Tiềm năng và lợi thế của tỉnh Trà Vinh trong quy hoạch phát triển cảng biển nước sâu

KẾT LUẬN Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc khu vực ĐBSCL, nằm giữa hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu. Tỉnh Trà Vinh có cửa biển Định An thuộc sông Hậu là một trong hai cửa biển lớn (bên cạnh cửa biển Trần Đề) rất thích hợp để làm cảng biển nước sâu. Hằng năm, khối lượng hàng hóa xuất khẩu của khu vực ĐBSCL là rất lớn, chủ yếu là ba nhóm mặt hàng chính của vùng: thủy sản, lúa gạo, trái cây. Với diện tích hơn 4 triệu ha, 20 triệu dân (chiếm 20% dân số), ĐBSCL đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế khi đóng góp 20% GDP của cả nước, song việc đầu tư hạ tầng giao thông so với mặt bằng chung và nhu cầu phát triển của khu vực vẫn chưa đáp ứng. Bởi lẽ tổng số vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông vùng này giai đoạn 2011 – 2015 mới chỉ chiếm 12,5% và giai đoạn 2016 – 2020 được đầu tư hơn 65.000 tỉ đồng, chiếm trên 15% tổng vốn đầu tư thực hiện của cả nước. Việc đầu tư hạ tầng giao thông hạn chế thì việc phát triển kinh tế, thu hút đầu tư, phát triển du lịch sẽ đều rất khó khăn, từ đó kéo theo kinh tế – xã hội đều ít có cơ hội phát triển. Trong khi đó, hệ thống cảng biển của ĐBSCL (nhóm cảng biển số 6) với 07 cảng và 31 bến cảng, chủ yếu nằm trên sông, luồng lạch vào cảng còn hạn chế, chỉ đáp ứng cho tàu trọng tải 10.000 tấn đầy tải và 20.000 tấn giảm tải. Chính vì lẽ đó, hiện nhóm cảng số 6 chỉ đảm nhận được khoảng 20% – 25% tổng lượng hàng hóa có nhu cầu vận tải bằng đường biển của vùng. Do đó, việc quy hoạch đầu tư xây dựng một cảng nước sâu tại Định An (thuộc huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) là một dự án rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội cho tỉnh Trà Vinh nói riêng và cả khu vực ĐBSCL nói chung trong thời gian tới.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng và lợi thế của tỉnh Trà Vinh trong quy hoạch phát triển cảng biển nước sâu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 73 TIỀM NĂNG VÀ LỢI THẾ CỦA TỈNH TRÀ VINH TRONG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CẢNG BIỂN NƯỚC SÂU POTENTIAL AND ADVANTAGES OF TRA VINH PROVINCE IN DEEP-WATER PORT DEVELOPMENT PLANNING ThS. Nguyễn Thiện Thuận1 Tóm tắt: Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu đổ ra biển Đông. Tỉnh Trà Vinh có hai cửa sông lớn là cửa Cung Hầu và cửa Định An. Trong đó, cửa Định An là một cửa sông rất thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ logistics. Bằng phương pháp nghiên cứu bản đồ và tìm kiếm các thông tin, dữ liệu thứ cấp trên mạng Internet về tình hình xuất khẩu hàng hóa và các quy hoạch giao thông vận tải của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tác giả cho rằng tỉnh Trà Vinh có nhiều tiềm năng và lợi thế trong quy hoạch phát triển cảng biển nước sâu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của cả khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Từ khóa: cảng biển nước sâu, quy hoạch cảng biển, tỉnh Trà Vinh Abstract: As a coastal province in the Mekong Delta region (Mekong Delta), located between two large rivers, namely Tien river and Hau river which flow to the East Sea, Tra Vinh has two large estuaries: Cung Hau and Dinh An. In which, Dinh An is an estuary convenient for the development of logistics services. By studying maps, searching secondary information and data on the Internet about the export, the transportation planning in Mekong Delta, the author found that Tra Vinh has a lot of potential and advantages in deep-water seaport development planning which serve for export activities of the whole Mekong Delta. Keywords: deep-water seaport, seaport planning, Tra Vinh Province 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trà Vinh là một tỉnh nằm ở phía Đông Nam Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), giữa hai con sông Cổ Chiên và sông Hậu. Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bến Tre được ngăn cách bởi sông Cổ Chiên (một nhánh của sông Tiền), phía Tây Nam giáp với tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ qua ranh giới sông Hậu, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Đông là biển Đông. Trà Vinh ở vị trí một mặt giáp biển (dài 65 km), nơi có hai cửa sông (Cung Hầu và Định An) được xem là hai cửa sông quan trọng thông thương ĐBSCL với 1 Trường Đại học Trà Vinh DOI: 10.35382/18594816.1.4.2020.405 10.35382/18594816.1.4.2020.405 Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 74 biển Đông, kết nối với cả nước và quốc tế. Do vậy, Trà Vinh ở vào địa thế có tầm quan trọng về kinh tế và quốc phòng đối với ĐBSCL. Đây là lợi thế về giao thông thủy và kinh tế biển mà các tỉnh khác không có được. Trong thời gian qua, tỉnh Trà Vinh đã được Chính phủ chủ trương xây dựng các dự án trọng điểm quốc gia trên địa bàn tỉnh nhằm phát huy các thế mạnh và tiềm năng vốn có. Điển hình như Quyết định 1513/QĐ-TTg ngày 05/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Định An tỉnh Trà Vinh đến năm 2030 (một trong ba khu kinh tế ven biển của vùng ĐBSCL); Quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 30/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải về việc phê duyệt dự án đầu tư Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (dự án kênh đào Quan Chánh Bố); dự án Trung tâm Điện lực Duyên Hải với các nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1, 2, 3, 4 có tổng công suất 4.400 MW đã triển khai và vận hành. Các dự án này đã góp phần thay đổi cục diện phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Trà Vinh nói riêng cũng như của cả khu vực ĐBSCL nói chung. Thế nhưng, khi các dự án trên được triển khai thực hiện sẽ kéo theo những dự án quan trọng khác phải có để đảm bảo cho sự phát triển của cả khu vực. Một trong số các dự án quan trọng là phải xây dựng các cảng nước sâu phục vụ cho Trung tâm Điện lực Duyên Hải cũng như hoạt động xuất nhập hàng hóa của vùng ĐBSCL thông thương với khu vực và quốc tế. Đồng thời với đó là các dự án phát triển giao thông đường bộ (các tuyến cao tốc và mở rộng các quốc lộ) và đường hàng không phục vụ cho việc kết nối giao thông giữa các tỉnh thành ĐBSCL trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, trong tham luận này, tác giả trình bày quan điểm về sự cần thiết phải xây dựng hệ thống cảng nước sâu có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn tại tỉnh Trà Vinh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng bền vững vùng ĐBSCL. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Câu hỏi nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu và trình bày tham luận, tác giả đã đặt ra ba câu hỏi lớn cần giải quyết như sau: - Trà Vinh có vai trò và vị trí chiến lược như thế nào trong vùng ĐBSCL? Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về vị trí địa lí của tỉnh Trà Vinh so với các tỉnh thành khác trong khu vực như thế nào. Từ đó, chúng ta sẽ nhận định được lợi thế của tỉnh Trà Vinh trong việc đầu tư xây dựng cảng biển nước sâu cho tàu có trọng tải lớn. - Khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của vùng ĐBSCL trong thời gian qua và trong giai đoạn sắp tới ra sao? Câu hỏi thứ hai này cung cấp cho chúng ta các con số thống kê về khối lượng hàng hóa của các tỉnh/thành có nhu cầu xuất nhập khẩu trong thời gian qua là bao nhiêu, lớn hay nhỏ và chủ yếu là thông qua các cảng nào. Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 75 - Trà Vinh có những thuận lợi và tiềm năng phát triển cảng biển nước sâu phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của cả khu vực ĐBSCL hay không? Đây là câu hỏi thứ ba nhằm khẳng định các tiềm năng và lợi thế của tỉnh Trà Vinh trong việc đầu tư xây dựng cảng biển nước sâu tầm cỡ của cả nước để phát triển các hoạt động giao thương hàng hóa cho cả vùng ĐBSCL với khu vực và quốc tế. 2.2. Các phương pháp nghiên cứu Tham luận này chủ yếu dựa vào các thông tin và dữ liệu thứ cấp được thu thập bằng phương pháp sưu tầm, tìm kiếm trên mạng Internet và thông qua các báo cáo của các tỉnh/thành trong khu vực, cũng như của các cơ quan thuộc Chính phủ. Các thông tin, dữ liệu thứ cấp được thu thập bao gồm: + Các số liệu thống kê về hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực ĐBSCL trong thời gian qua và dự báo trong thời gian tới; + Các quyết định và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Trà Vinh và cả khu vực ĐBSCL đã được Chính phủ phê duyệt và triển khai; + Các quy hoạch phát triển giao thông vận tải cho vùng ĐBSCL và tỉnh Trà Vinh. Phương pháp phân tích thông tin số liệu: + Phương pháp so sánh: đối chiếu các số liệu qua các năm để thấy được sự tăng giảm ra sao và theo tỉ lệ như thế nào; + Phương pháp bản đồ: quan sát, đối chiếu và so sánh về mặt vị trí địa lí và kinh tế chủ yếu giữa các tỉnh/thành trong khu vực ĐBSCL. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Khái quát vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vị trí chiến lược của tỉnh Trà Vinh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với ba mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển (có đường bờ biển dài 750 km), phía Tây có đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ – vùng kinh tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. ĐBSCL có diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.747 km2, nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thủy vào bậc nhất ở nước ta [1]. ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 01 thành phố trực thuộc Trung ương (TP. Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau). ĐBSCL nằm giữa khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích gần 40.000 km2 (chiếm 12% diện tích cả nước), dân số khoảng 18 triệu người (chiếm 20% dân số cả nước), có bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia; hơn 360.000 km2 vùng biển và đặc Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 76 quyền kinh tế; gần tuyến hàng hải Đông – Tây và là luồng hàng hải quốc tế sôi động nhất, với sự hiện diện nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới. Sông Mekong gồm chín cửa sông: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Định An, cửa Trần Đề, cửa Ba Thắc. Trong chín cửa sông này, chỉ có hai cửa Định An và Trần Đề là có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn ra vào sông Hậu. Và Chính phủ đã chủ trương đầu tư dự án kênh đào Trà Vinh dẫn vào kênh Quan Chánh Bố để tàu trọng tải lớn vào sông Hậu, lên cảng Cái Cui (Cần Thơ) được thuận tiện, không phải tốn nhiều kinh phí nạo vét bồi lắng hằng năm. Hiện tại, kênh đào đã hoàn thành, cho phép tiếp nhận tàu trọng tải lớn. Trà Vinh là một trong hai địa phương tại khu vực ĐBSCL được Chính phủ chọn để thành lập khu kinh tế. Đó là Khu kinh tế Định An tại địa bàn hai huyện Trà Cú, Duyên Hải và thị xã Duyên Hải. Đây là khu kinh tế ven biển tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực gồm công nghiệp – thương mại – dịch vụ – du lịch – đô thị và nông – lâm – ngư nghiệp. Dự án với diện tích là 39.020 ha, thực hiện giai đoạn 1 đến năm 2020 là 15.403,7 ha. Với các dự án trọng điểm của Trung ương, của tỉnh và các doanh nghiệp đã hoàn thành và đang triển khai như: Luồng cho tàu lớn vào sông Hậu; Trung tâm Điện lực Duyên Hải với công suất 4.400 MW; các dự án điện gió, điện mặt trời..., Trà Vinh hoàn toàn có thể trở thành trung tâm kinh tế biển của vùng ĐBSCL. Hình 1. Bản đồ chín cửa sông Cửu Long (Nguồn: Nhà Xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam) Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 77 3.2. Khối lượng hàng hóa xuất khẩu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước, đóng góp 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu; có vị trí thuận tiện trong giao thương với các nước ASEAN và tiểu vùng sông Mekong [2]. Hoạt động vận tải hàng hóa của vùng ĐBSCL đạt con số khoảng 131,7 triệu tấn (thống kê năm 2017), đạt mức tăng trưởng bình quân 6,2%/năm (giai đoạn 2010 – 2017). Trong đó, lượng hàng hóa xuất khẩu chủ yếu tập trung vào ba mặt hàng chủ lực là thủy sản, lúa gạo và trái cây, đóng góp khoảng 18,7% GDP cả nước. Hiện nay, nhu cầu xuất khẩu hàng hóa của ĐBSCL rất lớn, ước đạt khoảng 17 – 18 triệu tấn/năm và không ngừng tăng cao (bình quân tăng từ 10% – 15%/năm). Tuy nhiên, có đến 70% lượng hàng hóa của vùng phải vận chuyển bằng đường bộ lên các cảng ở TP. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ (thuộc nhóm cảng số 5), kéo theo chi phí vận chuyển tăng từ 10% – 40%/chuyến hàng, tạo áp lực lớn cho doanh nghiệp và làm giảm khả năng cạnh tranh [3]. Thực trạng này cũng khiến tình trạng quá tải diễn ra thường xuyên trên các tuyến giao thông kết nối từ TP. Hồ Chí Minh đến các tỉnh vùng ĐBSCL. ĐBSCL có tổng chiều dài đường thủy hơn 15.000 km, gần 60 cảng thủy nội địa và gần 4.000 bến thủy nội địa. Tuy nhiên, trên 85% các cảng phân tán, manh mún, phần lớn chỉ có công suất xếp dỡ nhỏ hơn 10.000 tấn/năm, chưa có bến gom hàng cho các cảng thủy nội địa lớn trong vùng. Do không có cảng lớn, tất cả hàng hóa về ĐBSCL đều phải chuyển từ TP. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ [3]. 3.3. Những thuận lợi và tiềm năng phát triển cảng biển nước sâu phục vụ hoạt động xuất khẩu hàng hóa của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long Theo thống kê của Bộ Giao thông Vận tải, tổng số vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông vùng ĐBSCL giai đoạn 2011 – 2015 là 67.552 tỉ đồng, chiếm 12,26% tổng vốn đầu tư thực hiện của cả nước. Giai đoạn 2016 – 2020, tổng số vốn đầu tư là 65.056 tỉ đồng, chiếm 15,15% tổng vốn đầu tư thực hiện cả nước [4]. Các công trình, dự án trọng điểm được đưa vào khai thác giúp khu vực phát triển như cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Trung Lương; các cầu Cổ Chiên, Năm Căn, Mỹ Lợi, Rạch Sỏi; dự án mở rộng quốc lộ 1; nâng cấp theo đoạn quốc lộ 91, quốc lộ 53, quốc lộ 54, đường hành lang ven biển giai đoạn 1, quốc lộ 61; đường Hồ Chí Minh... Các dự án về giao thông đường thủy cũng được chú trọng như nâng cấp kênh Chợ Gạo giai đoạn 1; phát triển giao thông vận tải thủy 13 tỉnh/thành ĐBSCL; luồng tàu biển lớn vào sông Hậu; dự án kết nối vùng Đồng bằng Mekong, tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi[3]. Thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, từ năm 2017 đến nay, Quốc hội, Chính phủ đã đồng ý bố trí 10.607 tỉ đồng để triển khai các dự án: Cầu Mỹ Thuận 2 trên tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông, tuyến tránh thành phố Long Xuyên, quốc lộ 57 Bến Tre – Vĩnh Long, quốc lộ Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 78 53 Trà Vinh – Long Toàn, quốc lộ 30 Cao Lãnh – Hồng Ngự, nâng cấp mặt đường tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp [3]. Hình 2. Sơ đồ các công trình giao thông đường bộ quan trọng của ĐBSCL [5] Bên cạnh đó, việc xây dựng cảng nước sâu tại Định An (Trà Vinh) sẽ có một số thuận lợi như: - Khu kinh tế Định An được Chính phủ thành lập với diện tích 39.020 ha (Quyết định số 1513/QĐ-TTg ngày 05/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ) và được lựa chọn là một trong tám nhóm khu kinh tế ven biển trọng điểm để tập trung đầu tư phát triển giai đoạn 2016 – 2020 (Công văn số 2021/TTg-KTTH ngày 09/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ) [6]. - Cảng nước sâu đồng thời còn trung chuyển than nhập khẩu cho các trung tâm điện lực trong vùng, đặc biệt là Trung tâm Điện lực Duyên Hải gồm 04 dự án với tổng công suất 4.400 MW, tổng lượng than thông qua vào năm 2030 khoảng 35 – 40 triệu tấn/năm [6]. - Luồng tàu biển có tải trọng lớn vào sông Hậu (Kênh đào Trà Vinh) được xem là lối ra huyết mạch, ổn định lâu dài của khu vực ĐBSCL, thúc đẩy phát triển việc kết nối logistics trong nội vùng ĐBSCL. Để phát huy hiệu quả luồng tàu, tạo thêm điều kiện cho tỉnh Trà Vinh phát triển bền vững, củng cố tiềm lực quốc phòng, Trà Vinh đề xuất xây dựng khu vực luồng tàu bến cảng nước sâu có khả năng tiếp nhận tàu tải trọng 160.000 tấn. Theo ước tính, đối với luồng tàu, chỉ cần bổ sung kinh phí khoảng 3.400 tỉ đồng (xây dựng tiếp 2,5 km đê chắn sóng và nạo vét tăng độ sâu lên -13,5 m) đã có thể tiếp nhận tàu có tải trọng đến 100.000 tấn và nếu bổ sung thêm 2.300 tỉ (nạo vét tăng độ sâu lên -16,5 m) có thể tiếp nhận tàu có tải trọng đến 160.000 tấn phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu cho toàn vùng (nơi duy nhất có chi phí thấp nhất và hiệu quả mang lại trong tương lai cao nhất trong khu vực ĐBSCL). Đồng thời, phát huy hiệu quả hệ thống giao thông đường thủy theo trục ngang đến TP. Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang (tuyến sông Hậu) [6]. Hội thảo Khoa học “Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, tạo động lực phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long” 79 4. KẾT LUẬN Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc khu vực ĐBSCL, nằm giữa hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu. Tỉnh Trà Vinh có cửa biển Định An thuộc sông Hậu là một trong hai cửa biển lớn (bên cạnh cửa biển Trần Đề) rất thích hợp để làm cảng biển nước sâu. Hằng năm, khối lượng hàng hóa xuất khẩu của khu vực ĐBSCL là rất lớn, chủ yếu là ba nhóm mặt hàng chính của vùng: thủy sản, lúa gạo, trái cây. Với diện tích hơn 4 triệu ha, 20 triệu dân (chiếm 20% dân số), ĐBSCL đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế khi đóng góp 20% GDP của cả nước, song việc đầu tư hạ tầng giao thông so với mặt bằng chung và nhu cầu phát triển của khu vực vẫn chưa đáp ứng. Bởi lẽ tổng số vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông vùng này giai đoạn 2011 – 2015 mới chỉ chiếm 12,5% và giai đoạn 2016 – 2020 được đầu tư hơn 65.000 tỉ đồng, chiếm trên 15% tổng vốn đầu tư thực hiện của cả nước. Việc đầu tư hạ tầng giao thông hạn chế thì việc phát triển kinh tế, thu hút đầu tư, phát triển du lịch sẽ đều rất khó khăn, từ đó kéo theo kinh tế – xã hội đều ít có cơ hội phát triển. Trong khi đó, hệ thống cảng biển của ĐBSCL (nhóm cảng biển số 6) với 07 cảng và 31 bến cảng, chủ yếu nằm trên sông, luồng lạch vào cảng còn hạn chế, chỉ đáp ứng cho tàu trọng tải 10.000 tấn đầy tải và 20.000 tấn giảm tải. Chính vì lẽ đó, hiện nhóm cảng số 6 chỉ đảm nhận được khoảng 20% – 25% tổng lượng hàng hóa có nhu cầu vận tải bằng đường biển của vùng. Do đó, việc quy hoạch đầu tư xây dựng một cảng nước sâu tại Định An (thuộc huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) là một dự án rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội cho tỉnh Trà Vinh nói riêng và cả khu vực ĐBSCL nói chung trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Trung tâm XT-ĐT TP. Cần Thơ. Giới thiệu Đồng bằng sông Cửu Long. Truy cập từ https://canthopromotion.vn/dong-bang-song-cuu-long/ [Ngày truy cập: 27/12/2019]. [2]. Lê Phương. (2019). Góc nhìn đại biểu: Giao thông ĐBSCL – Điểm nghẽn trong phát triển KT-XH. Truy cập từ: bieu.aspx?ItemID=41383 [Ngày truy cập: 27/12/2019]. [3]. Tiến Lực – Công Mạo – Thanh Liêm. (2019). Phát triển vùng ĐBSCL – Bài 4: TP. HCM giữ vai trò trung tâm kết nối khu vực. Truy cập từ: https://bnews.vn/phat- trien-vung-dbscl-bai-4-tp-hcm-giu-vai-tro-trung-tam-ket-noi-khu-vuc/131621.html [Ngày truy cập: 27/12/2019]. [4]. Tiến Lực – Công Mạo – Thanh Liêm. (2019). Phát triển vùng ĐBSCL – Bài 1: Đầu tư không “chạy kịp” thực tế. Truy cập từ: https://bnews.vn/phat-trien-vung-dbscl- bai-1-dau-tu-khong-chay-kip-thuc-te-/131608.html [Ngày truy cập: 27/12/2019]. [5]. Báo Giao thông. Hàng loạt dự án giao thông lớn xóa điểm nghẽn về miền Tây. Truy cập từ: https://www.baogiaothong.vn/loat-du-an-giao-thong-lon-xoa-diem-nghen-ve- mien-tay-d433374.html [Ngày truy cập 27/12/2019]. [6]. UBND tỉnh Trà Vinh. (2019). Dự thảo Tờ trình về việc đề xuất điều chỉnh quy hoạch phát triển bến cảng biển Trà Vinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftiem_nang_va_loi_the_cua_tinh_tra_vinh_trong_quy_hoach_phat.pdf
Tài liệu liên quan