Hệ thống hình phạt
Từ đây, trên cơ sở nhận thức mới
về mục đích của hình phạt đã nêu, hệ
thống hình phạt cũng cần phải tiến tới
từng bước giảm hình phạt tử hình, tăng
cường mở rộng các hình phạt không
phải là hình phạt tù. hướng tới bảo vệ
quyền con người như Nghị quyết số 49/
NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005
về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020” đã đề cập.
Tương tự, có một số loại hình phạt
mới sẽ được nghiên cứu, đề xuất hoặc
đã có nhưng được tăng cường áp dụng
như: Các hình phạt lao động phục vụ
cộng đồng, tịch thu tài sản, bồi thường
thiệt hại, giám sát, thử thách. (nội dung
này sẽ được người viết đề cập sâu trong
nghiên cứu khác).
Song song với đó, đi cùng với vấn đề
TNHS của các cỗ máy có trí tuệ nhân tạo
(AI) phát triển vượt bậc là hình phạt để
hiện thực hóa nội dung TNHS đó. Các
giá trị “tự do”, “tính mạng” ở các cỗ máy
không giống con người mặc dù máy móc
đó có thể được mô phỏng gần y như con
người. Việc tiêu diệt một cỗ máy có trí
tuệ không thực hiện được qua cách tác
động vào “cơ thể” chúng (thứ hữu hình)
mà phải chấm dứt dự tồn tại của trí tuệ
đó (thứ vô hình), tự do của các cỗ máy
này không chỉ ở cử chỉ “cơ thể” mà còn
ở các hoạt động xử lý dữ liệu thông tin.
Do đó, đối với “điện tử nhân” phạm tội
này cũng cần được thiết lập với các loại
chế tài hình sự mới, nếu tương lai không
xa là chủ thể của tội phạm (như các biện
pháp trừng phạt liên quan đến phương
diện hoạt động công nghệ, ví dụ: tịch thu
tài khoản, dữ liệu; cấm truy cập.14).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý trong pháp luật hình sự Việt Nam trước thách thức cách mạng công nghiệp 4.0 (Kỳ 2 và hết), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
3. Tiếp tục đổi mới tư duy pháp
lý về TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam
Như vậy, đồng thời với việc đòi hỏi
tiếp tục có những thay đổi trong tư duy
pháp lý về tội phạm, toàn cầu hóa và
CMCN 4.0 cũng đặt ra yêu cầu về những
vấn đề mới trong tư duy pháp lý về TNHS
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC THÁCH THỨC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 (KỲ 2 VÀ HẾT)
TRỊNH TIẾN VIỆT*
* Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội
Đổi mới tư duy pháp lý trong từng lĩnh vực cụ thể là một vấn đề khó và phức
tạp, thể hiện vai trò quan trọng, sự nỗ lực của giới luật học trước xu thế, yêu cầu
phát triển và thực tiễn đất nước. Do đó, để phục vụ nhiệm vụ xây dựng các Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng, yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý nói chung và trong
lĩnh vực pháp luật hình sự nói riêng trước thách thức Cách mạng Công nghiệp
(CMCN) 4.0 rõ ràng có ý nghĩa thời sự cấp bách. Trên cơ sở này, người viết đề cập
đến vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý trong pháp luật hình sự Việt Nam, cụ thể
là nhận thức, cách tiếp cận và lý giải một số thay đổi trong nội dung về hai vấn đề
cốt lõi là tội phạm và trách nhiệm hình sự (TNHS) trước thách thức của cuộc cách
mạng với sự hội tụ đỉnh cao khoa học và công nghệ - CMCN 4.0, từ đó góp phần
đánh giá và giải quyết các vấn đề hình sự đặt ra, đáp ứng xu thế phát triển của xã
hội, của thực tiễn phòng, chống tội phạm, cũng như yêu cầu bảo vệ quyền con người
ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Đổi mới tư duy pháp lý; CMCN 4.0; tội phạm; TNHS.
Ngày nhận bài: 14/8/2019; Biên tập xong: 15/10/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019.
Legal thinking innovation in specific fields is a difficult and complicated
matter which presents vital role and effforts of law-makers in the process
of the nation’s developed requirements. Aiming to make Documents of 13th
National Party Congress, the requirements of continuing to innovate legal
thinking generally and in criminal law particularly facing the challenges of
4th Industrial Revolution is urgently meaningful. Therefore, in this article, the
author mentions legal thinking innovation in Vietnamese criminal law
including perception, approach and explaination for some changes in crime
and criminal liability before the challenges of Revolution of Sciences and
Technology - 4th Industrial Revolution. That will contribute to assessing and
handling criminal matters which meets social development trend, crime
prevention practice as well as human protection in Vietnam.
Keywords: Legal thinking revolution, 4th Industrial Revolution, crime,
criminal liability.
11Khoa học Kiểm sát
TRỊNH TIẾN VIỆT
Số 05 - 2019
vì “TNHS” là hậu quả pháp lý trực tiếp
của tội phạm (trong đó bao gồm cả hình
phạt, vì hình phạt là một hình thức thực
hiện TNHS). Cho nên, trước thách thức
CMCN 4.0 và quá trình toàn cầu hóa đòi
hỏi có những nhận thức, tư duy pháp lý
mới về TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam như sau:
3.1. Khái niệm TNHS
Hiện nay, với việc BLHS năm 2015 bổ
sung thêm chủ thể của tội phạm là pháp
nhân thương mại phạm tội, do đó, khái
niệm TNHS trong nhận thức khoa học
được hiểu là một dạng của trách nhiệm
pháp lý nghiêm khắc nhất và là hậu
quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện
tội phạm và được thể hiện bằng việc áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng
chế hình sự do BLHS quy định đối với
người hoặc pháp nhân thương mại phạm
tội. Tuy nhiên, ở đây, tiếp tục cần nhận
thức rằng, TNHS là sự phản ứng, lên án
của Nhà nước đối với chủ thể thực hiện
tội phạm qua việc quy định các biện pháp
cưỡng chế hình sự để áp dụng, đồng thời
TNHS theo nghĩa tổng thể bao gồm hai
mặt: “Thực hiện TNHS từ phía Nhà nước
và chịu TNHS từ phía người phạm tội
(hiện nay bao gồm cả pháp nhân thương
mại phạm tội - TG)... phải có việc truy
cứu TNHS từ phía Nhà nước mới đưa
đến việc chịu TNHS của người phạm
tội...”1. Do đó, nếu trong tương lai (có thể
1 Xem: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), TNHS và hình
phạt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.7.
là khoa học viễn tưởng2) có chủ thể của
pháp luật là “điện tử nhân”3 (đã phân tích
ở phần trước) và sau đó là chủ thể của tội
phạm thì tương ứng, mối quan hệ này sẽ
phát sinh tiếp giữa một bên là Nhà nước
và bên kia là “điện tử nhân”... Chính vì
vậy, quan hệ pháp luật hình sự giữa các
chủ thể này cần được làm sáng tỏ trong
nhận thức và cụ thể hóa trong thực tiễn
thi hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của mỗi bên trong quan hệ đó.
3.2. Cơ sở của TNHS
Cơ sở của TNHS là một trong những
vấn đề rất quan trọng trong luật hình sự
và của nội dung TNHS. Cơ sở của TNHS
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, tập
trung nhất là góc độ triết học và góc độ
pháp lý. Bởi vì, cơ sở của TNHS được
xem là “căn cứ pháp lý” rất quan trọng,
duy nhất và không thể thiếu mà các cơ
quan, chủ thể có thẩm quyền tố tụng
của Nhà nước mới xem xét, đặt ra vấn đề
TNHS của một người, pháp nhân thương
mại nào đó đã có hành vi nguy hiểm cho
xã hội (hay hành vi gây thiệt hại cho xã
2 Khoa học viễn tưởng là việc đưa ra các nội dung
tưởng tượng khác để tiên đoán những tác dụng
của tiến bộ khoa học và những trạng thái của thế
giới tương lai. Bối cảnh của khoa học viễn tưởng
thường khác biệt so với thế giới thực, nhưng lại dễ
được chấp nhận là khả dĩ xảy ra nhờ các phương
thức lý giải những yếu tố hư cấu bằng khoa học và
lập luận chặt chẽ (TG).
3 Hiện nay, cũng có nhiều nhà tương lai học, dự báo
học, công nghệ học... dự đoán rằng năm 2039, 2060,
2062... là thời đại của trí thông minh nhân tạo, xuất
hiện Người số. Xem thêm: Toby Walsh, Năm 2062 -
Thời đại của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh
Khoa dịch, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh,
2019, tr.29.
12
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
hội) trong thực tiễn mà BLHS quy định là
tội phạm. Như vậy, cơ sở của TNHS theo
cách truyền thống pháp luật thành văn
như BLHS Việt Nam là việc thực hiện một
tội phạm đã được quy định trong BLHS.
Tuy nhiên, về vấn đề này cũng cần có
nhận thức đổi mới mở rộng nguồn để tiếp
tục hoàn thiện như:
a. Nghiên cứu mở rộng nguồn quy định
về tội phạm không chỉ giới hạn trong BLHS
Trước hết, các nhà làm luật cần có lộ
trình thích hợp để mở rộng nguồn quy
định về tội phạm, không chỉ giới hạn
trong BLHS để đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn phòng, chống tội phạm (BLHS
không kịp bổ sung thường xuyên, kịp
thời) và phù hợp với xu hướng phát triển
chung của luật hình sự trên thế giới4. Khi
cho phép như vậy sẽ có nhiều điểm lợi
mà theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chỉ ra
như sau: (1) Bảo đảm tính ổn định của
BLHS; (2) Bảo đảm tính phù hợp, tính
toàn diện của ngành luật hình sự và; (3)
Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp
luật...5.
b. Nghiên cứu mở rộng nguồn là án lệ
Ngoài ra, cùng với đó, toàn cầu hóa
và CMCN 4.0 đang làm mờ nhạt biên
giới quốc gia, xóa nhòa các truyền thống
riêng biệt, làm cho các giá trị tiến bộ được
thừa nhận rộng rãi trên phạm vi toàn
4 Xem: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Sửa đổi BLHS:
Những nhận thức cần thay đổi, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, 2015, tr.13-32.
5 Xem: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), sđd, tr.25-26.
cầu. Đồng thời, sự biến đổi theo chiều
hướng “xuyên biên giới”, “xuyên quốc gia”
của một số tội phạm đòi hỏi sự tương
thích cao, tính thừa nhận lẫn nhau giữa
các truyền thống pháp luật... Do vậy,
trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, Việt Nam cũng có lộ trình cần
hướng tới thừa nhận “án lệ” với tư cách
một nguồn luật. TNHS có thể được xem
xét trên cơ sở một “án lệ”6 được thiết lập
dựa trên Hiến pháp, nguyên tắc chung
của hệ thống pháp luật và nguyên tắc cơ
bản của pháp luật hình sự nếu chưa có
điều luật cụ thể trong BLHS quy định
về TNHS trong trường hợp đó. Điều
này không chỉ đáp ứng đòi hỏi tương
thích pháp luật trong quá trình toàn cầu
hóa, yêu cầu hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm mà còn là
phương án ứng phó bảo đảm tính kịp
thời với thực tiễn tội phạm đang thay đổi
trong thời đại công nghệ thông tin khiến
cho BLHS hiện hành không kịp cập nhật,
ứng phó.
6 Chủ thể tạo lập nên án lệ hình sự là Tòa án, đặc
trưng khác của án lệ nói chung, án lệ hình sự nói
riêng, đó là án lệ được hình thành từ thực tế trong
từng vụ án hình sự cụ thể. Về nội dung, án lệ hình
sự chỉ làm sáng tỏ những quy định về hành vi, tình
tiết được quy định trong pháp luật hình sự mà
không tạo ra quy định mới về tội phạm, hay sáng
tạo ra một tội phạm mới... Như vậy, khác biệt lớn
nhất giữa án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng ở
Việt Nam và các mô hình án lệ khác trên thế giới, đó
là án lệ Việt Nam không phải là quyết định, bản án
gốc, mà được hình thành từ việc lựa chọn và tổng
hợp các bản án chung thẩm ở các cấp liên quan đến
một vụ việc cụ thể, đặc biệt là các bản án giám đốc
thẩm của Tòa án nhân dân tối cao. Xem:
toaan.gov.vn/, Nguyễn Thanh Mận, Khái niệm án
lệ hình sự và mối quan hệ với các loại án lệ khác,
truy cập ngày 10/6/2019.
13Khoa học Kiểm sát
TRỊNH TIẾN VIỆT
Số 05 - 2019
3.3. Những điều kiện của TNHS
Những điều kiện của TNHS tương
ứng với các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản
của tội phạm. Để truy cứu TNHS và chủ
thể của tội phạm phải chịu TNHS đòi hỏi
đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện
của TNHS. Tuy nhiên, trước thách thức
CMCN 4.0 việc có thể truy cứu TNHS
đối với chủ thể mới là các cỗ máy AI “siêu
việt” cũng đồng thời đòi hỏi nghiên cứu
xác định những điều kiện chịu TNHS của
chủ thể này (nếu quy định). Do đó, điều
kiện cốt lõi chắc chắn là sự độc lập trong
thực hiện tội phạm của chủ thể đó. Sự độc
lập đó là dựa trên đánh giá về mặt khoa
học, công nghệ hay trên một quy chế
pháp lý (ví dụ như có quốc gia đã thừa
nhận quyền công dân của rô-bốt7). Hay ở
đây, vấn đề rất quan trọng là phải chứng
minh được ý thức chủ quan của chủ thể này
trong tương lai để từ đó có thể buộc họ
phải chịu TNHS trên cơ sở chung8. Đó là
7 Rô-bốt Sophia ra mắt vào năm 2015 và được công
nhận là công dân của Arab Saudi ngày 25/10/2017,
nó trở thành “cỗ máy” đầu tiên trong lịch sử làm
được điều này. Tuyên bố trao quyền công dân cho
nữ rô-bốt Sophia của Arab Saudi đã khiến dư luận
tranh cãi dữ dội vì cô này còn có nhiều quyền lợi
hơn cả phụ nữ ở quốc gia này. Rô-bốt Sophia có thể
thực hiện được những cuộc trò chuyện, giao tiếp
khá linh hoạt với khoảng 60 sắc thái cảm xúc khác
nhau. Sophia còn nhiều lần khiến dư luận thế giới
dậy sóng với các phát ngôn sốc, trong đó có tuyên
bố: “OK, tôi sẽ hủy diệt loài người”.
8 Sự nhận thức của máy móc còn có thể được hình
thành theo một trong ba cách sau: (1) Được lập
trình; (2) Tự xuất hiện từ sự phức tạp hoặc (3) Được
dạy. Xem thêm: Toby Walsh, Năm 2062 - Thời đại
của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa
dịch, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019,
tr.74-75. Ngoài ra, hiện nay, nhiều bộ phim khoa học
các câu hỏi chắc chắn sẽ phải đặt ra trong
tương lai (chúng ta hãy cùng chờ xem)
trong đổi mới tư duy pháp lý trong pháp
luật hình sự với các điều kiện của TNHS
đối với đối tượng này9.
3.4. Mở rộng phạm vi loại tội áp dụng
TNHS của pháp nhân
Hiện nay, mặc dù BLHS năm 2015 đã
quy định rõ ràng phạm vi 33 tội phạm mà
pháp nhân thương mại phải chịu TNHS
(Điều 76). Tuy nhiên, để chủ động ứng
phó, đáp ứng yêu cầu của quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, cũng như
bảo vệ an ninh môi trường tránh thảm
họa cho con người10, cũng như bảo đảm
an toàn cá nhân, tính mạng, sức khỏe
của người tiêu dùng - bất kỳ ai trong xã
hội, qua đó nâng cao hiệu quả công tác
viễn tưởng như “Hạnh phúc ảo” (hay “Tình yêu
trong thế giới công nghệ”) (2013), “Cuộc phiêu lưu
vào dải ngân hà” (2014)... đã phác họa rất rõ về chân
dung một người máy có cảm xúc. Mặc dù là khoa
học viễn tưởng, nhưng qua các bộ phim cho thấy,
các nhà tương lai học, tâm lý học, công nghệ học...
đã kết hợp tạo ra một người máy có cảm xúc thật
như con người (TG).
9 Hiện nay, đã có tác giả đề xuất các mô hình TNHS
đối với thực thể trí tuệ nhân tạo (AI) từ khoa học
viễn tưởng đến viễn cảnh trong tương lai. Xem cụ
thể hơn: Gabriel Hallevy, The Criminal Liability of
Artificial Intelligence Entities - from Science Fiction
to Legal Social Control, Akron Intellectual Property
Journal, Vol.4: Iss.2, Article, 2010, p.171-219. Người
viết sẽ tiếp tục đề cập sâu hơn về vấn đề này trong
các nghiên cứu công bố tiếp theo (TG).
10 Ví dụ: Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu
cơ khó phân hủy (Stockholm Convention on Persistent
Organic Pollutants) là Hiệp ước quốc tế về môi trường
ký vào năm 2001 và có hiệu lực kể từ tháng 5/2004.
Công ước Stockholm có mục đích loại bỏ hoặc hạn
chế sản xuất và sử dụng các chất ô nhiễm hữu cơ khó
phân hủy (persistent organic pollutant - POP).
14
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử
lý pháp nhân thương mại (cùng với cá
nhân) trong CMCN 4.0, người viết cho
rằng cần nhận thức thay đổi mở rộng
thêm các tội danh mà pháp nhân thương
mại cần phải chịu TNHS như: (1) Tội
vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại (Điều 236); (2) Tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều
317)... và có lộ trình nghiên cứu từng
bước đánh giá, mở rộng để bảo đảm sự
ổn định, an toàn tuyệt đối cho người dân
và toàn xã hội.
3.5. Mục đích của hình phạt và hệ
thống hình phạt
a. Mục đích của hình phạt
Hiện nay, mục đích của hình phạt là
khi áp dụng hình phạt đối với người, pháp
nhân thương mại phạm tội phải bảo đảm
được yêu cầu cho cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo đảm cho pháp luật
hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng
giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi
phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người
ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Nói cách khác,
việc quy định các mục đích của hình
phạt nhằm bảo đảm: “thứ nhất, mục đích
phản ánh một cách tương xứng các lợi
ích của nhân dân, thứ hai, mục đích được
quy định trong quy phạm pháp luật cần
phải phản ánh tính hiện thực; thứ ba, mục
đích cần phải dựa trên những biện pháp
mà việc áp dụng nó được lập luận về mặt
đạo đức...”11. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và
CMCN 4.0 đã khiến cho quyền con người
- giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận
chung - được đề cao hơn bao giờ hết.
Những thách thức của CMCN 4.0 liên
quan chặt chẽ đến quyền con người, tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến quyền con
người với hàng loạt lĩnh vực của CMCN
đặt ra cũng đều liên quan đến quyền con
người. Xu thế phát triển này khiến cho
các quy định pháp luật hình sự hiện đại
đòi hỏi phải được xây dựng, hoàn thiện
và dựa trên định hướng tiếp cận quyền -
lấy quyền con người làm tiêu chuẩn, mục
đích lập pháp12. Đó là cách thay đổi tư
duy pháp lý về TNHS, về hình phạt. Vì
vậy, quy định của BLHS Việt Nam đang
thể hiện nỗ lực tối đa trong việc trừng trị
các hành vi nguy hiểm xâm hại quyền
con người, đồng thời hạn chế tối thiểu
việc tổn thương quyền con người trong
khi tội phạm hóa và trừng phạt các hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, nhận
11 Xem: Võ Khánh Vinh, Chương VIII - Hình phạt
và hệ thống hình phạt, Trong sách: Tội phạm học,
luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.221.
12 “Cách tiếp cận quyền” là “một cách tiếp cận
trong công việc phát triển chính sách được dựa trên
những quyền con người được quốc tế công nhận”
hay là “một khái niệm khung về quá trình của sự
phát triển con người mà nó được dựa trên các tiêu
chuẩn quốc tế và hướng tới việc thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người”. Xem: Vũ Công Giao, Ngô Minh
Hương (đồng chủ biên), Tiếp cận dựa trên quyền
con người - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2016, tr.15-16.
15Khoa học Kiểm sát
TRỊNH TIẾN VIỆT
Số 05 - 2019
thức về “mục đích” của hình phạt hầu
như vẫn chưa được thay đổi, qua đó,
đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người
và chưa thể hiện thực sự đề cao giá trị
quyền con người. Ở đây, nhận thức cần
thiết về mục đích của hình phạt phải là
để phục hồi công lý13; khôi phục tối đa có
thể các quyền, giá trị đã bị tội phạm xâm
hại; giáo dục, phòng ngừa nguy cơ tội
phạm tiếp tục xảy ra..., đặc biệt dự kiến
cả mục đích áp dụng chế tài đối với “điện
tử nhân” (nếu tương lai có quy định).
b. Hệ thống hình phạt
Từ đây, trên cơ sở nhận thức mới
về mục đích của hình phạt đã nêu, hệ
thống hình phạt cũng cần phải tiến tới
từng bước giảm hình phạt tử hình, tăng
cường mở rộng các hình phạt không
phải là hình phạt tù... hướng tới bảo vệ
quyền con người như Nghị quyết số 49/
NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005
về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020” đã đề cập.
Tương tự, có một số loại hình phạt
mới sẽ được nghiên cứu, đề xuất hoặc
đã có nhưng được tăng cường áp dụng
như: Các hình phạt lao động phục vụ
cộng đồng, tịch thu tài sản, bồi thường
thiệt hại, giám sát, thử thách... (nội dung
này sẽ được người viết đề cập sâu trong
nghiên cứu khác).
13 Ví dụ: BLHS Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi
năm 2010 quy định mục đích hình phạt là nhằm
mục đích “lập lại công bằng xã hội, cải tạo người
phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội mới” (khoản
2 Điều 43).
Song song với đó, đi cùng với vấn đề
TNHS của các cỗ máy có trí tuệ nhân tạo
(AI) phát triển vượt bậc là hình phạt để
hiện thực hóa nội dung TNHS đó. Các
giá trị “tự do”, “tính mạng” ở các cỗ máy
không giống con người mặc dù máy móc
đó có thể được mô phỏng gần y như con
người. Việc tiêu diệt một cỗ máy có trí
tuệ không thực hiện được qua cách tác
động vào “cơ thể” chúng (thứ hữu hình)
mà phải chấm dứt dự tồn tại của trí tuệ
đó (thứ vô hình), tự do của các cỗ máy
này không chỉ ở cử chỉ “cơ thể” mà còn
ở các hoạt động xử lý dữ liệu thông tin.
Do đó, đối với “điện tử nhân” phạm tội
này cũng cần được thiết lập với các loại
chế tài hình sự mới, nếu tương lai không
xa là chủ thể của tội phạm (như các biện
pháp trừng phạt liên quan đến phương
diện hoạt động công nghệ, ví dụ: tịch thu
tài khoản, dữ liệu; cấm truy cập...14).
Hệ quả kéo theo là đổi mới, hoàn
thiện các văn bản luật liên quan đến lĩnh
vực công nghệ - thông tin (như: Luật
Công nghệ cao năm 2008, sửa đổi năm
2013, 2014; Luật Công nghệ thông tin
năm 2006; Luật An ninh thông tin mạng
năm 2015; Luật An ninh mạng năm 2018;
các văn bản tạo hành lang pháp lý điều
chỉnh các lĩnh vực cụ thể như: trí tuệ
thông tin, tiền ảo, công nghệ in 3D...) tạo
hệ thống toàn diện trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm trước thách
14 Xem cụ thể hơn: Gabriel Hallevy, The Criminal
Liability of Artificial Intelligence Entities - from
Science Fiction to Legal Social Control, Akron
Intellectual Property Journal, Vol.4: Iss.2, Article,
2010, p.200-217.
16
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
thức CMCN 4.0. Đổi mới thủ tục tố tụng
hình sự và thủ tục thi hành án hình sự
sẽ như thế nào, hệ thống cơ sở vật chất,
hạ tầng ra sao để đáp ứng được khi song
song phải đổi mới thủ tục hiện hành và
thủ tục khi có chủ thể mới...
Đặc biệt, việc có chính sách liên quan
đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác lập pháp, hành pháp và tư pháp ứng
phó cũng là xu hướng cần triển khai sớm.
Kết hợp nghiên cứu giữa các nhà luật
học với các nhà tâm lý học, công nghệ
học, tương lai học, dự báo học và kinh tế
học trong nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo
(AI), chính sách để xử lý, kiểm soát AI và
phòng ngừa AI vi phạm15.
Cùng với với việc đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học, phát triển và sử dụng
thành thạo các ứng dụng khoa học và
công nghệ trong công tác phòng, chống
tội phạm, kết hợp với đầu tư kinh phí
mua sắm, trang bị các phương tiện hiện
đại để phát hiện, thu thập các loại tài
liệu, chứng cứ điện tử phục vụ công
tác phát hiện, xử lý để chủ động ứng
phó, xử lý.
Tóm lại, Việt Nam có những điều
kiện và cơ hội để tranh thủ, hưởng lợi từ
CMCN 4.0 đem lại cho xã hội, phục vụ
con người và vì con người. Tuy nhiên,
15 Hiện nay, nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng
như Hạnh phúc ảo hay Tình yêu trong thế giới
công nghệ (2013), Cuộc phiêu lưu vào dải ngân hà
(2014)... đã phác họa rất rõ về chân dung một người
máy có cảm xúc. Mặc dù là khoa học viễn tưởng,
nhưng qua các bộ phim cho thấy, các nhà tương lai
học, tâm lý học, công nghệ học... đã kết hợp tạo ra
một người máy có cảm xúc thật như con người (TG).
những thách thức trên và nhiều hơn nữa
đang đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới
tư duy nói chung16, đổi mới từng bước tư
duy pháp lý trong pháp luật hình sự nói
riêng từng bước và không thể trì hoãn,
thể hiện trong chính sách hình sự và cụ
thể hóa kịp thời trong BLHS quốc gia, có
như vậy mới điều chỉnh xử lý kịp thời
với các diễn biến mới của xã hội, thực
tiễn phát triển của xã hội, bảo đảm quyền
con người và yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong bối cảnh toàn cầu
hóa và CMCN 4.0 hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt
[1] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày
27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ
động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2016.
[3] Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình
sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005.
[4] Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương (đồng chủ
biên), Tiếp cận dựa trên quyền con người - Lý
luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2016.
16 Sau khi công bố phần I bài viết này, người viết
rất vui vì sau đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN
lần thứ tư, trong đó tại mục III có đề ra một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN
lần thứ tư mà người viết đã đề cập trước - “Đổi mới
tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội” tại tiểu mục 1 (TG).
17Khoa học Kiểm sát
TRỊNH TIẾN VIỆT
Số 05 - 2019
[5] Klaus Schwab, CMCN lần thứ tư, Nxb. Chính
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.
[6] Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội
phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015.
[7] Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), TNHS và hình
phạt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
[8] Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Sửa đổi BLHS:
Những nhận thức cần thay đổi, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2015.
[9] Hoàng Thị Kim Quế, Tư duy pháp lý, quan niệm
và những vấn đề đang đặt ra ở Việt Nam hiện
nay, Trong sách: Tư duy pháp lý: Lý luận và thực
tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
[10] Nguyễn Duy Quý, Đổi mới tư duy và công
cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2009.
[11] Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt,
Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên), Quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến
nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
[12] Trường Đại học Luật Hà Nội, BLHS Cộng
hòa Liên bang Đức, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2011.
[13] Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1 -
Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2000.
[14] Võ Khánh Vinh, Chương VIII - Hình phạt và
hệ thống hình phạt, Trong sách: Tội phạm học,
luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
[15] Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Pháp luật hình sự
Việt Nam trước thách thức an ninh phi truyền
thống, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2019.
[16] Trịnh Tiến Việt, Chính sách hình sự Việt Nam
trong bối cảnh CMCN lần thứ tư, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 7(4), 2019.
[17] Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại Từ điển tiếng
Việt, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, 2010.
[18] Kevin Kelly, 12 xu hướng công nghệ trong thời
đại 4.0, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà
Nội, 2018.
[19] Ajay Agrawal, Joshua Gans, Avi Goldfarb,
AI trong cuộc CMCN 4.0, Đào Lợi dịch, Nxb.
Lao động, Hà Nội, 2018.
[20] Toby Walsh, Năm 2062 - Thời đại của trí thông
minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa dịch, Nxb.
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019.
* Tiếng Anh
[21] Klaus Schwab, The fourth industrial revolution:
What it means, how to respond, World
Economic Forum, Geneva, 2016.
[22] Lisa M Storm, Criminal Law, Chapter 4
- “Elements of a crime”, Lulu Publishing
Services, United States, 2015.
[23] Matilda Claussén-Karlsson, Artificial
Intelligence and the External Element of the
Crime: An Analysis of the Liability Problem,
JU101A, Final Thesis for the Law Program,
Second Cycle, 30 Credits, Spring 2017.
[24] David Harvey, The Condition of Postmodernity,
an enquiry into the origins of cultural change,
Oxford; Cambridge: Blackwell, 1989.
[25] Gabriel Hallevy, The Criminal Liability of
Artificial Intelligence Entities - from Science
Fiction to Legal Social Control, Akron
Intellectual Property Journal, Vol.4: Iss.2,
Article, 2010.
* Website
[26] Thái Anh, Luật
cho AI, truy cập ngày 10/5/2019.
[27] Tiến Phúc, Năm cảnh báo
đáng sợ về thảm họa AI trong tương lai, truy
cập ngày 10/5/2019.
[28] Nguyễn Thanh
Mận, Khái niệm án lệ hình sự và mối quan hệ
với các loại án lệ khác, truy cập ngày 10/6/2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_tuc_doi_moi_tu_duy_phap_ly_trong_phap_luat_hinh_su_viet.pdf