Tiền thực (hoá tệ) là hình thái tiền tệ, có đầy đủ giá trị nội tại, lưu thông được là nhờ vào giá trị của chính bản thân.
Với loại hình thái tiền tệ này, giá trị trao đổi của tiền tệ phụ thuộc vào giá trị nội tại của chính bản thân nó, không phụ thuộc vào luật định hay sự quy ước của xã hội. Điển hình của loại hình thái tiền tệ này là tiền vàng và tiền bạc. Như vậy, nếu chi phí khai thác vàng và bạc, chi phí đúc tiền vàng và bạc thay đổi thì giá trị nội tại của vàng và bạc thay đổi, do đó giá trị của nó cũng thay đổi theo. Ngược lại, nếu giá trị nội tại của vàng không thay đổi thì giá trị trao đổi của nó sẽ ổn định.
Dấu hiệu giá trị (tín tệ) là hình thái tiền tệ lưu thông được không phải nhờ giá trị của bản thân, mà là sự tín nhiệm , sự quy ước của xã hội, của luật định đối với bản thân nó. Gọi là dấu hiệu giá trị, vì bản thân nó không có giá trị hoặc giá trị rất nhỏ nhưng nó là đại biểu của giá trị, nó có thể mua được giá trị lớn. Điển hình của loại hình thái tiền tệ này là tiền giấy và tiền đúc bằng các kim loại thường như: tiền đồng, tiền nhôm, tiền kẽm, Đối với loại tiền này lưu thông không phải nhờ vào giá trị nội tệ của nó. Giá trị nội tại của nó thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị trao đổi, thậm chí rất nhỏ ví dụ như tiền giấy, người ta thường coi như nó không có giá trị nội tại. Do đó trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị, đặc biệt là tiền giấy, vai trò quản lí của Nhà nước, của ngân hàng trung ương là rất quan trọng, giúp cho việc hạn chế tiền giả và ổn định tiền tệ.
2.2. Căn cứ vào tính vật chất của tiền tệ
18 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiền tệ ngân hàng - Đề tài: Lịch sử tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nặng khoảng 500 gam, làm tiền để trả lương cho lính. Ở Trung Hoa cổ đại, việc sử dụng đồng, theo lịch sử ghi nhận, có nhiều đồ vật mang niên đại 2.000 năm trước công nguyên. Vào khoảng 1.200 năm trước công nguyên, Trung Hoa đã sản xuất được những đồ đồng thau hoàn hảo. Dần dần những kim loại này bị đào thải, thay thế bằng các kim loại quý là vàng và bạc.
Hai loại kim loại này có các chất lượng đáp ứng được nhiều nhất những gì mà một đồng tiền hàng hoá cần có . Chúng không bị phá huỷ, hoàn toàn đồng nhất về mặt vật chất và kinh tế, đều có thể chia nhỏ được, chúng tương đối hiếm, dễ dàng nhận biết, lưu giữ thuyên chuyển. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim loại kém giá, dễ bị rỉ sét để trở thành tiền kim loại phổ biến trong khoảng thế kỉ 18-19.
Kim loại chỉ được người bán chấp nhận sau khi đã cân và kiểm tra lại. Việc bắt buộc phải cân tiền với mỗi nghiệp vụ trao đổi là một phiền toái. Người ta đã tránh việc này bằng cách in trên mỗi kim loại dòng chữ xác nhận trọng lượng của chúng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các bên tiến hành trao đổi này không tranh cãi về trọng lượng và chất lượng của dòng chữ đó. Do vậy, việc in trên đồng tiền kim loại phải do những người có uy tín thực hiện. Vao thời buổi ban đầu đó chính là các thương gia và các nhà ngân hàng. Tong thời kì đầu, tiền kim loại ở dạng tuỳ ý hoặc thành thỏi hoặc những chiếc vòng, về sau những phát triển đã tiêu chuẩn hóa tiền tệ về trọng lượng chất lượng kim loại và nhãn mác. Những đồng xu mang những dấu hiệu về giá trị thao trọng lượng, và chất lượng của các đồng xu đuợc quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền đúc( tiền xu) đã tạo điều kiện cho các giao dịch và giúp những nhà buôn tiết kiệm được thời gian cho việc nhận dạng, định lượng, và đánh giá chất lượng kim loại.
Mặc dù tiền xu được đúc theo được đúc theo dấu hiệu riêng của từng quốc gia làm bằng chứng bảo đảm về nội dung và chất lượng kim loại, nhưng trong thực tế các quốc gia thường đúc những đồng xu hỗn hợp kim loại có giá trị thấp hơn. Các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng của vàng (hay bạc) trong các đồng xu làm cho các đồng xu mất giá trị dần trong lưu thông.
Kinh tế và các vấn đề xã hội khác càng phát triển, các câu hỏi và yêu cầu đặt ra càng cao hơn, người ta bắt đầu tìm kiếm những phương tiện tiện lợi hơn để dùng làm tiền. Thêm nữa, xã hội ngày càng trở nên thiếu tài nguyên do dân số trở nên đông đúc hơn,và vì mọi nguồn lực không phải là vô hạn, sự tiết kiệm các dạng như kim loại là rất cần thiết. Đó là 1 trong số những lí do giúp tiền giấy ra đời và phát triển nhanh chóng từ cuối những năm 1600 cho đến tận bây giờ.
Có thể phân biệt 3 giai đoạn lớn trong lịch sử của đồng tiền kim loại:
+ Giai đoạn chiếm ưu thế của vàng, trong đó kim loại này loại trừ tất cả các đối thủ cạnh tranh khác, nhất là bạc. Giai đoạn này kết thúc vào chiến tranh thế giới thứ nhất.
+Giai đoạn suy giảm vai trò của vàng với tư cách là đồng tiền có giá trị nội tại là giữa hai thế chiến
+Giai đoạn suy giảm vai trò của vàng với tư cách là đồng tiền quốc tế, giai đoạn này bắt đầu từ 1945 và vẫn đang tiếp tục.
Tiếp theo là sự xuất hiện giấy bạc ngân hàng (tiền giấy). Đầu tiên giai đoạn của tiền giấy khả hoán, nghĩa là tiền giấy có thể đổi ra vàng và bạc bất cứ lúc nào. Tiền giấy khả hoán tồn tại từ thế kỉ 17, được củng cố bởi học thuyết của David Ricardo, kéo dài cho đến tận những năm 30 của thế kỉ 20. Với chế độ tiền giấy khả hoán, thế giới từ bỏ thời kì hoá tệ chuyển sang thời kì tiền- kí hiệu. Đặc trưng cơ bản của thời kì tiền kí hiệu là tiền tệ không có giá trị nội tại, giá trị của nó nằm trong số vàng nó đại diện, uy tín của ngân hàng phát hành ra nó. Sau này, để kiểm soát việc phát hành tiền giấy, Nhà nước dần dần trao cho một ngân hàng duy nhất việc phát hành tiền giấy. Ngân hàng có đặc quyền phát hành tiền giấy trở thành ngân hàng trung ương. Do đó, ngày nay tiền giấy còn được gọi là tiền trung ương.
Thụy Điển là quốc gia Châu Âu đầu tiên phát hành tiền giấy. Năm 1661, ngân hàng Stockholm Banco của Johan Palmstruch là nơi tung ra những tờ tiền giấy đầu tiên. Tuy nhiên, đồng tiền này nhanh chóng mất giá và Palmstruch bị xử tử hình (sau đó được giảm án còn chung thân). Dù vậy nhiều nước Châu Âu bắt đầu phát hành tiền giấy.
Việc phát hành tiền cũng trở thành một đặc quyền của Nhà nước, trong nhiều trường hợp Nhà nước uỷ quyền cho một hoặc nhiều ngân hàng thông thường, rồi cho ngân hàng trung ương. Các ngân hàng mở rộng vai trò thu góp vốn bằng cách thoả thuận nhận gởi, giữ tiền giấy phát hành bởi những cơ quan có quyền làm việc đó (các ngân hàng thương mại được trao quyền phát hành hoặc ngân hàng trung ương). Những ngân hàng này cho phép khách hàng của mình viết các sec, lệnh chi, qua đó một người gửi tiền ra lệnh cho chủ ngân hàng của mình thanh toán cho người thứ ba số tiền bằng bản vị tiền tệ hiện hành. Việc quản lí những tiền gửi này cho phép cácngân hàng có phương tiện để thoả mãn các món tín dụng , và món tín dụng mới lại sinh những tiền gởi bổ sung.
Hệ thống tiền giấy được chuyển sang từ đồng tiền kim loại tiến triển thành tiền giấy bất khả hoán, loại tiền giấy mà chính phủ có uỷ nhiệm pháp lý, song không có khả năng chuyển thành kim loại và kim loại quý. Tiền ngày nay, thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy). Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa, vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền. Nhưng ngày nay, việc nầy không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hoá mà người ta có thể mua sắm được.
Kể từ năm 1931, sau cuộc khủng hoảng kinh tế , tất cả các nước áp dụng hệ thống không chuyển đổi được của đồng tiền. Tiền giấy bất khả hoán do nhà nước phát hành và được quốc gia quy định rằng tờ giấy này tương đương với một giá trị nhất định trong trao đổi và hoàn toàn không đổi ra vàng hay bạc được. Ở đây chính pháp luật đã gán cho tờ giấy một giá trị cao hơn giá trị của chính bản thân nó.
Từ khi tiền giấy ra đời nó dần dần chiếm chỗ của tiền kim loại vì sự tiện lợi cũng như tiết kiệm chi phí trong việc tạo ra tiền. Đến thế kỉ 20, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn toàn cho các loại tiền đúc bằng kim loại quý như vàng và bạc, không được đảm bảo bằng vàng và không được chuyển đổi ra vàng.
*Nguyên nhân chủ yếu khiến cả thế giới lần lượt chuyển sang sử dụng tiền giấy bất khả hoán phổ biến cho đến ngày nay là do:
+ Hậu quả của chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), các nước tham chiến đã dùng vàng để mua sắ vũ khí, làm cho dự trữ vàng trở nên cạn kiệt, không còn đủ lực lượng vàng để đổi cho công chúng
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) làm cho hàng ngàn ngân hàng bị phá sản và hàng loạt các ngân hàng rơi vào thế khủng hoảng, dẫn đến tâm lý lo sợ của công chúng, làn sóng đổi tiền giấy lấy vàng của công chúng dâng lên ào ạt, khiến các ngân hàng bế tắc không có đủ vàng để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi của công chúng. Trước tình hình đó các ngân hàng các nước lần lượt tuyên bố ngừng chuyển đổi tiền giấy lấy vàng và tiền giấy trở thành tiền giấy bất khả hoán
Như vậy, chính sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã dẫn tới sự xuất hiện của tiền tệ, và cũng chính sự phát triển hàng hoá cùngvới sự can thiệp của Nhà nứơc, đã đã dẫn tới sự thay thế phương tiện trao đổi này bằng phương tiện trao đổi khác. Do đó,không thể có một hàng hoá nào độc chiếm vai trò tiền tệ trong suốt quá trinh phát triển và trao đổi hàng hoá.
2. Các hình thái tiền tệ:
2.1. Căn cứ vào giá trị của tiền tệ:
Căn cứ vào giá trị của tiền tệ, có thể chia hình thái tiền tệ thành 2 loại: Tiền thực và dấu hiệu giá trị.
Tiền thực (hoá tệ) là hình thái tiền tệ, có đầy đủ giá trị nội tại, lưu thông được là nhờ vào giá trị của chính bản thân.
Với loại hình thái tiền tệ này, giá trị trao đổi của tiền tệ phụ thuộc vào giá trị nội tại của chính bản thân nó, không phụ thuộc vào luật định hay sự quy ước của xã hội. Điển hình của loại hình thái tiền tệ này là tiền vàng và tiền bạc. Như vậy, nếu chi phí khai thác vàng và bạc, chi phí đúc tiền vàng và bạc thay đổi thì giá trị nội tại của vàng và bạc thay đổi, do đó giá trị của nó cũng thay đổi theo. Ngược lại, nếu giá trị nội tại của vàng không thay đổi thì giá trị trao đổi của nó sẽ ổn định.
Dấu hiệu giá trị (tín tệ) là hình thái tiền tệ lưu thông được không phải nhờ giá trị của bản thân, mà là sự tín nhiệm , sự quy ước của xã hội, của luật định đối với bản thân nó. Gọi là dấu hiệu giá trị, vì bản thân nó không có giá trị hoặc giá trị rất nhỏ nhưng nó là đại biểu của giá trị, nó có thể mua được giá trị lớn. Điển hình của loại hình thái tiền tệ này là tiền giấy và tiền đúc bằng các kim loại thường như: tiền đồng, tiền nhôm, tiền kẽm, Đối với loại tiền này lưu thông không phải nhờ vào giá trị nội tệ của nó. Giá trị nội tại của nó thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị trao đổi, thậm chí rất nhỏ ví dụ như tiền giấy, người ta thường coi như nó không có giá trị nội tại. Do đó trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị, đặc biệt là tiền giấy, vai trò quản lí của Nhà nước, của ngân hàng trung ương là rất quan trọng, giúp cho việc hạn chế tiền giả và ổn định tiền tệ.
2.2. Căn cứ vào tính vật chất của tiền tệ
Có thể chia hình thái tiền tệ thành 2 loại: Tiền mặt và bút tệ
Tiền mặt là tiền vật chất, được quy định một cách cụ thể về hình dáng, kich thước, trọng lượng, màu sắc, tên gọi. Thế mạnh lớn nhất của tiền tệ là khả nhả năng thanh khoản cao nhất và nhanh nhất, nghĩa là có một sức mua có thể sử dụng được tức thì, mặc dù nó hoàn toàn không sinh lãi, thậm chí giá trị thực của nó có thể bị bào mòn trong trường hợp có lạm phát cao (nếu là dấu hiệu giá trị).
Tiền ghi sổ (bút tệ) là tiền tệ phi vật chất tồn tạidưới hình thức những con số, ghi trên tài khoản tại ngân hàng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các bút toán ghi Nợ và Có trên các tài khoản tiền gởi tại ngân hàng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, thanh toán bằng tiền mặt giảm dần, quá trình thanh toán được tập trungđại bộ phận qua ngân hàng thông qua các bút toán chuyển khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản kí thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ cùng với các phương tiện thanh toán như séc, lệnh chuyển tiền, giấy nhờ thu, tạo điều kiện đa dạng các hình thức thanh toán và phương tiện thanh toán tiết kiệm chi phí giao dịch vì có nhiều khoản thanh toán có thể bù trừ cho nhau thông qua ngân hàng, tăng cường hiệu quả kinh tế do tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, giảm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, chi phí phát hành, kiểm đếm, bảo đảm an toàntrong việc sử dụng đồng tiền, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương trong việc quản lý và điều tiết tiền tệ. Vì vậy,việc sử dụng tiền ghi sổ(tiền qua ngân hàng) ngày càng phát triển, trở thành xu hướng tất yếu của nền kinh tế thời đại. Đặc biệt sự phát triển không ngừng với tốc độ nhanh của công nghệ điện tử và tin học cũng như sự ứng dụng của chúng trong công nghệ ngân hàng, hứa hẹn một hệ thống than toán hiệu quả trong đó việc sử dụng công cụ điện tư trở nên phổ biến.
Hiện nay,ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trình độ công nghệ ngân hàng hiện đại, đổng tiển ghi sổ chiếm từ 90%-95% trong tổng số lượng tiền cung ứng .
Như vậy, sự phát triển của tiền ghi sổ đã làm cho tiền tệ nói chung trở nên mềm dẻo và đa dạng hơn vì nó có thể tồn tại dưới dạng hơn vì nó có thể tồn tại dưới dạng phi vật chất. Tuy nhiên cũng lưu ý rằng việc sử dụng tiền ghi sổ cũng không phải là không có những hạn chế, như: cần phải có thời gian để chuyển séc, thời gian cần thiết để có thể sử dụng số dư trên tài khoản, chi phí dàng cho việc xử lý các chứng từ thanh toán Do đó, sự phát triển của hệ thống ngân hàng, sự phát triển của công nghệ thanh toán qua ngân hàng là rất cần thiết và quan trọng.
II. Chế độ tiền tệ thế giới:
1. Chế độ song bản vị:
1.1. Khái niệm: là chế độ tiền tệ trong đó cũng một lúc có hai thứ kim loại (vàng, bạc) đóng vai trò làm vật ngang giá chung và là cơ sở của toàn bộ chế độ lưu thông tiền tệ của một nước. Bắt đầu xuất hiện ở Châu Âu vào khoảng thể kỷ 16 và kết thúc vào khoảng cuối thế kỷ 19.
1.2. Đặc điểm, hình thức:
+ Chế độ song bản vị bao gồm hai hình thức:
- Chế độ bản vị song song: tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc được lưu thông tự do theo giá thị trường.
- Chế độ bản vị kép: tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc được lưu thông theo tỷ giá bắt buộc do Nhà nước quy định (tỷ giá pháp định).
+ Đặc điểm:
- Mọi người được tự do đúc tiền vàng và tiền bạc.
- Tiền vàng và tiền bạc được tự do lưu thông trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
1.3. Ưu – nhược điểm của chế độ song bản vị:
+ Ưu điểm:
- Thúc đẩy thương mại quốc tế diễn ra nhanh chóng.
- Trong lưu thông hàng hoá, việc sử dụng chế độ song bản vị có nhiều tiến bộ hơn so với thời kỳ nền kinh tế đổi chác hiện vật.
+ Nhược điểm:
- Nhà nước khó kiểm soát lượng vàng, bạc của mỗi quốc gia.
- Hai thước đo giá trị, hai hệ thống giá cả còn gây trở ngại trong việc tính toán và lưu thông hàng hoá.
* *Quy luật Gresham: “tiền xấu trục xuất tiền tốt ra khỏi lưu thông”. Tức là, tiền nào có giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của nó trên thị trường dần dần bị quét khỏi lưu thông, nhường chỗ cho thứ tiền có giá trị danh nghĩa lớn hơn giá trị thực tế của nó. Nếu trong lưu thông chỉ còn một kim loại giữ vai trò làm tiền tệ thì điều đó cũng có nghĩa là chế độ song bản vị kết thúc nhường chỗ cho một chế độ bản vị mới.
2. Chế độ đơn bản vị:
2.1. Khái niệm:
Chế độ đơn bản vị là chế độ tiền tệ, trong đó lấy một thứ kim loại quý nào đó đóng vai trò là vật ngang giá chung và là cơ sở của toàn bộ chế độ lưu thong tiền tệ nước đó.
Trong lịch sử đã có những chế độ đơn bản vị cơ bản sau đây:
2.2. Chế độ bản vị bạc:
Chế độ đơn bản vị bạc là chế độ lưu thông tiền tệ lấy bạc làm cơ sở để xác định giá trị đồng tiền.
Chế độ đơn bản vị bạc đã tồn tại rất lâu tại nhiều quốc gia trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến và trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, bạc dần dần bị mất giá, gây nhiều khó khăn trong quá trình lưu thông hàng hóa nên các nước lần lượt loại bạc ra khỏi công dụng làm tiền tệ.
2.3. Chế độ bản vị vàng cổ điển:
Là chế độ tiền tệ trong đó vàng là thứ kim loại được chọn làm bản vị.
2.3.1. Hoàn cảnh ra đời:
Nước Anh, nước tư bản công nghiệp đầu tiên trên thế giới đã bỏ qua chế độ song bản vị mà đi thẳng từ chế độ bản vị bạc sang chế độ bản vị vàng từ cuối thế kỉ XVIII. Từ năm 1870 Đức cũng chuyển từ song bản vị sang bản vị vàng.
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX để phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của thời đại công nghiệp hóa, hầu hết các nước tư bản châu Âu và Bắc Mỹ cũng đã chuyển sang chế độ bản vị vàng. Trong khi trên một phần lớn diện tích thế giới ở cả ba châu lục: Á, Phi, Mỹ Latinh, các nước chậm phát triển vẫn duy trì chế độ bản vị bạc.
Ở Việt Nam, mãi đến năm 1931, Ngân hàng Đông Dương mới chuyển sang chế độ bản vị vàng nhưng là chế độ bản vị vàng cắt xén.
2.3.2. Đặc điểm:
Chế độ bản vị vàng cổ điển có 3 đặc điểm cơ bản sau đây:
Mọi người được tự do đúc tiền vàng theo tiêu chuẩn giá cả do Nhà nước quy định.
Tiền giấy được tự do đổi lấy vàng theo giá trị ghi trên giấy, từ đó hình thành tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia. Ví dụ, trước chiến tranh thế giới 1USD có thể đổi được gần 1/20 lượng vàng, 1GBPcó thể đổi được gần 1/4 lượng vàng, nên tỷ giá hối đoái giữa GBP và USD là gần 5 đôla.
Vàng được tự do luân chuyển giữa các nước, nghĩa là vàng vừa là tiền tệ quốc gia, vừa là tiền tệ quốc tế.
Với những đặc trưng trên, chế độ bản vị vàng cổ điển có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa:
Thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất TBCN
Góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tín dụng TBCN
Tạo điều kiện phát triển ngoại thương
Tuy nhiên, chế độ bản vị vàng cũng có những hạn chế của nó như:
Chính phủ các nước không còn kiểm soát được chính sách tiền tệ của mình vì lượng cung ứng tiền tệ của nước đó được xác định bởi các luồng vàng được di chuyển giữa các nước.
Chính sách tiền tệ trên toàn thế giới bị chi phối rất lớn bởi việc sản xuất vàng và việc phát hiện các mỏ vàng. Khi lượng vàng đủ cho lưu thông thì nền kinh tế phát triển tốt, không có lạm phát. Nhưng nếu lượng vàng cung ứng không ăn nhịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ làm giá cả hàng hóa sụt giảm, ngược lại, nếu lượng cung ứng tiền vàng quá lớn sẽ làm giá cả hàng hóa tăng lên.
2.3.3. Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển:
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển chính là những hạn chế trong chính bản thân nó. Từ đầu thế kỉ XX, để chuẩn bị chiến tranh và cả tái thiết sau chiến tranh, họ mua quá nhiều hàng hóa, vũ khí đến mức không còn đủ vàng để trả và phải phát hành tiền giấy nhiều hơn là giới hạn được bảo đảm bằng vàng, đặt cược vào kết cục chiến tranh và thu bồi thường chiến tranh như nước Đức đã làm trong Chiến tranh Pháp-Phổ 1870. Đầu tiên, chính phủ các nước lớn ra sức tích trữ vàng, đình chỉ đổi tiền ngân hàng lấy vàng, đình chỉ xuất khẩu vàng, thực hiện chế độ bảo hộ mậu dịch... Chẳng hạn như Ngân hàng Anh không đổi tiền ra vàng kể từ năm 1914. Cho đến cuối Thế chiến, nước Anh ban hành hàng loạt các quy định sử dụng “tiền luật định” như nộp thuế, trả trợ cấp xã hội, thu chi chính phủ Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách ấy không như mong muốn vì các chính phủ phải chi tiêu quá nhiều. Lượng tiền mặt in ra quá nhiều làm xuất hiện lạm phát với quy mô khủng khiếp, như siêu lạm phát ở Đức với tỷ lệ lạm phát 1000% và sau 2 năm giá cả hàng hóa tăng 30 tỷ lần. Bên cạnh đó, luồng vàng di chuyển giữa các nước không đồng đều, 2/3 lượng vàng trên thế giới tập trung vào 5 nước lớn là Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, còn dự vàng các nước khác sụt giảm nghiêm trọng làm mất khả năng chuyển tiền giấy ra vàng. Chế độ bản vị vàng cổ điển sụp đổ, sau hơn 40 năm đem lại sự thịnh vượng cho các nước.
2.4. Chế độ bản vị vàng mới:
Cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển, lưu thông tiền tệ giữa các nước gặp nhiều khó khăn. Để có một chế độ tiền tệ ổn định, hàng loạt các cố gắng của các nước trong thập niên 1920 để quay trở lại bản vị vàng mà đi đầu là Mỹ năm 1919. Ở Anh quốc, với sự tư vấn của các nhà kinh tế học bảo thủ, đồng bảng trở lại bản vị vàng năm 1925 dưới thời Bộ trưởng Tài chính Winston Churchill dù ông làm việc này một cách miễn cưỡng. Bất kể giá vàng cao hơn và lạm phát nghiêm trọng sau Thế chiến thứ nhất chấm dứt chế độ bản vị vàng, Churchill đã trở lại bản vị vàng mức trước chiến tranh. Trong năm năm từ 1920 đến 1925, giá vàng bị hạn xuống dần tới mức trước chiến tranh, đồng nghĩa với nó là giảm phát của nền kinh tế. Tiếp theo đó là Thụy Sĩ, Pháp và các quốc gia Bắc Âu khác cũng lần lượt khôi phục lại chế độ bản vị vàng.
Tuy nhiên, hầu hết các nước lúc bấy giờ không còn đủ vàng để chế độ bản vị vàng theo kiểu cổ điển mà phải thực hiện chế độ bản vị vàng mới, không trọn vẹn hay còn gọi là chế độ bản vị vàng bị cắt xén. Chế độ bản vị vàng mới bao gồm chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị hối đoái vàng.
Những nước có dự trữ vàng lớn có khả năng chuyển đổi trực tiếp tiền lấy vàng thì thực hiện chế độ bản vị vàng thoi như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga điển hình là Anh. Ngân hàng Anh không đúc những đồng GBP bằng vàng nặng 7,31gr nữa mà chỉ đúc những thoi vàng lớn nặng 400 ounce. Người Anh nào muốn giữ vàng phải đem 1.700 GBP đến Ngân hàng Anh để đổi.
Những nước có lượng dữ trữ vàng hạn chế thì thực hiện chế độ bản vị hối đoái vàng, tức là chuyển đổi gián tiếp lấy vàng thoi thông qua quan hệ hối đoái với đồng GBP. Các nước muốn có vàng thoi phải bán hàng cho Anh đổi lấy GBP bằng giấy hoặc GBP trong tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Anh, rồi từ đó sẽ chuyển đổi ra vàng thoi. Ngân hàng Anh trở thành trung tâm tài chính, tiền tệ, tín dụng và thanh toán quốc tế của toàn thế giới, London trở thành thị trường vàng và ngoại hối lớn nhất thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm cho hàng ngàn ngân hàng bị phá sản và hàng loạt ngân hàng rơi vào thế khủng hoảng, dẫn tới tâm lý lo sợ của công chúng, làn sóng đổi tiền giấy lấy vàng dâng lên ào ạt khiến các ngân hàng không còn đủ vàng để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi. Những nước giữ nhiều GBP (đứng đầu là Pháp) đã dùng GBP để săn vàng của Anh làm cho dự trữ vàng của Anh cạn dần. Đến ngày 21/09/1931, Ngân hàng Anh phải đình chỉ đổi tiền giấy lấy vàng, tuyên bố chấm dứt chế độ bản vị vàng thoi. Không săn được vàng của Anh, các nước chuyển sang săn vàng của Mỹ. Chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ mất luôn 20% dự trữ vàng, Mỹ phải tuyên bố chấm dứt chế độ bản vị vàng vào năm 1933. Và các quốc gia khác cũng lần lượt buộc phải từ bỏ nó trong thời gian Đại khủng hoảng như ở Thụy Điển năm 1929, ở Bỉ vào tháng 3/1935, ở Pháp, Hà Lan, Thụy Sĩ vào tháng 10/1936
Ngay từ khi ra đời, chế độ bản vị vàng mới đã bộc lộ tính chất không ổn định nên khi cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 bùng nổ đã thật sự phá sập hệ thống tiền tệ dựa trên bản vị vàng thoi và bản vị hối đoái vàng. Đến đây, chế độ bản vị vàng mới hoàn toàn sụp đổ dưới mọi hình thức.
2.5. So sánh chế độ bản vị vàng cổ điển và chế độ bản vị vàng mới:
Chế độ bản vị vàng cổ điển là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi thành vàng theo một định nghĩa chính thức. Ví dụ, vào năm 1930, 1USD = 1,504 gr vàng, 1FRF = 0,065gr vàng. Lượng tiền giấy phát hành luôn được đảm bảo bằng lượng vàng dự trữ. Trong chế độ tiền tệ này, mọi người được tự do đúc tiền, đổi tiền giấy hoặc vàng thoi lấy tiền vàng. Tiền tệ có giá trị trao đổi đúng bằng giá trị nội tại của nó. Giá trị thật sự của tiền đúng bằng giá trị ghi trên đồng tiền.
Trong chế độ bản vị vàng thoi, Nhà Nước hạn chế quyền tự do đổi tiền lấy vàng bằng cách chỉ cho chuyển đổi từ một khối lượng tối thiểu khá lớn, dưới hình thức vàng thoi. Tức là, vào thời kì này không còn tiền dưới hình thức những đồng tiền vàng mà chỉ có hình thức vàng thoi, tiền vàng không còn là phương tiện thanh toán chủ yếu trên thị trường nữa.
Còn chế độ bản vị hối đoái vàng là chế độ định nghĩa đơn vị tiền tệ quốc gia theo đơn vị tiền tệ của nước khác. Đơn vị tiền tệ của nước được chọn để định nghĩa lại theo chế độ kim bản vị. Ví dụ, Ấn Độ đã định nghĩa đồng Roupie theo đồng bảng Anh, đồng bảng Anh lại được định nghĩa theo bản vị vàng.
3. Chế độ ngoại tệ bản vị:
3.1. Hoàn cảnh:
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cùng với việc các quốc gia lần lượt bãi bỏ chế độ tiền giấy khả hoán, chuyển sang chế độ tiền giấy bất khả hoán gây nhiều khó khăn trong thương mại quốc tế.
Để hổ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế, thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế quốc tế đòi hỏi phải thiết lập chế độ tiền tệ, với một thước đo, tiêu chuẩn chung giữa các quốc gia.
3.2. Khái niệm: là chế độ tiền tệ trong đó một nước quy định đơn vị tiền tệ của mình theo một ngoại tệ nhất định (thường là ngoại tệ mạnh). Có nhiều loại chế độ ngoại tệ bản vị, tồn tại đan xen nhau.
Chế độ ngoại tệ bản vị bao gồm những hình thức chủ yếu sau:
3.2.1. Chế độ tiền tệ theo khu vực: giai đoạn này, các nước đều phá giá tiền tệ của họ để canh tranh xuất khẩu và giành giật thị trường tiêu thụ hàng hoá. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh, các nước đã tự tập họp thành các khu vực tiền tệ. mỗi khu vực do một nuớc lớn cầm đầu đối địch với các nước khác.
Khu vực tiền tệ
Các quốc gia sử dụng
Khu vực bảng Anh
Anh và các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, các nước có mối quan hệ mật thiết với Anh về thương mại, tài chính như: Ai Cập, I Rắc, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Đan Mạch
Khu vực Đô-la Mỹ
Do Mỹ cầm đầu bao gồm: Mỹ, Canada và các nước ở Châu Mỹ LaTinh
Khu vực Frăng Pháp
Do Pháp cầm đầu bao gồm Pháp và các nước thuộc địa của Pháp ở Châu Âu và Châu Phi
Khu vực đồng Rouble
Liên Xô (cũ) và các nước theo Chủ Nghĩa Xã Hội
+ Đặc điểm:
- Phần lớn dự trữ ngoại hối của các nước thành viên được tập trung vào ngân hàng của các nước cầm đầu.
- Quan hệ tiền tệ giữa tiền tệ của các nước cầm đầu khu vực tiền tệ với tiền tệ của các nước thành viên được thực hiện theo một tỷ giá hối đoái nhất định.
- Phần lớn thanh toán quốc tế của các nước trong khu vực tiền tệ được thực hiện bằng tiền tệ của nước cầm đầu khu vực tiền tệ.
* Chế độ tiền tệ theo khu vực hình thành và phát triển từ năm 1933 và kết thúc vào năm 1939 do cuộc đại chiến tranh thế giới thứ II làm cho tình hình kinh tế chính trị và tài chính của các nước ngày càng xấu đi, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao đã làm tan rã khối thuộc địa, do đó kéo theo sự sụp đổ của các khu vực tiền tệ.
3.2.2. Chế độ bản vị Đô-la Mỹ (1945-1973):
+ Hoàn cảnh ra đời: trong khi cả thế giới bị đổ nát, kiệt quệ và thiếu thốn do cuộc đại chiến II thì Mỹ lại là nước duy nhất không bị chiến tranh tàn phá, mà ngược lại đã trở nên giàu có vượt bậc. Tháng 7/1944, Mỹ triệu tập hội nghị tài chính tiền tệ quốc tế ở Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước trên thế giới. Mục đích của hội nghị: triển khai hệ thống tiền tệ quốc tế mới, thúc đẩy thương mại quốc tế và sự phồn vinh sau chiến tranh. Hội nghị đã đi tới thoả thuận và ký kết một hiệp định mang tên hệ thống Bretton Woods với 3 nội dung chủ yếu:
- Các nước đồng ý và cam kết giữ tỷ giá trao đổi giữa đồng tiền nước mình với đồng tiền nước khác ổn định. Duy trì sự biến động của tỷ giá trong phạm vi biên độ biến động cho phép 1% so với tỷ giá chính thức.
- Thành lập quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
- Tỷ giá trao đổi cố định giữa các đồng tiền quốc gia được tính thông qua bản vị vàng thế giới được chuẩn hoá và cố định.
*Theo hiệp định Bretton Woods:
- Đô-la Mỹ được công nhận là phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế. Với tiêu chuẩn giá cả là 0,888671 gram vàng. Với giá vàng là 35 USD = 1 Ounce vàng.
- Mỹ và các hội viên IMF phải đảm bảo đổi tiền nước họ ra vàng cho các Ngân Hàng trung ương nước ngoài nếu là tiền trong quan hệ ngoại thương.
- Tư nhân không được đổi Đô-la ra vàng. Nếu giá vàng lên quá 35,2 USD/Ounce vàng thì Mỹ sẽ đưa vàng ra bán với giá 35 USD để ổn định giá vàng và ngược lại.
Với những nội dung thỏa thuận nêu trên, cho thấy hệ thống Bretton Woods thực chất là chế độ bản vị hối đoái vàng dựa trên Đô-la Mỹ, được gọi là chế độ bản vị Đô-la Mỹ. các quốc gia theo hệ thống này sẽ có được nguồn dự trữ của họ dưới dạng tiền tệ của một nước duy nhất (Đô-la Mỹ), và chỉ có nước đó mới thực sự theo hệ thống bản vị vàng.
+ Ưu điểm: tạo được cho các nước thành viên những lợi thế như
- Có thể tiết kiệm được vàng.
- Tiết kiệm các chi phí có liên quan tới việc chuyển dịch vàng trong quá trình thanh toán quốc tế.
- Dự trữ ngoại tệ có thể đem lại những khoản thu nhập nhất định trong khi dự trữ vàng không được hưởng thu nhập.
+Nhược điểm: Chế độ bản vị Đô-la đã tạo cho Mỹ độc quyền phát hành giấy bạc. Dựa vào đặc quyền này, Mỹ đã lợi dụng phát hành Đô-la giấy để chi tiêu cho quyền lợi riêng của bản thân và để chạy đua vũ trang. Bằng tiền giấy, Mỹ đã đầu tư ra nước ngoài hàng trăm tỷ Đô-la, do đó nạn lạm phát Đô-la giấy ngày càng trầm trọng, dẫn tới bùng nổ những cơn sốt vàng làm cho dự trữ vàng của Mỹ bị giảm sút ở mức nghiêm trọng. Dẫn tới một loạt các hệ quả nghiêm trọng.
Đến tháng 3/1968: Mỹ phải tuyên bố chế độ hai giá vàng. Tháng 8/1971: Mỹ tuyên bố đình chỉ đổi Đô-la ra vàng cho mọi đối tượng và phá giá Đô-la 7,89%. Tháng 2/1972: phá giá Đô-la 10%. Tháng 3/1972: thả nổi Đô-la, thả nổi giá vàng. Đến đây, sau hơn 25 năm tồn tại và phát triển, chế độ bản vị Đô-la đã thực sự sụp đổ hoàn toàn.
3.2.3. Chế độ tiền tệ tập thể:
a) SDR (Special Drawing Right):
Tháng 1/1970, IMF đã phát hành SDR (được gọi là “Quyền rút vốn đặc biệt” ) nhằm thiết lập chế độ tiền tệ quốc tế lấy đồng tiền tập thể thay cho vàng. Với SDR cho phép quốc gia sở hữu có được quyền ưu tiên trao đổi trong nội bộ IMF để lấy ngoại tệ mạnh.
Thực chất của SDR là đồng tiền ghi sổ, đại biểu của một “rổ tiền tệ” gồm các đồng tiền mạnh. SDR được phân bổ cho các nước thành viên của IMF dùng để trao đổi giao dịch với nhau hoặc với IMF. Các nước có thể sử dụng SDR cũng như vàng và các ngoại tệ trong quan hệ thanh toán quốc tế.
b) ECU (European Currency Unit), EURO
Năm 1957, Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (European Economic Community- EEC) được thành lập theo hiệp ước Rome. Đến năm 1979, thiết lập Hệ Thống Tiền Tệ Châu Âu - EMS. Vào những năm 1986-1987, EEC bắt đầu phát hành trái phiếu, dưới hình thức một loại tiền của Châu Âu, được gọi là ECU
ECU là đồng tiền ghi sổ, được thiết lập theo tỷ trọng các đồng tiền thành viên của liên minh Châu Âu- EU. Cơ sở xác định tỷ trọng cho mỗi đồng tiền thành viên dựa trên GNP và thị phần về mậu dịch của mỗi nước trong nội bộ EU.
Tháng 12/1995, Hội đồng châu âu nhất trí tên của đơn vị tiền tệ chung của liên minh là EURO. Tháng 1/1999, Liên Minh Tiền Tệ Châu Âu bắt đầu đi vào hoạt động cùng với việc thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất trong khu vực. Đồng EURO được chính thức lưu hànhtrong nội bộ EU dưới dạng tiền ghi sổ (bút tệ). 1/7/2002, phát hành tiền giấy EURO vào lưu thông dần dần thay thế các đồng tiền quốc gia. Các nước sử dụng đồng EURO hy vọng rằng đây sẽ là đồng tiền quốc tế mạnh, là đối thủ cạnh tranh của Đô-la Mỹ, và sẽ được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch tài chính quốc tế.
III. Chế độ tiền tệ ở Việt Nam:
Thời kì Bắc thuộc:
Căn cứ vào những đồng tiền thu được khi tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trung quốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, đồng Khai nguyên thông bảo của nhà Đường. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành. Ngoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền kẽm:
1.1. Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo.
1.2. Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo.
1.3. Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao. Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1 quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy nhưng nó chỉ tồn tại 4 năm từ 1400 đến 1404, đến 1405 lại trở về sử dụng bằng chất liệu tiền đồng và tiền kẽm.
1.4. Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong nước không còn, ông cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng. Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng không sử dụng nữa.
1.5. Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Để trao đổi mua bán những tài sản lớn, phải sử dụng khối lượng tiền đồng, tiền kẽm không tiện, năm Gia Long thứ 11 (1812) bắt đầu đúc bạc đĩnh 1 lạng (1 lạng bạc = 2 quan 8 tiền), đĩnh bạc 10 lạng ( trên có khắc niên hiệu, năm đúc, nơi đúc) và các đĩnh vàng, sử dụng song song với tiền đồng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.
2. Thời kì Pháp thuộc:
Từ 1858 đến 1875 khi chưa có Ngân hàng Đông Dương (NHĐD) thì trên đất Việt sử dụng đồng thời nhiều loại tiền khác nhau: Tiền Frăng của Pháp, tiền Mêxicô, tiền “Liên hiệp Pháp”, tiền Trung Quốc... Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn).
Từ 1875 khi NHĐD thành lập thì dân ta sử dụng tiền Đông Dương mang bản vị bạc. Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc,1 đồng bạc Đông Dương = 24,4935 gram bạc nguyên chất, năm 1895, con số này giảm xuống còn 24,3. Giấy bạc Đông Dương đã được lưu hành đầu tiên ở Việt Nam, từ Nam kỳ lục tỉnh. Sau khi chiếm xong Nam kỳ lục tỉnh, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh ra ngày 5 tháng 7 năm 1881 bắt buộc phải dùng đơn vị tiền tệ là đồng bạc Đông Dương trong việc lập ngân sách, kể từ niên khóa 1882, mọi việc thu chi đều phải dùng đơn vị tiền tệ do Ngân hàng Đông Dương phát hành.
Ngày 25 tháng 8 năm 1883, Pháp buộc triều đình Huế của Việt Nam phải cho lưu hành khắp Trung kỳ và Bắc kỳ loại tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Trong phạm vi cả nước, 3 loại tiền cùng tồn tại và lưu hành: Tiền Việt Nam (tiền, quan tiền - tiền đồng, tiền kẽm), đồng bạc Mexico (tức đồng bạc hoa xòe), và giấy bạc Đông Dương. Năm 1885, tiền đồng trị giá 1 xu, tiền bằng bạc trị giá 10, 20, 50 xu, và 1 đồng được phát hành. Tiếp theo là các đồng trinh bằng đồng đục lỗ phát hành năm 1887. Năm 1892, Ngân hàng Đông Dương phát hành các tờ 1 đồng, năm sau là các tờ tiền 5, 20, và 100 đồng. Năm 1895, các đồng xu bằng bạc bị giảm khối lượng, do giảm tỉ lệ tiền so với bạc. Từ năm 1896, đồng 1 xu cũng có lỗ. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Giữa các năm 1920 và 1922, các tờ bạc 10, 20, và 50 xu cũng được phát hành. Năm 1923, phát hành đồng 5 xu bằng hợp kim cupro-nickel đục lỗ, tiếp theo là đồng nửa xu đục lỗ bằng đồng vào năm 1935. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng. Năm 1939, tờ 500 đồng mới được phát hành. Cùng năm, Chính phủ toàn quyền Đông Dương (Gouvernement General de l'Indochine) phát hành các tờ bạc 10, 20, và 50 xu. Năm 1939, đồng nửa xu bằng kẽm và các loại đồng 10 và 20 xu bằng nickel và cupro-nickel được phát hành. Các đồng xu Etat Française được phát hành trong thời gian 1942 và 1944 với các mệnh giá ¼, 1 và 5 xu. Cả 3 loại này đều có lỗ, đồng ¼ xu bằng kẽm, hai đồng kia bằng nhôm. Năm 1945, các đồng 10 và 20 xu bằng nhôm được phát hành, theo sau là các đồng 5 xu và 1 đồng bằng nhôm không đục lỗ. Những đồng tiền kim loại cuối cùng được phát hành dưới tên "Liên bang Đông Dương" (Indochinese Federation). Trong thời kì Nhật chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, tỷ giá với đồng yen Nhật là 0,976 đồng = 1 yen. Sau chiến tranh, tỷ giá với đồng franc Pháp lại được khôi phục. Tuy nhiên, tháng 12 năm 1945, để tránh sự mất giá của đồng franc, tỷ giá hối đoái đã bị thay đổi thành 1 đồng = 17 franc. Từ 1936 đến 1954 chế độ bản vị vàng bị sụp đổ và đồng Đông Dương neo giá trị vào đồng Franc của Pháp - có thể gọi là bản vị Franc Pháp.
Tiền Đông Dương có các đơn vị đếm là piastre, cent và sapèque. Một piastre bằng 100 cent. Một cent lại bằng 5 sapèque. Mặt trước của các tờ tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi bằng tiếng Pháp. Mặt sau ghi bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ, chữ Lào và chữ Khmer, song cũng có lúc ghi chỉ chữ Pháp. Piastre phiên sang chữ quốc ngữ thành đồng, hoặc đồng bạc hay thậm chí ngắn gọn là bạc (khi tiền Đông Dương còn theo chế độ bản vị bạc cho đến trước tháng 5/1930), hoặc đồng vàng (khi tiền Đông Dương theo chế độ bản vị vàng từ tháng 5/1930). Cent khi phiên sang chữ quốc ngữ thành xu. Người Việt Nam còn có thói quen gọi các tiền mệnh giá hàng chục xu trở lên là cắc. Về sau, người Pháp viết chính thức bằng chữ quốc ngữ là hào.
3. Thời kỳ từ CMT8/1945 đến nay
3.1.Thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp 1945 - 1954:
Sau Cách mạng Tháng Tám-1945, Nhà nước Việt Nam non trẻ ra đời. Ngay sau những ngày trứng nước đó, đất nước gặp vô vàn khó khăn, ngân khố quốc gia trống rỗng. Xây dựng một nền tài chính vững mạnh là yêu cầu rất cấp thiết để duy trì hoạt động của một chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng của chính thể VNDCCH phải lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến và kiến quốc - Trong đó vấn đề tài chính, tiền tệ được đặc biệt quan tâm và coi đó là một vũ khí sắc bén, trực tiếp của cả 2 nhiệm vụ chiến lược nói trên. Ngày 1/12/1945, đúng 3 tháng sau ngày thành lập nước VNDCCH – Mở đầu thời đại Hồ Chí Minh ở Việt nam, đồng tiền tài chính với chất liệu nhôm đầu tiên lọai hai hào và tờ giấy bạc đầu tiên của cách mạng của ta được phát hành, còn được gọi với cái tên rất ấn tượng là: “tờ bạc Cụ Hồ” và được sử dụng song song với đồng bạc Đông Dương. Tiếp theo đó ngày 21/1/1946 ta phát hành đồng tiền nhôm loại năm hào, ngày 31/1/1946 , lần đầu tiên giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát hành. Một mặt có chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Quốc ngữ và chữ Hán), có hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một mặt có hình Nông Công binh. Các loại giấy bạc đều có ghi chữ số Á Rập, chữ Quốc Ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá. Các loại giấy bạc nầy có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chánh (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương, do đó ngoài tên gọi là giấy bạc cụ Hồ, dân gian còn gọi là bạc Tài Chánh. Ngày 13/ 8/ 1946 phát hành giấy bạc trên toàn miền bắc và sau kỳ họp Quốc hội lần thứ 2 vào tháng 11/1946, chính phủ đã cho phép Bộ Tài chính tiếp tục phát hành giấy bạc Việt nam trên phạm vi toàn quốc. Để phù hợp với chủ trương "tự cấp, tự túc, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến và địa phương tự lập", Chính phủ đã cho hình thành một chế độ tiền tệ đặc biệt: vừa tập trung, vừa phi tập trung: Trên toàn quốc, nơi nào có điều kiện (chủ yếu là vùng tự do) thì lưu hành tiền tài chính (giấy bạc Việt Nam), nơi nào thuộc vùng địch kiểm soát thì tiêu đồng thời cả tiền Đông dương, cả tiền tài chính địa phương do chính phủ trung ương uỷ quyền cho chính quyền cách mạng địa phương phát hành và gồm cả "tiền Việt Nam hoá" bằng cách đóng dấu của Uỷ ban kháng chiến địa phương lên tiền địch để lưu hành...Đây không chỉ là thời kỳ đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, quân sự với địch, mà thuật ngữ "đấu tranh tiền tệ với địch" cũng trở thành một khẩu hiệu hành động trong chỉ đạo chiến lược của Đảng lao động Việt nam suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến (từ 19/12/1946 đến chiến thắng Điện biên phủ 1954).
Khi việc phải khẩn trương in tiền để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của cả xã hội trở nên gấp rút, một nan giải đặt ra cho cách mạng là sử dụng nhà máy in tiền như thế nào, ở đâu? Trong bối cảnh khó khăn đó, chính quyền cách mạng đã nhận được một sự giúp đỡ rất to lớn từ một nhà đại tư sản yêu nước ở Hà Nội. Đó là ông Đỗ Đình Thiện, người đã dám bỏ ra cả một gia tài khổng lồ để mua lại toàn bộ nhà in Taupin (nằm ở khu Cửa Nam - Hà Nội) của một ông chủ tư sản Pháp để hiến tặng cho cách mạng. Chính nhờ nhà máy in tiền này, những tờ giấy bạc đầu tiên của nước Việt Nam độc lập nhanh chóng được phát hành vào đúng dịp Tết Bính Tuất năm 1946. Cả quân Tưởng và quân Pháp đều điên cuồng tìm mọi cách phá hoại. Bởi vậy, đến cuối năm 1946, nhà máy in tiền được chuyển lên đặt bí mật tại chính đồn điền Chi Nê của gia đình ông Đỗ Đình Thiện để tiếp tục hoạt động. Nhà máy in tiền đầu tiên của cách mạng nước ta là vũ khí trên mặt trận tài chính. Ngày 21-2-1947, Bác Hồ đã đến thăm nhà máy in tiền và dặn dò anh chị em đang vận hành những cỗ máy in tiền: “Hiện nay kẻ thù của chúng ta đang tìm các cơ sở kháng chiến như nhà máy này để đánh phá. Các chú phải giữ gìn bí mật”. Quả nhiên, đúng như dự đoán của Bác, ngay ngày hôm sau, thực dân Pháp đã thả 8 quả bom xuống đồn điền Chi Nê, trong đó có 2 quả trúng nhà của ông Đỗ Đình Thiện. Trung tâm ấn loát bị trúng đạn. Kho cà phê và kho vật liệu bị cháy. Gia đình ông Thiện bị thiệt hại nặng. Nhà máy in tiền ở Chi Nê bị bắn phá. Bộ trưởng Lê Văn Hiến đã quyết định chuyển nhà máy lên Chiêm Hóa (Tuyên Quang) để tiếp tục in tiền phục vụ cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước.
Do máy móc thô sơ nên các tờ giấy bạc trông khá thủ công. Ông Đỗ Long Vân, trên 80 tuổi, hiện đang sống ở phố Nguyễn Du (Hà Nội), là con trai út của cụ Đỗ Đình Thiện còn giữ một tờ giấy bạc mệnh giá 100 đồng. Ông Vân bảo: “Tờ giấy bạc này còn được gọi là tờ bạc “con trâu xanh” vì một mặt in ảnh Bác Hồ, mặt còn lại in hình con trâu màu xanh và hai người nông dân khỏe mạnh đang làm ruộng”. Đó là những tờ giấy bạc đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và được đông đảo người dân đón nhận, sử dụng và trân trọng gọi bằng cái tên: “tiền Cụ Hồ”.
Ngày 5/6/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc mới, gọi là giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc Tài chánh, cứ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng Tài chánh. Giấy bạc ngân hàng có loại 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Điểm đặc biệt những tờ giấy bạc này là: một mặt có chữ Việt Nam dân chủ Cộng hòa (chữ Hán và chữ Quốc Ngữ) và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Công nông binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Á Rập, chữ Quốc Ngữ và chữ Hán. Các loại giấy bạc Ngân hàng in ở nước ngoài nên rất sắc sảo, tính mỹ thuật cao.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung bộ và Nam bộ phát hành tiền Cụ Hồ riêng của vùng mình. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc Cụ Hồ do trung ương phát hành, duy có điểm khác là trên giấy bạc có hai chữ ký: chủ tịch UBKC Nam bộ (Phạm Văn Bạch) đại diện Bộ trưởng Tài chánh và Giám đốc Ngân khố Nam bộ - đại diện Tổng giám đốc Ngân khố Quốc gia. Các tỉnh Hà Tiên, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bến Tre, Thủ Biên (tức Biên Hòa Thủ Dầu Một), Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh) được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế....
Các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà (Long Xuyên Châu Đốc Hà Tiên); các tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long Trà Vinh) và Bến Tre; tỉnh Mỹ Tho có loại giấy bạc Cụ Hồ chỉ lưu hành trong tỉnh. Giấy bạc Cụ Hồ lưu hành trong tỉnh Mỹ Tho phát hành năm 1948 chỉ có mệnh giá 5 đồng và 10 đồng (Riêng loại 10 đồng có thể lưu hành trong tỉnh Long Châu Sa). Các loại giấy bạc này đều có chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Quốc Ngữ và chữ Hán), có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh Công nông binh, ảnh trận Giồng Dứa. Trên tờ giấy bạc còn có chữ số Á Rập, chữ Quốc Ngữ, chữ Hán chỉ mệnh giá. Đặc biệt là hai chữ ký: chủ tịch UBKC hành chánh, đại diện Bộ Tài chánh và Giám đốc Ngân khố Nam bộ đại diện Tổng giám đốc Ngân khố quốc gia.
Thời đó, ở Nam bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau. Thực dân Pháp khi gặp tiền Cụ Hồ thì tiêu huỷ, do đó người dân phải cất giấu rất kỹ. Đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, vì loại giấy bạc có hình Bác Hồ nên ít ai dám để trong nhà. Có gia đình phải đem giấu kỹ trong những bức tường gạch, lâu ngày nên bị huỷ hoại. Vì vậy loại tiền nầy hiện nay trở nên hiếm đối với những người sưu tập tiền.
Bên cạnh đó, từ sau ngày toàn quốc kháng chiến, mặc dù Chính phủ trung ương có phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng do phương tiên giao thông còn khó khăn, các loại tiền nầy không lưu hành đến Nam bộ. Cho nên tại miền Nam, sau Cách mạng tháng Tám 1945, đồng bào vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền đồng của chế độ Thực dân phát hành. Được trên cho phép, các địa phương cấp tỉnh, cấp huyện hoặc xã có thể sử dụng con dấu Uỷ ban hành chánh kháng chiến và các con dấu khẩu hiệu: Đả đảo thực dân Pháp, Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minhhhh đóng lên những tờ tiền giấy của thực dân Pháp để lưu hành như tiền Việt Minh. Tất nhiên các loại tiền nầy chỉ có giá trị sử dụng ở vùng do cách mạng kiểm soát.
3.2. Thời kỳ chống Đé quốc Mỹ 1954-1975:
Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ năm 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa) - Chế độ tiền của chính quyền Ngụy Sài Gòn. Dưới sự đô hộ của Đế Quốc Mỹ, hầu như cả miền Nam là một thị trường tiêu thụ và cung ứng nguồn tài nguyên, sức lao động rẻ mạt - Bức tranh kinh tế thời chiến của chính quyền Sài gòn là một nền kinh tế phồn vinh giả tạo: Thủ công, lắp ráp và tiêu thụ. Chính quyền Ngụy có luật nghiêm cấm lưu hành đồng tiền miền Bắc và đồng tiền Đông Dương ở miền Nam. Chúng thành lập Ngân hàng năm 1954 và cũng lấy tên là NHQG Việt nam, cho phép tiêu song song đồng USD và đồng tiền Quốc gia với tỷ giá 35đồng Quốc gia ăn 1 đồng USD. Tỷ giá này ổn định từ năm 1954 đến năm 1960. Từ năm 1960 đến 1965 đồng tiền Ngụy mất giá dần dần và đến năm 1965 tỷ giá này còn 118đ/USD. Từ năm 1966 đến 1968 sức mua của đồng tiền Ngụy tiếp tục mất giá mạnh xuống còn 250đ/ USD và đến năm 1973 thì tỷ giá này đã là 500đ/ USD - giảm 14,3 lần so với thời kỳ những năm 1954 - 1960.
Ở miền Bắc, tiền đồng đã trở thành tiền tệ mới của quốc gia mới được công nhận, với tỷ giá với tiền piastre đang lưu hành đồng Việt Nam Cộng hòa là 32 đồng Bắc Việt Nam = 1 piastre hay đồng Nam Việt Nam. Năm 1956, đồng đã được neo vào Nguyên Nhân dân tệ Trung Quốc với tỷ giá 1,47 đồng = 1 nguyên.Vào ngày 28 tháng 2 năm 1959, một đơn vị đồng khác đã thay thế loại thứ hai với tỷ lệ 1 đồng năm 1959 = 1000 đồng năm 1951. Một tỷ giá hối đoái với tiền rúp Xô Viết đã được thiết lập năm 1961, với 3,27 đồng = 1 rúp.
Bên cạnh đó, vào thời kỳ 1966 -1973 - thời kỳ cả nước có chiến tranh, Nhà nước đã cho phép Quân đội ở tuyến Trường Sơn sử dụng đồng “tiền Trường sơn” hay còn gọi là "phiếu bách hóa" - Một hiện tượng tiền tệ kỳ diệu đã giúp quân đội có một cơ chế "phân phối" rất linh hoạt: Thay vì bộ đội hậu cần phải chuyển nhu yếu phẩm đến từng đơn vị đóng quân dọc Trường sơn thì chỉ cần chuyển hàng đến từng binh trạm cố định. Việc phân phối sau đó đã trở nên vô cùng thuận tiện thông qua hình thức "mua hàng" và thanh toán bằng tiền Trường sơn theo tổng định lượng vật chất đã được giá trị hoá - Tính vô danh của tiền trong quan hệ phân phối đã giảm đi một chi phí khổng lồ về thời gian, chứng từ, tem phiếu, sổ theo dõi của cả hai bên nhập hàng và nhận hàng, đặc biệt là giảm biên chế hậu cần, giảm chi phí kho lán ở từng đơn vị và do đó cũng hạn chế thương vong xương máu trên đường đi phân phối nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Còn người “có tiền” thì tuỳ nghi chủ động đến các binh trạm để “ mua ” hàng cho đơn vị mình đồng thời lại tạo ra được sự đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau giữa những đơn vị và cá nhân, giữa Quân đội với Thanh niên xung phong trên toàn tuyến Trường sơn - Thay vì việc ủng hộ, tương trợ lẫn nhau bằng hiện vật vốn rất khó khăn và bất tiện thì những người lính dễ dàng ủng hộ nhau dưới hình thức giá trị của định lượng ...
3.3. Sau 30 tháng 4 năm 1975:
Trong 3 năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, để có một thời gian đệm cần thiết và quan trọng, hai miền vẫn dùng hai đồng tiền khác nhau: Miền Bắc vẫn là tiền NHNN VN, miền Nam tiếp tục dùng tiền của chính quyền cũ. Ngày 3/5/1975 chính quyền cách mạng tiếp quản NHQG của Nguỵ quyền Sài gòn và vẫn sử dụng đồng tiền của chế độ cũ trong lưu thông để không gây rối loạn trong lưu thông tiền tệ ở miền Nam những ngày đầu giải phóng. Ngày 6/6/1975 - 5 tuần sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam đã ra Nghị định số 04/PCT - 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Đến ngày 22/ 9/1975, dưới sự lãnh đạo của Bộ chính trị và TW Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà miền nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên qui mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là "Tiền Ngân hàng Việt Nam" (còn gọi là tiền giải phóng) vào lưu thông với tỷ lệ 1 đồng NHVN ăn 500đ tiền của chế độ cũ từ Quảng Nam-Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên-Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng và tương đương với 1 USD. Ngày 2/5/ 1978 - Đúng dịp kỷ niệm 3 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam công bố đổi tiền lần thứ hai trên phạm vi toàn quốc, thống nhất tiền tệ cả nước với tỷ lệ 1đ tiền NHNN cũ ở miền Bắc hoặc 0,8 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam ăn 1đ NHNN mới.
Sau bao biến cố của lịch sử, đồng tiền mới được thống nhất trên phạm vi cả nước. Lẽ ra đây sẽ là thời điểm đầu tiên của lịch sử phát triển tiền tệ của đất nước, nhưng đáng tiếc là vì nhiều nguyên nhân, đồng tiền lại rơi vào những thăng trầm mới. Ngay sau đó do nền kinh tế nói chung còn ở trình độ quá nghèo nàn, lạc hậu lại do những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế - nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc trong cả nước nên lạm phát đã liên tục gia tăng – Từ chỗ giá trị đồng tiền mới sát với sức mua của đồng Dola Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị “doãng ra”. Đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, đến trước ngày đổi tiền tháng 9/1985 tỷ giá giữa đồng tiền NHNN VN so với đồng USD đã là: 150đ/USD. Do lạm phát quá cao, Chính phủ phải thực hiện đổi tiền thứ ba vào tháng 9/1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới.
Vào năm 2003 ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành tiền polymer mệnh giá 500.000, 200.000, 100.000, 50.000, 20.000 tiền xu: 5.000, 2000, 1000, 500, 200.
--- Hết ---
DANH SÁCH NHÓM:
1/ Nguyễn Thủy Nguyên
2/ Huỳnh Đông Trung
3/ Lê Thị Thanh Hà
4/ Nguyễn Thị Tâm
5/ Thái Thị Tuyết Mai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8001.doc