- Phương án 1: Xây dựng thiết chế
Thanh tra thuộc Quốc hội, thực hiện chức
năng kiểm soát tổ chức và hoạt động của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương và các Tập
đoàn kinh tế nhà nước. Đây là chức năng
vốn đã có ở nước ta, nhưng lần sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 vào năm 2001 đã bỏ đi. Nay
cần phải khôi phục lại bằng một cơ quan độc
lập do một đạo luật quy định (không thể khôi
phục lại chức năng này trong Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 được vì
Hiến pháp năm 2013 đã quy định Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp). Nếu chức năng
này không bị bỏ đi vào năm 2001 thì có lẽ
các tiêu cực, tham nhũng trong các Bộ, các
Tập đoàn kinh tế nhà nước, các chính quyền
địa phương như: Bộ Công thương, Vinasin,
Vinalines, Yên Bái, Bình Định, Phú Yên
như thời gian qua đã không xảy ra.
- Phương án 2: Cải tổ lại bộ máy
Thanh tra Chính phủ. Chính phủ cần có bộ
máy thanh tra riêng của mình với tư cách là
cơ quan giúp Thủ tướng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và kiểm soát quyền lực
nhà nước trong nội bộ quyền hành pháp. Cơ
quan này thuộc Thủ tướng, bộ máy gọn nhẹ.
Còn phần lớn Thanh tra Chính phủ hiện nay
chuyển thành cơ quan Thanh tra thuộc Quốc
hội thực hiện chức năng kiểm soát tổ chức
và hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa
phương và các Tập đoàn kinh tế nhà nước.
Cơ quan này độc lập với Chính phủ, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội, chịu sự giám sát của Quốc hội
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế - Kiểm soát quyền lực Nhà nước theo hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết đưa ra một số đánh giá và đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 trên các
phương diện cơ bản: thể chế hóa cơ chế nhân dân kiểm soát quyền
lực nhà nước; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước bên trong tổ chức quyền lực nhà nước; xây dựng cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước độc lập do luật định.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
Trần Ngọc Đường*
Abstract:
The article provies assessments of and also recommendations for
improvements of the mechanism for the state power control under the
Constitution of 2013 on the substantial aspects: institutionalization
of the people's control mechanism over state power; continuation
of development and improvements of the control mechanism of the
state power inside the state entities; establishment of an independent
control mechanism for state power under legal provisions.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kiểm soát quyền lực nhà
nước, Hiến pháp năm 2013.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 01/08/2017
Biên tập: 21/08/2017
Duyệt bài: 26/08/2017
Article Infomation:
Keywords: state power control,
Constitution of 2013
Article History:
Received: 01 Aug. 2017
Edited: 21 Aug. 2017
Appproved: 26 Aug. 2017
* GS, TS, Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013
Để kiểm soát quyền lực nhà nước với tư cách là một nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của quyền
lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền
XHCN, Hiến pháp năm 2013 đã đặt nền
móng cho việc xây dựng và hoàn thiện ba cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước sau đây:
Một là, cơ chế Nhân dân kiểm soát
quyền lực nhà nước. Đây là cơ chế do những
cá nhân và tổ chức không phải là Nhà nước
tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hay còn gọi là cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước do những chủ thể bên ngoài Nhà
nước tiến hành. Để hình thành và xây dựng
cơ chế này, luật phải thể chế các điều quy
định sau đây của Hiến pháp:
- Điều 6: “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp”.
- Điều 9: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 18(346) T9/2017
thực hiện giám sát phản biện xã hội, tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước”
- Điều 10: “Công đoàn Việt Nam
tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của người lao động.”.
- Các quyền dân chủ trực tiếp quy
định ở Chương II: quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân như quyền
bầu cử và bãi nhiệm; quyền tham gia quản
lý nhà nước, quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí
Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đây là cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước bên trong nội bộ Nhà
nước do những chủ thể là Nhà nước kiểm
soát lẫn nhau. Để hình thành và xây dựng
cơ chế này đòi hỏi luật phải thể chế nguyên
tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản
3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013).
Ba là, kiểm soát quyền lực nhà nước
do luật định. Cơ chế này đòi hỏi luật phải
thể chế khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm
2013 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo
vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do
Luật định”.
Việc thể chế các cơ chế nói trên trong
các đạo luật ban hành sau Hiến pháp năm
2013 có hiệu lực đến nay như thế nào?
Chúng tôi xin có một số nhận xét đánh giá
và đề xuất giải pháp hoàn thiện sau đây:
1. Về thể chế hóa cơ chế Nhân dân kiểm
soát quyền lực nhà nước
Để hình thành cơ chế này, Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) năm
2015 đã thể chế hóa Điều 6 Hiến pháp về
giám sát và phản biện xã hội thành hai
chương, Chương V: Hoạt động giám sát
và Chương VI: Hoạt động phản biện. Luật
MTTQVN năm 2015 đã có các quy định
về mục đích, đối tượng, nội dung, phạm vi,
hình thức giám sát; quyền và trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát;
quyền và trách nhiệm của Ủy ban MTTQVN
trong việc bãi nhiệm đối với đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND);
lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối
với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND
bầu hoặc phê chuẩn. Đối với phản biện xã
hội, Luật MTTQVN năm 2015 cũng đã chỉ
ra đối tượng, nội dung, phạm vi phản biện xã
hội, các hình thức phản biện và quyền, trách
nhiệm của MTTQVN trong hoạt động phản
biện xã hội cũng như quyền và trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo dự
thảo văn bản được phản biện.
Theo bộ tiêu chí đánh giá về sự phù
hợp Hiến pháp thì Luật MTTQVN đã quy
định khá rõ ràng minh bạch, thẩm quyền,
quy trình thủ tục của Mặt trậtn các cấp trong
giám sát và phản biện xã hội. Tuy nhiên, Luật
MTTQVN mới chỉ quy định chủ thể giám
sát, phản biện là tổ chức (Mặt trận các cấp)
mà chưa có giám sát, phản biện của cá nhân,
nhất là những “cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,”
là một chủ thể cấu thành MTTQVN” (khoản
1 Điều 9 Hiến pháp năm 2013).
Ngoài Luật MTTQVN, các đạo luật
thể chế hóa về quyền dân chủ trực tiếp như
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 18(346) T9/2017
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Báo
chí, đều chưa thể chế các quyền dân chủ
trực tiếp của công dân như là một phương
tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước. Ngoài
ra, còn một số quyền dân chủ trực tiếp Hiến
định của công dân chưa được thể chế hóa
thành luật như: “Công dân có quyền tham
gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước (Điều 28 Hiến pháp năm 2013); cử
tri có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội,
đại biểu HĐND khi không còn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân (Điều 7 Hiến
pháp năm 2013),”.
Từ thực trạng nói trên, có thể nói cho
đến nay ở nước ta, cơ chế Nhân dân kiểm
soát quyền lực nhà nước chưa được xây
dựng đầy đủ, có hiệu lực và hiệu quả, Nhân
dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước
còn rất hạn chế. Hiến pháp năm 2013 đã
có hiệu lực gần 4 năm, nhưng những cơ sở
Hiến định cho việc xây dựng và hoàn thiện
cơ chế Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước chưa được khẩn trương thể chế hóa. Vì
thế, xin đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
sau đây:
Một là, xây dựng một đạo luật về tổ
chức và hoạt động giám sát và phản biện
nhà nước của Nhân dân. Dự án luật này
được xây dựng trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp năm 2013, Điều 6 về “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp”; Điều 9 về MTTQVN; Điều 10
về Công đoàn Việt Nam; Điều 28 về quyền
tham gia quản lý nhà nước của công dân;
Nội dung của dự án luật này phải quy định
đầy đủ quyền và trách nhiệm của công dân,
của các tổ chức dân sự của công dân trong
giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là các
phương thức thực hiện quyền giám sát, phản
biện, các quy định về trình tự, thủ tục thực
hiện quyền giám sát, phản biện một cách dân
chủ, thuận tiện. Đồng thời, quy định trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
tạo điều kiện cho công dân và các tổ chức
chính trị, xã hội, nghề nghiệp của công dân
thực hiện quyền. Trong điều kiện hệ thống
chính trị một Đảng cầm quyền như nước
ta, không hình thành được một cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước của công dân và
các tổ chức đại diện của công dân tham gia
giám sát và phản biện một cách thực chất thì
khó mà tránh khỏi tình trạng tha hóa quyền
lực nhà nước ngày càng trầm trọng.
Hai là, phát huy mạnh mẽ vai trò của
các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân
việc đang tiến hành sửa đổi Luật Phòng
chống tham nhũng năm 2005, cần có quy
định pháp lý mở rộng, khuyến khích, khen
thưởng tạo môi trường pháp lý, dân chủ,
không có vùng cấm trong việc báo chí đấu
tranh chống tiêu cực, tham nhũng của bất kỳ
cá nhân, tổ chức nào trong hệ thống chính trị
nước ta, nhất là các quan chức cao cấp trong
bộ máy nhà nước.
Ba là, quy định trách nhiệm giải
trình của các quan chức đứng đầu tổ chức
Đảng, đứng đầu HĐND và Ủy ban nhân dân
(UBND), chính quyền cấp xã, phường trước
cử tri của các tổ dân phố để nghe dân nói,
dân phản ảnh những biểu hiện tiêu cực ngay
tại nơi sinh sống của mình.
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong
tổ chức quyền lực nhà nước
Nói đến kiểm soát quyền lực nhà
nước thì điều quan trọng trước tiên là tổ chức
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 18(346) T9/2017
bộ máy nhà nước phải được phân công, phân
nhiệm một cách đúng đắn, mạch lạc giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Có phân công, phân nhiệm mới có cơ sở để
kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân là
chủ thể của quyền lập hiến, thì Nhân dân là
chủ thể phân công quyền lực nhà nước mà
không phải Quốc hội là chủ thể phân công
quyền lực nhà nước như trước đây. Theo
nhận thức đó, Hiến pháp năm 2013 đã có
một bước tiến mới trong việc phân công
quyền lực nhà nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
nước ta, Hiến pháp năm 2013 đã quy định
Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp. Việc thừa nhận
các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp là một đổi
mới quan trọng so với mô hình tập quyền
XHCN trước đây. Nó tạo điều kiện để quy
định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng
đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc hội,
Chính phủ và Tòa án nhân dân trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm soát quyền
lực nhà nước và nhân dân có căn cứ để nhận
xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện
quyền lực nhà nước của mỗi quyền. Đồng
thời khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ
lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước của mô hình
tập quyền XHCN trước đây và xây dựng cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong
bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước chưa chế định rõ,
đồng bộ và hiệu quả cơ chế phân công phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các quyền và giữa các cấp. Tổ chức bộ máy
nhà nước và cơ chế hoạt động của các thiết
chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền XHCN
như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ
thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự
hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Theo các đạo luật
về tổ chức bộ máy nhà nước hiện hành thì
chủ yếu là quyền lập pháp kiểm soát quyền
hành pháp bằng phương thức giám sát tối cao
của Quốc hội. Đây là phương thức kiểm soát
quyền lực nhà nước mang tính chất chính
trị - pháp lý ở tầm vĩ mô. Trong lúc đó, kiểm
soát quyền lực nhà nước còn cần phải tiến
hành cả trên các hoạt động vi mô với các vụ
việc cụ thể. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp (tức là cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước),
đảm bảo các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp đều được kiểm soát. Để làm điều đó,
cần tiến hành các giải pháp sau:
Một là, trước khi các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau thì
việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong
bản thân mỗi quyền là hết sức quan trọng.
Bởi không kiểm soát được mình thì đừng
nói kiểm soát người khác. Các luật tổ chức
(như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật
Tổ chức chính quyền địa phương) ban hành
sau Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định
kiểm soát quyền lực nhà nước do bản thân tổ
chức mình thực hiện. Trong tổ chức và hoạt
động lập pháp của Quốc hội cũng cần phải có
thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất
là kiểm soát hoạt động lập pháp và kiểm soát
việc sử dụng ngân sách do chính Quốc hội
quyết định cho mình. Hiện nay, tổ chức và
hoạt động của Quốc hội chưa có một thiết chế
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 18(346) T9/2017
nào kiểm soát. Thiết chế Thanh tra Chính phủ
chưa phải là một thiết chế kiểm soát quyền
lực nhà nước trong nội bộ cơ quan hành pháp
theo đúng nghĩa, mà mới là một thiết chế
nặng về phục vụ quản lý nhà nước. Vì vậy,
phải có một thiết chế để giúp Thủ tướng kiểm
soát quyền lực nhà nước trong nội bộ cơ quan
thực hiện quyền hành pháp. Trong hoạt động
xét xử thực hiện quyền tư pháp cũng chưa
có cơ chế kiểm soát hoạt động giữa các cấp
một cách hiệu quả. Chính vì thế, cần phải xây
dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bản
thân mỗi nhánh quyền lực để tự mình kiểm
soát bản thân mình trước khi kiểm soát nhánh
quyền lực khác.
Hai là, theo chúng tôi, do đặc thù của
hệ thống chính trị nước ta, kiểm soát quyền
lực nhà nước của HĐND đối với UBND
cùng cấp trong việc tuân thủ pháp luật bằng
việc thực hiện quyền giám sát như quy định
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 là không phù hợp, kém hiệu lực
và hiệu quả. HĐND chỉ giám sát UBND
cùng cấp trong việc tổ chức và thực hiện
Nghị quyết của mình mà không giám sát
được việc thực hiện pháp luật bởi HĐND
và UBND cùng cấp theo Hiến pháp năm
2013 là một thiết chế thống nhất, là chính
quyền địa phương của cấp đó. Vì thế, cần
phải tăng cường giám sát và thanh tra của
HĐND và UBND cấp trên đối với UBND
cấp dưới. Đồng thời, tăng cường thanh tra
của Chính phủ đối với HĐND và UBND cấp
tỉnh. Không nên nhấn mạnh vai trò giám sát
của HĐND đối với UBND cùng cấp trong
việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ba là, tăng cường kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ bằng hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội,
trong đó tập trung giám sát hiệu quả của
việc sử dụng ngân sách nhà nước hàng năm
được Quốc hội phân cho các Bộ là một nội
dung giám sát quan trọng hàng đầu. Theo
kinh nghiệm của các nước, khi nói đến kiểm
soát quyền hành pháp thì trước hết và chủ
yếu là kiểm soát hiệu quả của việc sử dụng
ngân sách nhà nước được giao. Ở nước ta,
giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát
của các cơ quan của Quốc hội, luật quy định
quá rộng, bao gồm cả giám sát văn bản quy
phạm pháp luật, trong lúc đó lại không coi
trọng giám sát hiệu quả của việc sử dụng
ngân sách. Tình trạng tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, lộng quyền, lạm quyền đều bắt
nguồn từ việc sử dụng ngân sách nhà nước
không được kiểm soát chặt chẽ.
- Bốn là, cần coi trọng kiểm soát việc
thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức và
hoạt động của lập pháp và tư pháp. Bởi trong
tổ chức và hoạt động của quyền lập pháp và
quyền tư pháp đều có hoạt động hành chính
nhà nước. Tuy nhiên, Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015 không thể chế quyền kiểm
soát của Chính phủ với tư cách là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất đối với hoạt
động mang tính chất hành chính nhà nước
như: tổ chức bộ máy hành chính, biên chế
công chức, công vụ, mua sắm công sở,
trong các hoạt động lập pháp và tư pháp. Khi
nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước của
hành pháp đối với lập pháp và tư pháp thì
đối tượng kiểm soát là các hoạt động mang
tính hành chính nhà nước trong các nhánh
quyền lực này.
3. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước độc lập do luật định
Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập cơ sở
hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 18(346) T9/2017
pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời,
Hiến pháp giao cho "Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,
các cơ quan khác của Nhà nước có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp". Như vậy, Hiến
pháp năm 2013 tuy chưa hình thành cơ chế
bảo vệ Hiến pháp chuyên trách, nhưng với
quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến
định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến
pháp do luật định. Theo đó, cần tiếp tục
nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến
pháp này để kịp thời thể chế hóa nguyên tắc
kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời
gian tới.
Kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta là một vấn đề mới. Do đó, xây dựng
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, một
mặt phải đảm bảo phòng chống sự lạm dụng
quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả,
nhưng mặt khác lại phải đảm bảo không vì
kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi
tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải
có để tiến hành các công việc nhà nước. Vì
thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực
nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa
có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa
không kém phần quan trọng là buộc Nhà
nước phải tự kiểm soát được chính mình.
Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước phải là một tổng thể bao gồm cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài
do các chủ thể không phải là Nhà nước thực
hiện; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp tự kiểm soát mình và kiểm soát
lẫn nhau. Đồng thời, phải có cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước một cách độc lập
do luật quy định. Theo đó, chúng tôi đề nghị
xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước một cách độc lập do luật định được
Hiến pháp quy định theo một trong hai
phương án sau đây:
- Phương án 1: Xây dựng thiết chế
Thanh tra thuộc Quốc hội, thực hiện chức
năng kiểm soát tổ chức và hoạt động của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương và các Tập
đoàn kinh tế nhà nước. Đây là chức năng
vốn đã có ở nước ta, nhưng lần sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 vào năm 2001 đã bỏ đi. Nay
cần phải khôi phục lại bằng một cơ quan độc
lập do một đạo luật quy định (không thể khôi
phục lại chức năng này trong Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 được vì
Hiến pháp năm 2013 đã quy định Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp). Nếu chức năng
này không bị bỏ đi vào năm 2001 thì có lẽ
các tiêu cực, tham nhũng trong các Bộ, các
Tập đoàn kinh tế nhà nước, các chính quyền
địa phương như: Bộ Công thương, Vinasin,
Vinalines, Yên Bái, Bình Định, Phú Yên
như thời gian qua đã không xảy ra.
- Phương án 2: Cải tổ lại bộ máy
Thanh tra Chính phủ. Chính phủ cần có bộ
máy thanh tra riêng của mình với tư cách là
cơ quan giúp Thủ tướng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và kiểm soát quyền lực
nhà nước trong nội bộ quyền hành pháp. Cơ
quan này thuộc Thủ tướng, bộ máy gọn nhẹ.
Còn phần lớn Thanh tra Chính phủ hiện nay
chuyển thành cơ quan Thanh tra thuộc Quốc
hội thực hiện chức năng kiểm soát tổ chức
và hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa
phương và các Tập đoàn kinh tế nhà nước.
Cơ quan này độc lập với Chính phủ, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội, chịu sự giám sát của Quốc hội
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 18(346) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_tuc_xay_dung_va_hoan_thien_co_che_kiem_soat_quyen_luc_n.pdf