lịch miệt vườn” được hiểu đơn giản là
sự kết hợp giữa ý nghĩa của 2 từ ghép “du lịch”
và “miệt vườn” hay được hiểu là hoạt động du
lịch gắn với tham quan, trải nghiệm miệt vườn
Nam Bộ. Theo Đỗ Thu Nga (2015), “DLSTMV”
là hình thức du lịch dựa vào những điều kiện tự
nhiên sẵn có của dân cư địa phương nhằm tạo
ra sản phẩm du lịch là các khu vườn cây trái,
vườn hoa kiểng, các khu trang trại, phục vụ
cho sự phát triển du lịch và góp phần cải thiện
điều kiện kinh tế của người dân. Hình thức du
lịch này có nhiều ở miền Nam Việt Nam, từ đó
hình thành nên một nét rất đặc trưng cho du
lịch vùng Nam Bộ. Trong bài viết, khái niệm
DLSTMV được hiểu theo sự kết hợp giữa “du
lịch sinh thái” và “miệt vườn” ở tỉnh Đồng Tháp.
“Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục
môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và
phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của
cộng đồng địa phương” (Phạm Trung Lương,
2015). DLSTMV vì vậy được hiểu là hoạt động
du lịch dựa vào khai thác thế mạnh của các khu
vườn trái cây đặc sản, vườn hoa kiểng, trang
trại nông nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp, kết hợp với
văn hoá bản địa như ẩm thực miệt vườn, làng
nghề truyền thống, với sự tham gia tích cực
của cộng đồng địa phương nhằm khai thác hiệu
quả tiềm năng kinh tế vườn và các tài nguyên
du lịch bản địa khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các đề
tài nghiên cứu, tạp chí, các báo cáo của địa
phương, Số liệu sơ cấp được thu thập thông
qua phỏng vấn trực tiếp khách du lịch nội địa
tại các điểm DLSTMV ở huyện Cao Lãnh,
thành phố Cao Lãnh và huyện Lai Vung. Khảo
sát sơ bộ, thảo luận với du khách và nhà vườn
được tiến hành để ghi chép thông tin về hoạt
động DLSTMV ở các điểm đến. Sau đó, hoàn
chỉnh bảng câu hỏi, phỏng vấn chính thức với
105 khách du lịch bằng phương pháp chọn mẫu
thuận tiện. Đối tượng khảo sát là những người
đã tham gia DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp, được
yêu cầu đưa ra ý kiến đánh về các tiêu chí theo
bảng câu hỏi cấu trúc. Trong mẫu nghiên cứu,
đáp viên là nam chiếm 46,67%, nữ 53,33%.
Khách du lịch có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi
chiếm tỉ trọng 47,62%, từ 31 đến 40 tuổi chiếm
23,81%, từ 41 đến 50 tuổi 19,04% và từ 51 tuổi
trở lên chiếm 9,53%. Về trình độ học vấn, khách
du lịch tham gia phỏng vấn có trình độ trung học
phổ thông trở xuống chiếm 24,76%, trung cấp
chiếm 18,10%, đại học, cao đẳng chiếm tỉ trọng
54,29% và sau đại học chiếm 2,85%. Về nơi ở,
đáp viên sống ở thành thị chiếm 83,81%, nông
thôn 16,19%. Các yếu tố về DLSTMV đo lường
theo thang đo Likert 5 mức độ với 1: rất không
hài lòng, 2: không hài lòng, 3: trung bình/không
ý kiến, 4: hài lòng, 5: rất hài lòng.
2.2.2. Phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê mô tả có liên quan
đến việc thu thập, tóm tắt, trình bày, tính toán các
đặc trưng khác nhau để phán ánh một cách tổng
quát đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này
49
phân tích thông tin về đối tượng như tính tần số,
trị số trung bình, độ lệch chuẩn... Nghiên cứu sử
dụng thang đo Likert 5 mức độ, ý nghĩa từng giá
trị trung bình đối với thang đo này tính như sau:
Giá trị khoảng cách = (Giá trị lớn nhất - Giá trị
nhỏ nhất)/n = (5 - 1)/5 = 0,8. Trung bình: 1 - 1,8
(rất không hài lòng); 1,81 - 2,6 (không hài lòng);
2,61 - 3,4 (trung bình/không ý kiến); 3,41 - 4,2
(hài lòng); 4,21 - 5 (rất hài lòng).
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tiềm năng phát triển DLSTMV ở
tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Đồng Tháp nằm ở đầu nguồn sông Tiền
chảy qua biên giới vào Việt Nam, sông Hậu là
ranh giới tự nhiên với An Giang, Cần Thơ. Tỉnh
có diện tích tự nhiên 3.374,08 km2, đất đai màu
mỡ, nắng ấm quanh năm, hệ thống kênh rạch
chằng chịt nên rất thuận lợi cho cây trái bốn mùa
tươi tốt. Trong đó, khu vực ven sông Tiền, sông
Hậu và các cù lao như cồn An Hòa (Châu Thành),
cồn Tiên (Lai Vung), cồn Bình Thạnh (huyện Cao
Lãnh), cồn Đông Giang (Sa Đéc), cồn Tô Châu
(Thanh Bình), cù lao Tân Thuận Đông (thành phố
Cao Lãnh) giàu tiềm năng phát triển vườn cây
ăn trái và DLSTMV, homestay.
Các loại trái cây nổi tiếng của tỉnh Đồng
Tháp gồm có xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành,
quýt hồng Lai Vung... Diện tích trồng xoài toàn
tỉnh hơn 9.300 ha, lớn nhất ĐBSCL, tập trung
chủ yế u ở huyện Cao Lãnh (3.659 ha) và thành
phố Cao Lãnh (2.273 ha). Sản lượng xoài đạt
khoảng 93.000 tấn với hơn 90% là xoài cát chu
và xoài cát Cao Lãnh, cho trái hầu như quanh
năm (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, 2017).
Cây nhãn có diện tích trồng đạt 4.300 ha (chủ
yếu ở huyện Châu Thành với khoảng 3.500 ha),
chiếm 13% toàn vùng ĐBSCL. Sản lượng hàng
năm đạt khoảng 36.680 tấn với hai giống trồng
phổ biến là nhãn da bò và nhãn edor, thu hoạch vụ
thuận từ tháng 6 đến tháng 9, vụ nghịch từ tháng
10 đến tháng 5 năm sau. Quýt hồng là trái cây
đặc sản của tỉnh, trồng chuyên canh ở huyện Lai
Vung với diện tích khoảng 1.200 ha, sản lượng
hàng năm khoảng 46.500 tấn theo các tiêu chuẩn
sạch, an toàn, thu hoạch chính vụ vào dịp Tết Âm
lịch (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, 2017).
Ngoài ra, tỉnh còn nổi tiếng với nhiều loại trái cây
khác như bưởi Phong Hòa, cam mật Sa Đéc, mận
Hòa An, mãng cầu xiêm... Khí hậu ôn hòa kết
hợp cảnh quan thiên nhiên đặc sắc cùng những
vườn trái cây tươi tốt đã tạo cho Đồng Tháp ưu
thế vượt trội để khai thác DLSTMV mang đậm
bản sắc Nam Bộ.
Theo Lê Công Lý (2015), đặc điểm chung
của vùng miệt vườn nằm ở khoảng vị trí 2/3
chiều dài sông Tiền, tính từ biên giới Việt Nam -
Campuchia; nằm ở vị trí giáp nước của sông Tiền
nên có mức bồi tụ phù sa cao nhất, địa hình cao,
nhiều cồn đất, phù hợp cho cây trái phát triển; có
diện tích mặt sông và mật độ kênh rạch cao nhất
với hàng loạt kênh rạch từ nội đồng thoát ra sông
Tiền tạo nên cảnh quan sông nước, môi trường
thông thoáng, trong lành, giao thông đường thủy
phát triển, lâu ngày hình thành các vựa trung
chuyển hàng hóa và chợ búa. Miệt vườn Đồng
Tháp là vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản gắn
với từng địa danh nổi tiếng như xoài Cao Lãnh,
nhãn Châu Thành, quýt hồng Lai Vung hay
trồng hoa, cây kiểng ở Sa Đéc. Không gian miệt
vườn hoang sơ, thanh bình, thoáng đãng, không
khí trong lành, kết hợp với phong cảnh sông nước
tươi đẹp tạo nên sức hấp dẫn lớn với du khách
thành thị. Người dân miệt vườn thân thiện, mến
khách, chân tình, cởi mở, giàu tình cảm, có đời
sống văn hóa tinh thần phong phú. Miệt vườn
Đồng Tháp cũng là nơi nuôi dưỡng, hình thành
những giá trị nhân văn đặc sắc với nhiều di tích
lịch sử văn hóa, lễ hội, đờn ca tài tử, hò Đồng
Tháp, các làng nghề truyền thống với nhiều loại
hình đa dạng như đan lục bình, lợp, thúng, đan
lưới, dệt chiếu, dệt choàng, đóng ghe xuồng, làm
bột, làm nem, trồng hoa kiểng...
Ẩm thực miệt vườn Đồng Tháp có nhiều
món ăn của vùng đồng bằng Nam Bộ nhưng kết
hợp với các sản vật địa phương nên có nét đặc
sắc riêng như cá lóc nướng trui cuốn lá sen non,
cá rô kho tộ, canh chua cá linh non với bông điên
điển, mắm kho bông súng, chuột đồng quay lu,
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56
50
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
cơm hạt sen,... Tác động tổng hòa của nhiều yếu
tố trên đã tạo nên sức hấp dẫn cho DLSTMV.
Miệt vườn tỉnh Đồng Tháp có tiềm năng về tự
nhiên và nhân văn đặc thù, mang màu sắc khác
biệt so với các tỉnh, thành trong vùng nên có khả
năng khai thác để phát triển du lịch.
DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp có nhiều yếu
tố thuận lợi để phát triển, được các cấp chính
quyền địa phương vận động, hỗ trợ kinh phí làm
du lịch, trang trí nhà cửa, vườn cây ăn trái, xây
nhà vệ sinh, cải tạo lại ao nuôi cá, tuyên truyền
nông dân sản xuất cây ăn trái an toàn, đồng thời
nâng cao kỹ năng, thái độ ứng xử phục vụ khách
tham quan. Nhiều chính sách hỗ trợ phát triển
kinh tế vườn kết hợp du lịch khác như thành
lập mô hình hội quán để người dân chia sẻ kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh và làm du lịch; hỗ
trợ thuê tư vấn mô hình, tập huấn kỹ năng nghiệp
vụ, mua sắm vật dụng, thiết bị phục vụ... cho các
hộ dân làm homestay; hỗ trợ đầu tư xây dựng
nhà hàng ăn uống kết hợp bán hàng đặc sản, quà
lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ tại các khu,
điểm tham quan DLSTMV; hỗ trợ lãi suất vay
đầu tư phát triển du lịch cộng đồng Tuy nhiên,
việc phát triển DLSTMV hiện đối mặt nhiều khó
khăn như: cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là đường
giao thông dẫn vào các khu, điểm DLSTMV;
sản phẩm du lịch đơn điệu, thô sơ, chất lượng
dịch vụ thấp, chưa có nhiều hoạt động vui chơi,
giải trí, nghỉ ngơi, trải nghiệm; trình độ chuyên
môn, kỹ năng của lao động ngành du lịch chưa
đáp ứng yêu cầu, chưa được đào tạo kỹ lưỡng,
sự am hiểu về du lịch chưa được sâu; công tác
tuyên truyền quảng bá DLSTMV thiếu ấn tượng,
hiệu quả chưa cao; mức độ tham gia của cộng
đồng vào hoạt động DLSTMV còn thấp, chủ
yếu mang tính tự phát(Ban Tuyên giáo Tỉnh
uỷ Đồng Tháp, 2015).
3.2. Thực trạng phát triển DLSTMV qua
cảm nhận của du khách
Năm 2019, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp
tỉnh Đồng Tháp ban hành Quyết định số 347/
QÐ-UBND.HC phê duyệt các điểm du lịch cộng
đồng trên địa bàn. Trong đó, huyện Lai Vung
có 18 điểm điểm đến, thành phố Cao Lãnh (11),
Tháp Mười (10), Sa Đéc (8), Tam Nông (6), thị
xã Hồng Ngự, huyện Lấp Vò và Châu Thành
mỗi địa phương có 5 điểm, huyện Cao Lãnh
(3), Tân Hồng (2) (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng
Tháp, 2019). Các điểm DLSTMT tập trung chủ
yếu ở thành phố Cao Lãnh, huyện Lai Vung và
Châu Thành như: điểm du lịch vườn xoài Thiện
Thành, du lịch sinh thái Sông Quê, vườn cam
Hai Dũng, vườn mận Hoà An, vườn chôm chôm
Tịnh Thới, vườn dâu, vườn xoài Tân Thuận Tây
(thành phố Cao Lãnh); vườn quýt hồng, mãng
cầu xiêm, thanh long, vườn mận,... kết hợp với
tìm hiểu, trải nghiệm nghề làm nem, làng nghề
đóng ghe xuồng ở huyện Lai Vung; du lịch sinh
thái vùng cồn Bạch Viên, tham quan vườn cây ăn
trái ở huyện Châu Thành; vườn xoài Mỹ Xương,
vườn trái cây Mỹ Nữ, tham quan làng nghề dệt
thảm, làm bánh ở huyện Cao Lãnh... Hiện tại,
tour kết hợp DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp được
một số đơn vị lữ hành tổ chức như: Vườn quýt
hồng Lai Vung - Làng hoa Sa Đéc - Chùa Lá
Sen; Làng hoa Sa Đéc - Vườn quýt hồng Lai
Vung - Khu du lịch văn hóa Phương Nam; Làng
hoa Sa Đéc - Vườn xoài Mỹ Xương - Vườn
trái cây Mỹ Nữ; Làng du lịch Tân Thuận Đông
(miệt vườn cù lao nổi tiếng của thành phố Cao
Lãnh) - Khu Ramsar Tràm Chim - Đồng sen
Tháp Mười... Tuy nhiên, sự liên kết giữa các
doanh nghiệp lữ hành với các điểm DLSTMV
để tạo nguồn khách còn yếu. Khách du lịch tham
quan, trải nghiệm miệt vườn Đồng Tháp hiện
nay chủ yếu mang tính tự phát.
Để đánh giá hoạt động DLSTMV, tác giả
tiến hành khảo sát thực tế tại một số điểm du
lịch và phỏng vấn 105 du khách nội địa từng
trải nghiệm du lịch miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp.
Bảng câu hỏi được thiết kế gồm 6 nhóm yếu tố
theo thang đo Likert 5 mức độ. Phương pháp
thảo luận nhóm với du khách, nhà vườn, lược
khảo các nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng
để lựa chọn các biến. Kết quả khảo sát thực hiện
từ 06/10/2018 đến 17/3/2019 như sau:
51
Bảng 1. Đánh giá của du khách về cảnh quan các điểm DLSTMV
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Vườn cây ăn trái xanh tốt, thoáng mát 3,57 0,85 Hài lòng
2 Sự đa dạng của các loại cây ăn trái 3,03 0,75 Trung bình
3 Không khí trong lành, thanh bình 3,70 0,68 Hài lòng
4 Cảnh quan sông nước tươi đẹp, cuốn hút 3,26 0,91 Trung bình
5 Vệ sinh, môi trường tại điểm tham quan 3,13 0,80 Trung bình
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
Về cảnh quan điểm DLSTMV: Kết quả
khảo sát ở Bảng 1 cho thấy, du khách hài lòng
với không khí trong lành, thanh bình cùng sự
xanh tốt, thoáng mát ở các vườn cây ăn trái.
Tỉnh Đồng Tháp được thiên nhiên ưu đãi khi
có hai con sông lớn bao bọc, điều kiện tự nhiên
thích hợp cho nhiều loại cây trồng phát triển nên
những vườn trái cây là không gian xanh có sức
hút với những du khách thành thị (trong mẫu
nghiên cứu, khách du lịch đến từ khu vực đô thị
chiếm 83,81%). Tuy nhiên, yếu tố về sự đa dạng
của các loại cây ăn trái; cảnh quan sông nước
tươi đẹp, cuốn hút; vệ sinh, môi trường tại điểm
tham quan thì sự cảm nhận của du khách ở mức
trung bình. Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên
nên mỗi khu vực trong tỉnh chỉ tập trung chuyên
canh một loại cây ăn trái nhất định. Ngoài ra, sự
thiếu ý thức của một bộ phận người dân, các khu
dân cư nông thôn thiếu dịch vụ thu gom, xử lý
rác thải, nên nhiều kênh rạch đang ngày càng
ô nhiễm, làm mất đi vẻ đẹp sông nước vốn có.
Bên cạnh đó, nhiều hộ dân khai thác DLSTMV,
kinh doanh ăn uống chưa quan tâm vấn đề dọn
dẹp, giữ gìn vệ sinh môi trường.
Về các hoạt động DLSTMV: Bảng 2 cho
thấy, du khách hài lòng với các hoạt động hái
và thưởng thức trái cây tươi tại vườn; bơi xuồng
ngắm cảnh; sự đa dạng cùng hương vị dân dã
của các món ẩm thực miệt vườn và các trò chơi
dân gian, hoạt động vui chơi giải trí khác. Các
hoạt động còn lại sự cảm nhận của du khách ở
mức trung bình do họ ít có thời gian trải nghiệm
hoặc các điểm DLSTMV ít có sự đầu tư nhiều
để làm hài lòng du khách mà chủ yếu tập trung
vào việc bán vé tham quan, kinh doanh ẩm thực
và bán trái cây.
Bảng 2. Đánh giá của du khách về các hoạt động DLSTMV
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Hái và thưởng thức trái cây tươi tại vườn 3,45 0,73 Hài lòng
2 Bơi xuồng ngắm cảnh 3,47 0,75 Hài lòng
3 Tát đìa bắt cá, hái rau 2,78 0,60 Trung bình
4 Trải nghiệm nghề làm vườn 3,19 0,96 Trung bình
5 Đạp xe ngắm phong cảnh làng quê 3,39 0,53 Trung bình
6 Tìm hiểu, trải nghiệm các nghề truyền thống 2,97 0,85 Trung bình
7 Ẩm thực miệt vườn, sự đa dạng của các món ăn 3,73 0,70 Hài lòng
8 Thưởng thức đờn ca tài tử, hò Đồng Tháp 3,06 0,41 Trung bình
9 Tham gia lễ hội, tham quan di tích lịch sử, văn hóa 3,26 0,54 Trung bình
10 Mua quà lưu niệm, quà đặc sản địa phương 3,09 0,76 Trung bình
11 Trò chơi dân gian, hoạt động vui chơi giải trí khác 3,54 0,72 Hài lòng
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56
52
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
Về các yếu tố hạ tầng kỹ thuật, phương
tiện phục vụ du lịch: Ở Bảng 3, sự đánh giá
của du khách về các yếu tố hạ tầng kỹ thuật và
phương tiện phục vụ du lịch tất cả đều ở mức
trung bình. Điều này có thể lý giải do các điểm
DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay nằm ở
vùng nông thôn hoặc các cù lao trên sông, đò
ngang cách trở, đường giao thông nhỏ hẹp, xe
Bảng 3. Đánh giá của du khách về yếu tố hạ tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Vị trí điểm du lịch thuận lợi 2,88 0,99 Trung bình
2 Đường giao thông thuận tiện, rộng, dễ di chuyển 2,72 1,01 Trung bình
3 Bãi đỗ xe tham quan 3,29 0,58 Trung bình
4 Thùng rác đầy đủ phục vụ, vị trí đặt thuận tiện 3,04 0,95 Trung bình
5 Nhà vệ sinh đầy đủ, sạch sẽ 2,74 0,93 Trung bình
6 Điểm dừng chân, ghế ngồi nghỉ ngơi 3,28 0,83 Trung bình
7 Cổng chào 3,04 0,60 Trung bình
8 Nông cụ hái trái cây, quần áo nhà nông, dụng cụ,... 3,29 0,53 Trung bình
9 Phương tiện di chuyển (xe đạp, xe đạp đôi, xuồng...) 2,94 0,83 Trung bình
10 Cửa hàng quà lưu niệm, đặc sản 2,94 0,56 Trung bình
11 Khu dịch vụ ẩm thực 3,10 0,83 Trung bình
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
bốn bánh khó di chuyển, thiếu bãi đỗ và chỗ
quay đầu xe. Nhiều điểm du lịch thiếu quan tâm
đến việc dọn dẹp nhà vệ sinh lịch sự, sạch sẽ,
thiếu thùng chứa rác thải. Một số yếu tố khác
như điểm dừng chân nghỉ ngơi, cổng chào,
nông cụ, các phương tiện di chuyển, cửa hàng
quà lưu niệm hay khu ẩm thực cũng chưa được
quan tâm đầu tư đúng mức.
Về nhân viên phục vụ: Theo kết quả khảo
sát ở Bảng 4, du khách cảm thấy hài lòng với sự
thân thiện, chân thành, lịch sự, mến khách của
người dân địa phương. Yếu tố này cần tiếp tục
duy trì, phát huy để làm hài lòng du khách. Tuy
nhiên, do người làm du lịch chủ yếu là nông dân
địa phương, chưa được đào tạo về kỹ năng giao
tiếp, ứng xử, truyền đạt thông tin nên phục vụ
chưa chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, kiến thức,
sự hiểu biết về các di tích lịch sử, văn hóa địa
phương chưa thực sự phong phú để thỏa mãn
du khách. Trang phục của nhân viên phục vụ
cũng chưa thể hiện được nét riêng của người
dân Nam Bộ.
Bảng 4. Đánh giá của du khách về nhân viên phục vụ
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Người dân thân thiện, lịch sự, mến khách 3,42 0,92 Hài lòng
2 Thái độ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, truyền đạt 2,76 1,04 Trung bình
3 Sự chuyên nghiệp trong cách phục vụ 2,86 0,66 Trung bình
4 Kiến thức, sự hiểu biết về địa phương 3,40 1,08 Trung bình
5 Trang phục của nhân viên 2,77 0,65 Trung bình
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
53
Bảng 5. Đánh giá của du khách về giá cả dịch vụ
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Giá vé vào cổng, giữ xe 3,76 0,83 Hài lòng
2 Giá cả dịch vụ ẩm thực 3,44 0,71 Hài lòng
3 Giá trái cây tại vườn 3,53 0,87 Hài lòng
4 Giá cả các hoạt động vui chơi giải trí 3,36 1,10 Trung bình
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
Về giá cả dịch vụ: Các điểm DLSTMV là
địa chỉ thu hút chủ yếu người dân thành thị với
thu nhập tương đối cao. Do đó, họ cảm thấy hài
lòng với giá vé vào cổng, giữ xe, giá dịch vụ ẩm
thực và các loại trái cây. Điểm trung bình trong
đánh giá về giá cả các hoạt động vui chơi giải trí
khác cũng khá cao. Để làm hài lòng du khách, các
điểm du lịch miệt vườn nên giữ giá tham quan,
trải nghiệm hợp lý, không chặt chém du khách
vào các dịp lễ hội, chính vụ thu hoạch trái cây
và mùa cao điểm du lịch.
Bảng 6. Đánh giá của du khách về an ninh, an toàn của điểm đến
TT Nội dung
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ
cảm nhận
1 Mức độ an toàn của phương tiện di chuyển 2,94 0,77 Trung bình
2 Bán hàng rong, vé số, trộm cắp, ăn xin, chèo kéo 3,26 0,69 Trung bình
3 An toàn vệ sinh thực phẩm 3,36 0,87 Trung bình
Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách.
Về vấn đề an ninh, an toàn cho du khách:
Bảng 6 cho thấy đánh giá của du khách về vấn
đề an ninh, an toàn của điểm đến DLSTMV, tất
cả các yếu tố ở mức trung bình. Trong đó, mức
độ an toàn của phương tiện di chuyển có điểm
trung bình thấp nhất. Như đã phân tích, các điểm
DLSTMV nằm ở xa trung tâm đô thị, đường đi
cách trở hoặc phải di duyển qua tàu, phà. Tuy
nhiên, nhiều bến khách qua sông đang xuống
cấp, sạt lở, phương tiện có tải trọng nhỏ, thiếu
phao cứu sinh, gây mất an toàn cho du khách.
Tại một số điểm đến, tình trạng bán hàng rong,
vé số, ăn xin, còn phổ biến. Thêm vào đó, dịch
vụ ẩm thực một số nơi chưa đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm, nguồn nguyên liệu chế biến chưa
được lựa chọn và kiểm định kỹ. Hiện nay, một
số nhà vườn áp dụng quy trình sản xuất trái cây
sạch theo tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap. Tuy
nhiên, phần lớn người dân còn sản xuất theo kiểu
truyền thống và lạm dụng phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật để tăng năng suất.
3.3. Giải pháp góp phần phát triển
DLSTMT ở tỉnh Đồng Tháp
Dựa trên kết quả đánh giá của du khách, kết
hợp với thông tin ghi chép thông qua khảo sát
thực địa, bài viết đề xuất 6 nhóm giải pháp phát
huy ưu thế, khắc phục những mặt còn hạn chế
nhằm nâng cao sự hài lòng của du khách đối với
DLSTMV tỉnh Đồng Tháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường quảng bá, giới thiệu
loại hình du lịch hấp dẫn này trên các phương
tiện truyền thông, đặc biệt là các trang thông tin
du lịch, mạng xã hội, hội chợ xúc tiến du lịch,
các ấn phẩm, sách, tạp chí. Thiết kế, đặt các biển
quảng cáo, biển chỉ dẫn đến điểm DLSTMV trên
các tuyến quốc lộ, ngã ba, ngã tư có đông người,
phương tiện qua lại. Thực hiện phóng sự giới
thiệu các loại trái cây đặc sản của tỉnh, sản phẩm
chế biến từ trái cây và những điểm DLSTMV
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56
54
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
tiêu biểu. Ngoài ra, cần xác định, lựa chọn những
điểm DLSTMV độc đáo để có chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các công ty du lịch, lữ hành tổ chức,
khai thác các tour, tuyến tham quan, trải nghiệm
tại các điểm DLSTMV trên địa bàn.
Thứ hai, về cảnh quan: Các điểm DLSTMV
cần quan tâm cải tạo vườn cây xanh tốt, thoáng
mát, sạch sẽ và dọn sạch cỏ dại, trồng nhiều loại
cây trái khác nhau, tập trung vào những cây ăn
trái có thế mạnh, đặc sản của địa phương. Cần
sử dụng các chất liệu sinh thái trong xây dựng
như cừ tràm, mây, tre, lá, gốm sứ,... tránh việc
“bê tông hóa” quá mức ảnh hưởng đến cảnh quan
thiên nhiên, không khí trong lành, thanh bình vốn
của làng quê. Các dòng kênh, mương, đường giao
thông nông thôn,... cần thoáng đãng, sạch sẽ,
không rác thải nhằm tạo thiện cảm đối với khách
tham quan và giữ gìn cảnh quan sông nước tươi
đẹp, cuốn hút. Bên cạnh đó, tuyên truyền, giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho cho cán bộ,
công nhân viên, khách du lịch bằng nhiều hình
thức như đặt biển hướng dẫn, bộ quy tắc ứng
xử tại điểm tham quan, đặt thêm sọt rác dọc các
lối đi và các vị trí thuận tiện khác. Nên có nhân
viên dọn vệ sinh, phân loại rác để xử lí. Ngoài ra,
cơ quan chức năng ở địa phương cần vận động
người dân trồng hoa dọc theo các tuyến đường
giao thông tạo cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
Thứ ba, về các hoạt động DLSTMV: Cần
phát triển đa dạng các sản phẩm như tát đìa bắt
cá, hái rau; thưởng thức đờn ca tài tử, hò Đồng
Tháp; quà lưu niệm, quà đặc sản địa phương; hái
và thưởng thức trái cây tươi tại vườn; bơi xuồng
ngắm cảnh; đạp xe ngắm phong cảnh làng quê;
ẩm thực; trò chơi dân gian và các hoạt động
vui chơi giải trí khác. Bên cạnh các sản phẩm
DLSTMV hiện có, cần đa dạng hóa và liên tục
đổi mới để tránh gây nhàm chán cho du khách.
Xây dựng các tuyến, điểm DLSTMV kết hợp
với du lịch trải nghiệm làng nghề truyền thống,
tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, du
lịch homestay. Đẩy mạnh hình thức du lịch học
tập, trải nghiệm nghề làm vườn, cùng sinh hoạt,
ăn uống, tham gia lao động, trồng cây, tưới cây,
thu hoạch để du khách cảm nhận được sự vất vả,
không khí tất bật như những nông dân miệt vườn.
Qua đó, du khách hiểu biết thêm về các loại cây
ăn trái, bổ sung thêm kiến thức đã học trong sách
vở và hiểu biết hơn về văn hóa miền Tây Nam
Bộ. Ngoài ra, cần khuyến khích sự tham gia của
cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch
như cung cấp dịch vụ ăn uống với các món ăn
đặc sản địa phương, hướng dẫn du khách tham
quan, tìm hiểu, trải nghiệm các nghề thủ công
truyền thống, hướng dẫn du khách tự tay làm các
sản phẩm theo ý thích, sản xuất và bán quà lưu
niệm, cung cấp dịch vụ lưu trú và các hình thức
vui chơi giải trí,... Hiện nay, một số chủ vườn
còn phát triển mô hình “Cây xoài nhà tôi”, “Cây
cam vườn tôi”... Du khách đến tham quan vườn
cây ăn trái có cơ hội sở hữu những cây mình
yêu thích. Mỗi cây có lí lịch trích ngang gồm
các thông tin và hình ảnh về chiều cao, đường
kính tán, năm tuổi, năng suất bình quân, chủng
loại... Sau khi mua, du khách kí hợp đồng và trở
thành chủ sở hữu thực thụ. Trong khoảng thời
gian hợp đồng, nguồn lợi thu được sẽ hoàn toàn
thuộc về người mua và người bán sẽ chịu trách
nhiệm chăm sóc cây đến khi cho trái. Những du
khách không có nhiều điều kiện đến thăm vườn
thường xuyên, chủ vườn sẽ hỗ trợ bố trí, lắp đặt
camera để tiện việc theo dõi sự sinh trưởng và
phát triển của cây. Đây cũng là cách làm du lịch
mới cần được phát huy.
Thứ tư, cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục
vụ sản xuất và du lịch: Do đặc thù các điểm
DLSTMV thường cách xa các trục giao thông
chính, đường quê nhỏ hẹp, xe bốn bánh khó tiếp
cận nên cần chú trọng phát triển hạ tầng giao
thông rộng rãi để du khách thuận tiện đi lại. Một
số điểm du lịch nằm ở các cù lao trên sông, đò
ngang cách trở nên cần đầu tư lại các bến khách
qua sông, tàu phà trang bị đầy đủ áo phao, đảm
bảo tải trọng cho xe du lịch, lắp đặt thêm các
sơ đồ, biển chỉ đường, nhà chờ phà sang sông
kết hợp trưng bày, giới thiệu sản vật địa phương
và hoạt động du lịch. Điểm DLSTMV cần có
nơi đậu xe ô tô, vị trí quay xe; có nhà vệ sinh
55
đầy đủ, sạch sẽ; có điểm dừng chân, ghế ngồi
nghỉ ngơi; có cổng chào đẹp, bắt mắt. Đồng
thời, trang bị đầy đủ nông cụ hái trái cây, quần
áo nhà nông, dụng cụ bắt cá, phương tiện di
chuyển như xe đạp, xe đạp đôi, xuồng,... để du
khách sử dụng khi có nhu cầu. Các cửa hàng
quà lưu niệm, đặc sản và khu dịch vụ ẩm thực
xung quanh cần được đầu tư đồng bộ, vừa phải,
hài hòa với cảnh quan miệt vườn sông nước và
văn hóa, lối sống bình dị của làng quê, kết hợp
tiêu thụ tại chỗ hàng nông sản.
Thứ năm, về phát triển nguồn nhân lực: Sự
thân thiện, chân thành, lịch sự, mến khách của
người dân địa phương; kiến thức, sự hiểu biết;
thái độ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, truyền đạt
thông tin; và sự chuyên nghiệp trong cách phục
vụ nên được đề cao. Do đó, cần đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao sự hiểu biết của người dân về
lợi ích và trách nhiệm phát triển du lịch, về kiến
thức, thái độ, kỹ năng, nghiệp vụ, cách thức giao
tiếp, hướng dẫn du khách Cơ quan chức năng
cần mở các lớp tập huấn ngắn hạn, học viên là
cán bộ phụ trách du lịch của các khu di tích, điểm
tham quan du lịch làng nghề, các doanh nghiệp du
lịch, lữ hành, cơ sở lưu trú và các điểm DLSTMV
trên địa bàn tỉnh. Chương trình đào tạo cần được
xây dựng sát với nhu cầu thực tiễn. Thực hiện
đào tạo mới, đào tạo lại, mời giảng viên chuyên
ngành có uy tín, am hiểu về DLSTMV, văn hóa,
lối sống, tiềm năng tự nhiên và điều kiện phát
triển du lịch của Đồng Tháp. Các kiến thức, kỹ
năng, nghiệp vụ, quy trình phát triển sản phẩm
du lịch, xu hướng du lịch, tài liệu, giáo trình phải
đơn giản, dễ hiểu để người dân dễ nắm bắt, áp
dụng vào thực tế. Bên cạnh đó, cần tổ chức cho
cán bộ quản lí và người dân địa phương tham
quan, học hỏi kinh nghiệm làm DLSTMV thành
công ở trong và ngoài tỉnh. Nhân viên phục vụ
cần có trang phục đẹp, phù hợp với lối sống, văn
hóa của người dân Đồng Tháp.
Thứ sáu, về giá cả dịch vụ và vấn đề an
ninh, an toàn cho du khách: Vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm rất quan trọng và cần được quan
tâm nhiều hơn. Do vậy, người dân cần tiếp tục
đẩy mạnh áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu
chuẩn xanh, sạch, tiêu chuẩn VietGAP do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định
để sản xuất sản phẩm nông sản an toàn, đảm bảo
vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh
thái. Ngành du lịch cần tiếp tục có nhiều giải
pháp bảo vệ an toàn cho du khách tại các điểm
đến như trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ,
mặc áo phao, đội mũ bảo hiểm... khi tham gia
các hoạt động vui chơi. Không để đối tượng ăn
xin, bán hàng rong, bán vé số,... làm phiền du
khách tham quan, trải nghiệm. Vận động người
dân cam kết, không tăng giá dịch vụ vào dịp cao
điểm như lễ, tết, thu hoạch trái cây chính vụ...
Thực hiện công khai giá vé tham quan, các dịch
vụ vui chơi giải trí đi kèm và bán đúng giá niêm
yết, không để xảy ra tình trạng chèo kéo, chặt
chém du khách.
4. Kết luận
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng những
giá trị nhân văn đặc sắc, DLSTMV ở tỉnh Đồng
Tháp có sức hấp dẫn lớn và dần định vị được
thương hiệu uy tín. Phát triển các hoạt động
DLSTMV sẽ khai thác tốt tài nguyên bản địa.
Loại hình du lịch này có vai trò quan trọng không
chỉ đối với kinh tế mà còn góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội, tiêu thụ tại chỗ hàng nông sản,
nâng cao hình ảnh và niềm tự hào của người dân
địa phương. Bài viết đã phân tích, đánh giá tiềm
năng phát triển DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp về
sản phẩm, đặc điểm vùng miệt vườn và khả năng
khai thác để phát triển du lịch, những thuận lợi
và khó khăn trong phát triển DLSTMV. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy, DLSTMV ở tỉnh Đồng
Tháp rất có tiềm năng phát triển, du khách đánh
giá khá tốt về các yếu tố cảnh quan, hoạt động
du lịch, hạ tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ,
nhân viên, giá cả dịch vụ và an ninh, an toàn của
điểm đến. Trên cơ sở đó, bài viết đã đề xuất các
giải pháp với kỳ vọng tăng cường thu hút, nâng
cao sự hài lòng của du khách trong thời gian. Qua
đó, đóng góp cho sự phát triển của loại hình du
lịch được xem là thế mạnh của vùng ĐBSCL nói
chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng./.
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56
56
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tài liệu tham khảo
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp. (2015). Tài
liệu tuyên truyền Đề án phát triển du lịch
tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2015-2020.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (2010).
Quyết định số 803/QĐ-BVHTTDL ngày
09/3/2010, về việc phê duyệt đề án phát triển
du lịch ĐBSCL đến năm 2020.
Đoàn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Thị Quỳnh Ngọc.
(2012). Phát triển du lịch nông thôn ở vùng
ĐBSCL: Đường đến cơ cấu kinh tế dịch
vụ - nông - công nghiệp. Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh
doanh, số 28 (2012), 261-268.
Đỗ Thu Nga. (2015). Nghiên cứu phát triển
DLSTMV tỉnh Bến Tre. Luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Anh. (2016). Phát triển bền vững cây ăn trái
vùng ĐBSCL. Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam. Truy cập từ
vn/kinh-te/phat-trien-ben-vung-cay-an-trai-
vung-dong-bang-song-cuu-long-404218.
html.
Lê Công Lý. (2015). Tìm hiểu địa văn hóa miệt
vườn Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu và Phát
triển, số 3 (120), 3-13.
Nguyễn Trọng Nhân, Trần Thị Hoàng Anh và
Nguyễn Thị Diệu Mơ. (2015). Đánh giá của
du khách đối với du lịch miệt vườn vùng
ĐBSCL. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, số 36 (2015), 84-94.
Phạm Trung Lương. (2015). Phát triển du lịch
sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi
khí hậu. Tham luận tại Hội thảo Môi trường
và phát triển bền vững trong bối cảnh biến
đổi khí hậu, Hà Nội.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. (2017). Tài
liệu Hội nghị Xúc tiến đầu tư Đồng Tháp,
tổ chức ngày 19/12/2017.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. (2019). Quyết
định số 347/QÐ-UBND.HC ngày 24/4/2019
về việc phê duyệt các điểm du lịch cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp năm 2019.
Văn Nữ Quỳnh Trâm. (2015). Văn hóa sông nước
của cư dân ĐBSCL. Tạp chí Văn hóa, số 375
tháng 9/2015, 22-27.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiem_nang_va_giai_phap_phat_trien_du_lich_sinh_thai_miet_vuo.pdf