Tiếp cận địa lý học trong nghiên cứu môi
trường là đánh giá tổng hợp các thể tổng hợp tự
nhiên hoặc các CQST nhằm xác định được mối
quan hệ và sự biến đổi của các thành phần tự
nhiên, các tính chất môi trường của lãnh thổ với
hoạt động của con người trong quá trình khai thác
sử dụng tài nguyên thiên nhiên của lãnh thổ đó.
Đánh giá các cảnh quan sinh thái nhằm mục đích
xác định các chức năng môi trường mà mỗi cảnh
quan sinh thái có thể đảm nhiệm làm căn cứ để
thành lập bản đồ phân vùng CNMT.
Bản đồ phân vùng CNMT lãnh thổ tỉnh Nghệ
An tỷ lệ 1:100.000 được thành lập từ bản đồ CQST
đã phân chia lãnh thổ Nghệ An thành 5 vùng với
14 tiểu vùng chức năng môi trường. Từ kết quả
phân vùng đã đề xuất định hướng sử dụng các đơn
vị CNMT để bố trí các hoạt động phát triển theo
quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Nghệ
An đến năm 2020. Các hoạt động phát triển được
đề xuất bố trí trên lãnh thổ tỉnh Nghệ An đã thể
hiện được sự hài hòa của hệ thống các chức năng
tự nhiên - môi trường - kinh tế xã hội của từng đơn
vị cấp loại cảnh quan sinh thái. Điều này khẳng
định tiếp cận cảnh quan sinh thái để xác định các
chức năng môi trường của một lãnh thổ là cách tiếp
cận đúng đắn, phù hợp trong quá trình nghiên cứu
lập quy hoạch bảo vệ môi trường của lãnh thổ đó,402
đáp ứng mục đích sử dụng hợp lý điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
theo quan điểm phát triển bền vững.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận địa lý học trong nghiên cứu môi trường (lấy ví dụ lãnh thổ Nghệ An), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
395
35(4), 395-402 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
TIẾP CẬN ĐỊA LÝ HỌC TRONG NGHIÊN CỨU
MÔI TRƯỜNG (LẤY VÍ DỤ LÃNH THỔ NGHỆ AN)
HOÀNG LƯU THU THỦY
E-mail: thuy_hoangluu@yahoo.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 10 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Các cuộc khủng hoảng sinh thái đã xảy ra ở
nhiều vùng trên Trái Đất từ hàng trăm năm nay
như một sự cảnh tỉnh rằng: con người phải nghĩ
cách khai thác, sử dụng thiên nhiên theo những khả
năng thực thụ của nó và để có một cuộc sống ổn
định, con người phải tự tìm cách bảo vệ môi trường
sống của chính mình. Từ thực tế đó, đã xuất hiện
một khái niệm tổng hợp là tự nhiên - con người -
môi trường. Đây là một mối quan hệ hữu cơ vô
cùng phức tạp, là một sự tác động qua lại hết sức
gắn bó với nhau và con người trở thành nhân tố
quyết định cho sự tồn tại của mối quan hệ này theo
chiều hướng tích cực.
Quan niệm từ lâu đã trở thành phổ biến là con
người coi môi trường là nơi ở, sinh hoạt, là nguồn
cung cấp mọi thứ tài nguyên, nhiên liệu, vật chất
vô cơ và hữu cơ cho cuộc sống, đồng thời nó cũng
là địa bàn cho mọi hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó,
nhận thức quan trọng nhất của con người có được
là môi trường có các ngưỡng chịu tải nhất định
dưới tác động tự nhiên và nhân tác. Các tác động tự
nhiên có thể vượt qua giới hạn chịu đựng của môi
trường và rất khó kiểm soát, nhưng những tác động
nhân tác thì có thể kiểm soát được. Các yếu tố sinh
ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội làm
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường
sống của con người. Đó là sự cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, sự suy
thoái đất, nguồn nước, ô nhiễm môi trường do
chất thải.
Lý thuyết địa lý đã xác định rằng các yếu tố tự
nhiên như địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ
nhưỡng, thực vật, đã tạo nên hệ thống các đới,
các vùng địa lý khác nhau trên bề mặt Trái Đất, tạo
ra các dạng tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho
con người khai thác sử dụng. Đối tượng nghiên
cứu của khoa học địa lý là các địa tổng thể hay còn
gọi là các thể tổng hợp tự nhiên được tạo thành bởi
các quy luật phân hóa của các yếu tố tự nhiên
mang tính động lực thành tạo trong quá trình trao
đổi vật chất và năng lượng. Các thể tổng hợp tự
nhiên chứa đựng những chức năng riêng, tạo nên
một hệ thống chức năng tổng hợp có mối quan hệ
tương đối chặt chẽ: tự nhiên - kinh tế, xã hội - môi
trường trong lãnh thổ khép kín của chúng. Nhận
diện và đánh giá một cách đầy đủ bản chất tự
nhiên, chức năng kinh tế của các thể tổng hợp tự
nhiên và xác định được các chức năng môi trường
của chúng là cách tiếp cận địa lý để nghiên cứu
những vấn đề môi trường theo hướng sử dụng hợp
lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
2. Tiếp cận địa lý học trong nghiên cứu
môi trường
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 đã đưa ra
định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có
ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật”.
Khái niệm môi trường cho đến nay được coi là
hệ thống lãnh thổ và hoạt động tự nhiên, kinh tế -
xã hội (như là các cảnh quan) cùng với các quan hệ
của các thành phần với nhau, đó là hệ thống động
lực có quá trình phát sinh, phát triển, có các thuộc
tính khác nhau như tính ổn định, tính chống chịu,
396
khả năng tự làm sạch, [1]. Các thuộc tính này
hoạt động theo các quy luật tự nhiên, nhưng dưới
tác động của con người, chúng đã và đang bị
biến đổi.
Trong Đại bách khoa toàn thư Xô Viết đã đưa
ra khái niệm “Môi trường địa lý là một bộ phận tự
nhiên của bề mặt Trái Đất bao quanh xã hội loài
người và bị thay đổi bởi con người ở các mức độ
khác nhau và xã hội ở một thời điểm nhất định có
quan hệ trực tiếp với bộ phận đó trong đời sống xã
hội và sản xuất của mình” [7]. Như vậy, môi
trường là “một khoảng không gian tập hợp tất cả
các tác động (tốt hoặc xấu) ảnh hưởng tới sự xuất
hiện, phân bố, biến đổi và hoạt động phát triển của
thế giới sinh vật và cộng đồng người” [1]. Từ quan
điểm trên có thể thấy khi nghiên cứu về môi trường
địa lý cần thiết phải nghiên cứu mối quan hệ giữa
các thành phần môi trường với con người và sinh
vật xung quanh và phải đánh giá được mức độ ảnh
hưởng của các chỉ tiêu môi trường đến môi trường
sống của con người và giới sinh vật tại đó. Từ khái
niệm về môi trường địa lý đó của Phạm Quang
Anh [1] có thể thấy “một phần của môi trường tự
nhiên” “bộ phận tự nhiên” ở đây là các thể tổng
hợp tự nhiên hoặc cảnh quan của một lãnh thổ. Các
thể tổng hợp tự nhiên tồn tại một cách khách quan
ở các vùng lãnh thổ khác nhau với các chức năng
tự nhiên được hình thành bởi tổ hợp các chức năng
của các thành phần tạo nên đơn vị lãnh thổ đó. Bên
cạnh đó, mỗi thể tổng hợp tự nhiên lại có thể đảm
nhiệm các chức năng về kinh tế - xã hội và môi
trường khác nhau trong sự thống nhất và điều hòa
giữa tất cả các chức năng mà nó có thể đảm
nhiệm [5].
Lý thuyết cảnh quan đã xác định rằng cảnh
quan là một thể tổng hợp tự nhiên phức tạp, vừa có
tính thống nhất và bất đồng nhất. Theo Phạm
Quang Anh “cảnh quan là một đơn vị lãnh thổ tập
hợp các điều kiện tự nhiên tương tác với nhau
trong quá trình vận hành đề tạo ra một cấu trúc,
một ngoại hình và một thuộc tính sinh thái. Từ đó,
có một thuộc tính về giá trị riêng - giá trị kinh tế,
giá trị môi trường sinh thái và tính bền vững” [1].
Trong nhiều thập kỷ gần đây đã nảy sinh chiều
hướng nghiên cứu các chức năng sinh thái của các
cảnh quan nhằm giải quyết các vấn đề sinh thái của
lãnh thổ môi trường sống trên các cảnh quan khác
nhau. Lý thuyết về cảnh quan sinh thái (CQST)
theo nhiều nhà địa lý học là lý thuyết về lãnh thổ
môi trường sống của con người và mọi thể sinh
vật. Con người sống trên các cảnh quan (các lãnh
thổ tự nhiên) khác nhau cũng có nghĩa là sống
trong các hệ sinh thái khác nhau. Sự tồn tại thống
nhất của các hệ sinh thái và các thành phần tự
nhiên của cảnh quan trong sinh cảnh của hệ sinh
thái được gọi là cảnh quan sinh thái. Cảnh quan
sinh thái là sinh cảnh hay là nơi sống của hệ sinh
thái và nó tồn tại như một lãnh thổ địa lý [1]. Cảnh
quan sinh thái có tính đa chức năng, bao gồm chức
năng tự nhiên của cảnh quan, chức năng sinh thái
của các hệ sinh thái và cùng với chức năng kinh tế
- xã hội là cơ sở của mọi hoạt động kinh tế - xã hội
của con người. Nguyễn Thế Thôn cho rằng: CQST
là “lãnh thổ môi trường sinh thái của con người và
là đối tượng nghiên cứu về lãnh thổ của khoa học
môi trường và là đối tượng của quy hoạch và quản
lý môi trường” [4].
Các chức năng tự nhiên của các CQST được
hình thành do tính chất và đặc điểm của các thành
phần tự nhiên và có sự phân hóa theo lãnh thổ.
CQST được coi là môi trường sinh thái nên các
thành phần tự nhiên của CQST cũng chính là các
thành phần của môi trường sinh thái và vì vậy,
cũng được phân hóa theo lãnh thổ.
Như vậy, tiếp cận địa lý học trong nghiên cứu
môi trường chính là cách tiếp cận đánh giá tổng
hợp các thể tổng hợp tự nhiên hoặc các CQST
nhằm xác định được mối quan hệ và sự biến đổi
của các thành phần tự nhiên, các tính chất môi
trường của lãnh thổ với hoạt động của con người
trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên thiên
nhiên của lãnh thổ đó.
Trong nghiên cứu địa lý, đánh giá tổng hợp các
thể tổng hợp tự nhiên là phương pháp chủ đạo
nhằm xác định các mối quan hệ và những tác động
tương hỗ giữa các yếu tố và thành phần tự nhiên
trong thể tổng hợp đó cũng như giữa các thể tổng
hợp với nhau. Đánh giá tổng hợp làm sáng tỏ mối
quan hệ trong tổ chức không gian, cấu trúc động
lực của các thể tổng hợp và sự phân hóa của các
dạng tài nguyên [2].
Cách tiếp cận đánh giá tổng hợp được các nhà
địa lý học trên thế giới từ nhiều thế kỷ nay cũng
như các nhà địa lý học Việt Nam áp dụng để thực
hiện nhiều công trình nghiên cứu đánh giá tổng
hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và
môi trường các vùng lãnh thổ nhằm đề xuất khả
năng khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế -
xã hội cụ thể.
397
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Nghiên cứu thành lập bản đồ phân vùng
chức năng môi trường lãnh thổ tỉnh Nghệ An từ
bản đồ cảnh quan sinh thái
Môi trường có nhiều chức năng khác nhau, tập
trung chủ yếu vào các chức năng sau đây:
- Là không gian sống của con người và các thể
sinh vật.
- Là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc
sống và các hoạt KT-XH của con người.
- Là nơi chứa đựng và chuyển hóa các chất thải
do con người tạo ra trong hoạt động đời sống và
KT-XH của mình.
- Là nơi điều hòa môi trường, giảm nhẹ các tác
động có hại của thiên nhiên đối với con người và
sinh vật.
- Là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con
người về môi trường sống.
Một đơn vị lãnh thổ chứa đựng các chức năng:
sản xuất vật chất, tạo môi trường sống, bảo vệ tài
nguyên, thông tin và thẩm mỹ. Chức năng môi
trường (CNMT) theo nhiều nhà nghiên cứu cũng
chính là các chức năng sinh thái của các đơn vị tự
nhiên, là một trong những chức năng của các
CQST [1, 4, 6]. Trong môi trường tự nhiên, các
thành phần môi trường sống không mang tính độc
lập, riêng biệt với nhau mà thường liên quan mật
thiết với các thành phần môi trường khác và
chuyển hóa cho nhau trong thể thống nhất của lãnh
thổ sinh thái. Như vậy, môi trường có những chức
năng và quy luật hoạt động riêng của nó nhưng lại
hoàn toàn phụ thuộc vào các chức năng tự nhiên và
sự hoạt động của con người tại một khu vực hoặc
một vùng lãnh thổ nào đó. Để phân tích được các
CNMT của một vùng lãnh thổ, về phương pháp
luận cần phải đánh giá được khả năng đáp ứng các
nhu cầu về tài nguyên cũng như khả năng tổ chức
cuộc sống của con người của các chức năng tự
nhiên. Khi khai thác các chức năng tự nhiên một
cách hợp lý thì sẽ không tạo nên xung đột với các
CNMT tại lãnh thổ đó. Nói cách khác, không tạo
nên sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái
chất lượng các điều kiện sinh thái, sự quá tải của
CNMT mà đơn vị lãnh thổ đó có khả năng
chịu được.
Như đã trình bày ở trên, lý thuyết CQST được
ứng dụng trong nghiên cứu môi trường bởi vì môi
trường có sự phân hóa theo lãnh thổ và các CQST
là lãnh thổ môi trường sống của con người và mọi
thể sinh vật. Vì vậy, đánh giá tác động và đánh giá
chất lượng môi trường cần được đánh giá trên các
CQST. Xuất phát từ quan điểm này nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng quy hoạch môi trường và
quản lý môi trường cũng là quy hoạch và quản lý
các CQST [1, 3, 4, 6].
Phân vùng CNMT là sự phân chia lãnh thổ
thành các khu vực khác nhau dựa vào đặc điểm tự
nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường và vị trí phân bố
của đơn vị lãnh thổ đó. Trong các nghiên cứu về
quy hoạch môi trường của các vùng lãnh thổ khác
nhau các nhà khoa học lấy các đơn vị CQST đã
được phân cấp làm cơ sở cho công tác phân vùng
CNMT cho quy hoạch môi trường.
Xuất phát từ quan điểm này, để phân tích các
CNMT và thành lập bản đồ phân vùng CNMT lãnh
thổ tỉnh Nghệ An chúng tôi đã nghiên cứu thành
lập bản đồ CQST cùng tỷ lệ (hình 1) [5].
Trong quá trình phân tích, làm rõ các CNMT
của các CQST cho thấy: một đơn vị CQST có thể
đảm nhận một hoặc vài CNMT và một CNMT có
thể được đảm nhiệm bởi một hoặc vài đơn vị
CQST. Ví dụ: loại CQST Đ38 (đồi cấu tạo từ phù
sa cổ) có thể đảm nhiệm nhiều chức năng môi
trường như trồng hoa màu, cây công nghiệp dài
ngày, chăn nuôi gia súc, chứa thải. Chức năng lưu
trữ và cung cấp thông tin (bảo tồn đa dạng sinh học
và nguồn gen) có thể được đảm nhiệm bởi nhiều
loại CQST (ĐB1, ĐB8, ĐB19, ĐB24,).
Từ kết quả phân tích chức năng môi trường của
các CQST đã thực hiện công tác phân vùng
CNMT. Hệ thống tiêu chí phân vùng CNMT dựa
vào dấu hiệu về đặc điểm tự nhiên và các tiêu chí
môi trường được phản ánh trong mỗi đơn vị
CQST.
Kết quả đã phân chia CNMT lãnh thổ Nghệ An
thành hai cấp:
- Cấp vùng: được phân chia dựa trên sự nhóm
gộp các loại CQST có sự tương đồng về CNMT
chủ đạo (chức năng điều chỉnh, tổ chức sản
xuất,).
- Cấp tiểu vùng: là đơn vị được phân chia trong
cấp vùng CNMT, có sự đồng nhất tương đối và sự
khác biệt về CNMT cụ thể (phòng hộ rừng đầu
nguồn, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, tổ chức đô thị, dân cư). Bên cạnh đó, khi
phân chia cấp tiểu vùng đã sử dụng một vài tiêu
chí/dấu hiệu phụ về môi trường nền, tai biến tự
nhiên, mức độ sử dụng lãnh thổ trong hoạt động
kinh tế - xã hội hiện tại, dấu hiệu về khả năng chịu
tải của các đơn vị CQST cấp loại.
398
← Hình 1. Bản đồ cảnh
quan sinh thái tỉnh
Nghệ An
Ghi chú: Ký hiệu đất:
A-đất mùn trên núi cao;
Ha-đất mùn vàng đỏ
trên đá magma axit;
Hs-đất mùn vàng đỏ
trên đá phiến sét; Fa-
đất đỏ vàng trên đá
magma axit; Fs-đất
vàng đỏ trên đá phiến
sét; Fk- đất nâu đỏ trên
đá magma bazơ và
trung tính; Fl- đất đỏ
vàng biến đổi do trồng
lua nước; Fj- đất đỏ
vàng trên đá biến chất;
Fv- đất đỏ nâu trên đá
vôi; Fp- đất nâu vàng
trên phù sa cổ; P-đất
phù sa; C- đất cát; M-
đất mặn; S- đất phèn.
399
Trên bản đồ phân vùng CNMT lãnh thổ tỉnh
Nghệ An tỷ lệ 1:100.000 đã thể hiện 5 vùng
CNMT (A, B, C, D, E) với 14 tiểu vùng, trong
đó vùng A được chia thành 2 tiểu vùng (A1,
A2); vùng B thành 2 tiều vùng (B1, B2); vùng D
thành 4 tiểu vùng (D1, D2, D3, D4) và vùng E
thành 5 tiểu vùng (E1, E2, E3, E4, E5) [5]
(hình 2).
19°
45 '
105°30'
19°
15 '
18°
45 'N
105°00'
∗
105°00' 105°30'
10 20Km
(Thu tõ tØ lÖ 1 : 100.000)
104°30'
0
104°00'
19°
15 '
104°00'E 104°30'
19°
45 '
§−êng HCM
1A
4 8
1 5
Ranh giíi vïng tiÓu vïng chøc n¨ng m«i tr−êng
Ranh giíi tØnh
7
Ranh giíi huyÖn
ThÞ x·, thÞ trÊn
Ranh giíi quèc gia
Khu c«ng nghiÖp
Ranh giíi vïng chøc n¨ng m«i tr−êng
chó dÉn
Thμnh phè
Côm c«ng nghiÖp
Υ
<<<<
)
<
%
L μ o
L μ o
T−¬ng D−¬ng T−¬ng D−¬ng T−¬ng D−¬ng T−¬ng D−¬ng
Kú S¬n Kú S¬n Kú S¬n Kú S¬n
Anh S¬n Anh S¬n Anh S¬n Anh S¬n
Con Cu«ng Con Cu«ng Con Cu«ng Con Cu«ng
T h a n h H o ¸ T T T
Quú Hîp Quú Hîp Quú Hîp Quú Hîp
QuÕ Phong QuÕ Phong QuÕ Phong QuÕ Phong
Quú Ch©u Quú Ch©u Quú Ch©u Quú Ch©u
TX. Th¸i Hoμ. i TX. Th¸i Hoμ. i . i TX. Th¸ Hoμ. i TX. Th¸ Hoμ.
NghÜa §μn NghÜa §μnÜ Ü Ngh a §μn Ngh a §μn
Thanh Ch−¬ng Thanh Ch−¬ng Thanh Ch−¬ng Thanh Ch−¬ng
NamNaNaNa
§μn§μn§μn§μn
H μ T Ü n h Ü T Ü Ü T T
Yªn Thμnh Yªn Thμnh Yªn Thμnh Yªn Thμnh
T©n Kú T©n Kú T©n Kú T©n Kú
§« L−¬ng §« L−¬ng §« L−¬ng §« L−¬ng
DiÔn Ch©u DiÔn Ch©u DiÔn Ch©u DiÔn Ch©u
V Þ n h Þ Þ Þ
B ¾ c
B é
TX. Cöa Lß. TX. Cöa Lß. . TX. Cöa Lß. TX. Cöa Lß.
Nghi léc Nghi léci i Ngh léc Ngh léc
Quúnh L−u Quúnh L−u Quúnh L−u Quúnh L−u
TP. Vinh. . i. . . i. . i.
H−ng Nguyªn H−ng Nguyªn H−ng Nguyªn H−ng Nguyªn
)
)
)
)
)
)
)
)
) )
)
)
)
)
)
)
)
)
<
Ng−êi thμnh lËp: Hoμng L−u Thu Thuû, 2010.
0 10 20Km
(Thu tõ tØ lÖ 1 : 100.000)
<
%<
<
%%%
E.5
E.4
E.3
E.2
E.1
D4
D.3
A.2
B.2
D.1
D.2
B.1
C
A.1
Hình 2. Bản đồ phân vùng chức năng môi trường lãnh thổ tỉnh Nghệ An
400
3.2. Thảo luận về khả năng sử dụng các đơn vị
chức năng môi trường cho mục đích lập quy
hoạch bảo vệ môi trường tỉnh Nghệ An
Trong tài liệu hướng dẫn về “Phương pháp luận
quy hoạch môi trường” do Cục Môi trường thuộc
Bộ Khoa học Công nghệ ban hành năm 1998 đã
đưa ra khái niệm về quy hoạch môi trường như sau
“Quy hoạch môi trường là quá trình sử dụng có hệ
thống các kiến thức khoa học để xây dựng các
chính sách và biện pháp trong khai thác và sử dụng
hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm định
hướng các hoạt đông phát triển trong khu vực, đảm
bảo mục tiêu phát triển bền vững”. Như vậy, quy
hoạch môi trường về bản chất là quy hoạch các giải
pháp bảo vệ môi trường của các hoạt động phát
triển được xác định trong quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của một vùng kinh tế nào đó.
Quy hoạch môi trường được thực hiện song
song với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm
đảm bảo cho quy hoạch phát triển đạt được sự bền
vững theo hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ và bảo vệ
môi trường. Vì vậy, quy hoạch môi trường là một
bộ phận gắn kết, không thể tách rời với quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trong một không
gian nhất định.
Kết quả phân tích cả về phương diện lý luận lẫn
thực tiễn cho thấy: phân vùng CNMT bằng cách
tiếp cận CQST trên cơ sở xem xét mối quan hệ của
hệ thống chức năng tự nhiên - kinh tế xã hội - môi
trường của các đơn vị CQST là có căn cứ khoa
học, đảm bảo độ tin cậy trong việc xác định CNMT
cũng như ranh giới phân chia các đơn vị CNMT
của lãnh thổ. Bản đồ phân vùng CNMT là bản đồ
cơ sở để thực hiện các bước tiếp theo của công tác
lập quy hoạch môi trường.
Quy trình lập quy hoạch môi trường có nhiều
bước, trong đó bước quan trọng nhất là đề xuất
định hướng bố trí các hoạt động phát triển trên lãnh
thổ trên cơ sở phân tích định hướng sử dụng các
đơn vị CNMT.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020, các đối tượng quy
hoạch khá đầy đủ thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế -
xã hội (các khu đô thị, khu dân cư, các vùng sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp, các khu công nghiệp,
khu du lịch - dịch vụ, cơ sở hạ tầng,). Để đảm
bảo cho công tác quy hoạch phát triển đạt được các
tiêu chí phát triển bền vững, chúng tôi đã nghiên
cứu đề xuất định hướng sử dụng các đơn vị CNMT
lãnh thổ tỉnh Nghệ An như là một căn cứ khoa học
để bố trí hợp lý các hoạt động phát triển trên lãnh
thổ và bảo vệ môi trường. Khi đề xuất định hướng
sử dụng các đơn vị CNMT, chúng tôi đã chú trọng
đến các đơn vị có chức năng chính như cung cấp
tài nguyên sản xuất tại chỗ, chức năng tổ chức sản
xuất nông, lâm, công nghiệp và chức năng tổ chức
không gian sống (bảng 1).
Bảng 1. Định hướng sử dụng các đơn vị CNMT trong bố trí các hoạt động phát triển theo quy hoạch tổng thể
phát triển KT-XH tỉnh Nghệ An đến năm 2020 [5]
Vùng CNM T Tiểu vùng CNMT Định hướng hoạt động phát triển
A1
4370km2
- Bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đầu nguồn, khoanh nuôi tái sinh rừng;
- Sản xuất lâm nghiệp;
- Kết hợp khai thác thuỷ điện nhỏ.
A: Điều chỉnh và
cung cấp thông tin
A2
2569km2
- Khoanh nuôi, phục hồi và bảo vệ rừng tự nhiên;
- Trồng rừng kinh tế kết hợp rừng phòng hộ (nguyên liệu giấy, ép ván, cánh kiến,);
- Xây dựng các nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ;
- Khai thác khoáng sản (thiếc, đá granit, đá trắng).
B1
942km2
- Bảo vệ nghiêm ngặt HST rừng tự nhiên trong VQG Pù Mát;
- Phát triển du lịch sinh thái, du lịch khám phá. B: cung cấp thông
tin, lưu giữ nguồn
gene, và hoạt động
du lịch
B2
2433km2
- Bảo vệ, khoanh nuôi phát triển rừng tự nhiên;
- Phát triển rừng SX, hoạt động lâm - nông nghiệp;
- Xây dựng các nhà máy thủy điện nhỏ;
- Khai thác văn hoá bản địa trong hoạt động du lịch;
C: Vùng SX nông
nghiệp ven sông
Cả
C
490km2
- Xây dựng hành lang phát triển KT-XH dọc QL7;
- SX nông nghiệp phục vụ nhu cầu tại chỗ (lúa, màu);
- Xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, thương mại phục vụ phát triển các khu vực phụ cận.
D. Cung cấp tài
nguyên; tổ chức
các hoạt động sản
xuất
D1
1885km2
- Phát triển cây công nghiệp (cà phê,cao su,chè,mía), cây ăn quả (cam, chanh);
- Phát triển các khu công nghiệp chế biến ở Phủ Quỳ;
- Phát triển đất trồng cỏ chăn nuôi bò sữa, trâu bò thịt;
- Khai thác, chế biến đá trắng ở Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn;
- Xây dựng hồ chứa thủy lợi - thủy điện ở Nghĩa Đàn;
- Lựa chọn vị trí phù hợp xây dựng khu chứa và xử lý chất thải tập trung (Tân Kỳ, Nghĩa Đàn);
401
Vùng CNM T Tiểu vùng CNMT Định hướng hoạt động phát triển
D2
299km2
- Khoanh nuôi, bảo tồn hệ sinh thái núi đá vôi;
- Phát triển dược liệu, cây đặc sản của HST núi đá vôi;
- Khai thác đá vôi có lựa chọn và theo định mức nhất định;
D3
746km2
- Phát triển rừng sản xuất, phát triển các vùng cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày;
- Xây dựng cảnh quan và tạo hạ tầng phát triển du lịch gắn liền với khu vực đồng bằng;
- Xây dựng các hồ chứa thuỷ lợi quy mô nhỏ;
- Lựa chọn các vị trí phù hợp có thể xây dựng bãi rác, khu xử lý rác cho cả khu đồng bằng;
D4
670km2
- Phát triển nông lâm nghiệp;
- Xây dựng hạ tầng phục vụ du lịch sinh thái;
- Xây dựng hồ chứa thuỷ điện - thủy lợi quy mô vừa;
- Khai thác có định mức đá vôi, cát xây dựng;
- Có khả năng xây dựng khu chứa và xử lý chất thải cho cả khu đồng bằng;
E1
68,3km2
- Phát triển Vinh thành đô thị loại 1 và các khu, cụm công nghiệp;
- Phát triển hệ thống cây xanh, công viên, hồ sinh học nhằm đảm bảo cảnh quan và điều hoà
môi trường;
- Xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở môi trường trong thành phố để giải quyết vấn đề ô nhiễm
môi trường đô thị;
- Xây dựng hệ thống đê bao dọc bờ biển để điều tiết mặn và giảm xói lở bờ biển.
E2
24,8km2
- Bảo vệ HST đất ngập nước, rừng phòng hộ ven biển;
- Phát triển hạ tầng và dịch vụ du lịch;
- Đa dạng hoá các loại hình du lịch (du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, tắm biển, nghỉ dưỡng...).
E3
98km2
- Khoanh nuôi, bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước;
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản mặn - lợ;
- Phát triển chế biến thuỷ hải sản, kinh tế làng nghề;
- Phát triển các điểm, tuyến du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng.
E4
1535km2
- Bố trí sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp năng suất cao;
- Phát triển kinh tế làng nghề;
- Khai thác vật liệu xây dựng (sét, cát xây dựng);
- Bố trí các điểm dân cư, đô thị, các khu, cụm công nghiệp;
- Xây dựng có lựa chọn các bãi thải và khu xử lý chất thải.
E. Cung cấp
không gian phát
triển đô thị; Tổ
chức sản xuất đa
ngành.
E5
404km2
- Trồng rừng, bảo vệ phục hồi rừng;
- Khai thác hiệu quả điều hoà môi trường và vị thế liền kề trong đồng bằng để phát triển du lịch;
- Bố trí các cơ sở chế biến nông sản, thực phẩm; cây ăn quả;
- Có thể lựa chọn vị trí xây dựng bãi và khu xử lý chất thải cho khu vực đồng bằng.
Kết quả đề xuất định hướng sử dụng các đơn vị
chức năng môi trường để bố trí các hoạt động phát
triển theo quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH
của tỉnh Nghệ An đến năm 2020 cho thấy các hoạt
động phát triển được bố trí tương đối phù hợp ở
các đơn vị cấp tiểu vùng chức năng môi trường,
đảm bảo tính hài hòa giữa các chức năng tự nhiên -
môi trường và kinh tế - xã hội trên các loại cảnh
quan sinh thái. Điều này làm cho quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ có độ tin cậy và
tính khả thi cao, đáp ứng được mục tiêu phát triển
theo hướng bền vững.
4. Kết luận
Tiếp cận địa lý học trong nghiên cứu môi
trường là đánh giá tổng hợp các thể tổng hợp tự
nhiên hoặc các CQST nhằm xác định được mối
quan hệ và sự biến đổi của các thành phần tự
nhiên, các tính chất môi trường của lãnh thổ với
hoạt động của con người trong quá trình khai thác
sử dụng tài nguyên thiên nhiên của lãnh thổ đó.
Đánh giá các cảnh quan sinh thái nhằm mục đích
xác định các chức năng môi trường mà mỗi cảnh
quan sinh thái có thể đảm nhiệm làm căn cứ để
thành lập bản đồ phân vùng CNMT.
Bản đồ phân vùng CNMT lãnh thổ tỉnh Nghệ
An tỷ lệ 1:100.000 được thành lập từ bản đồ CQST
đã phân chia lãnh thổ Nghệ An thành 5 vùng với
14 tiểu vùng chức năng môi trường. Từ kết quả
phân vùng đã đề xuất định hướng sử dụng các đơn
vị CNMT để bố trí các hoạt động phát triển theo
quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Nghệ
An đến năm 2020. Các hoạt động phát triển được
đề xuất bố trí trên lãnh thổ tỉnh Nghệ An đã thể
hiện được sự hài hòa của hệ thống các chức năng
tự nhiên - môi trường - kinh tế xã hội của từng đơn
vị cấp loại cảnh quan sinh thái. Điều này khẳng
định tiếp cận cảnh quan sinh thái để xác định các
chức năng môi trường của một lãnh thổ là cách tiếp
cận đúng đắn, phù hợp trong quá trình nghiên cứu
lập quy hoạch bảo vệ môi trường của lãnh thổ đó,
402
đáp ứng mục đích sử dụng hợp lý điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
theo quan điểm phát triển bền vững.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Phạm Quang Anh, Nguyễn An Thịnh, 2005:
Giáo trình “Cơ sở sinh thái cảnh quan (lý luận và
thực tiễn, Khoa Địa lý, trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 266tr.
[2] Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng,
Nguyễn Ngọc Khánh, 1997: Cơ sở cảnh quan học
của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, tr 125-136.
[3] Đặng Trung Thuận, 2003: Quản lý môi
trường bằng quy hoạch môi trường, Tuyển tập
“Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt
Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.278-299.
[4] Nguyễn Thế Thôn, 2004: Quy hoạch môi
trường phát triển bền vững, Nxb. KH-KT, Hà Nội,
220 tr.
[5] Hoàng Lưu Thu Thủy, 2012: Đánh giá tổng
hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi
trường phục vụ lập quy hoạch bảo vệ môi trường
tỉnh Nghệ An, Luận án Tiến sỹ Địa lý, Viện Địa lý,
VAST, 150 tr.
[6] Nguyễn Văn Vinh, 2005: Một số vấn đề về
phân vùng chức năng môi trường áp dụng cho tỉnh
Bắc Giang, Tạp chí Địa chính số 5/2005, tr 20-24.
[7] Kalesnik S. V., 1979: Geographic
environment.- Entry in: The Great Soviet
Encyclopedia., 3nd Edition (1979) - In English:
New York Macmillan, London Collier Macmillan,
1974-1983.
SUMMARY
Approach Geography in Environmental Research (For example, Nghe An province)
Landscape Ecology has diversity function, including natural function of landscapes, ecological function of
ecosystems with economic - society function is the basis of economic - social activities of human. Therefore, landscape
ecology is considered as territorial of ecology environment - human habitat.
By approaching landscape ecology assessment through the evaluation of natural - social economic - environmental
function that landscape ecology can undertake, environment function analysis of landscape ecology has been
conducted, from that to establish the map of environmental function of Nghe An rate 1/100.000. There were 5 regions
with 14 sub-regions of environmental function have been shown in the map.
The proposed layout-oriented of development activities on the territory of Nghe An province according to plan in
2020 to conform to the environmental function in each region and sub-region as an application with high scientific and
practical basis in using environmental function zoning map to research and develop environmental protection plan of
Nghe An province.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4125_14621_2_pb_3797_2107854.pdf