(1) Việc giới hạn quyền phải được
quy định rõ ràng trong luật. Không chỉ vậy,
những quy định của luật đặt ra giới hạn
đối với việc thực hiện quyền cần phải: 1)
Công khai với người dân và có chỉ dẫn thích
hợp để mọi người có thể hiểu sự hạn chế
luật định đối với các quyền của họ; 2) Quy
định về giới hạn quyền trong luật phải chính
xác, rõ ràng để người dân có thể hiểu rõ và
tự điều chỉnh hành vi của họ; 3) Có những
biện pháp thích hợp để phòng ngừa việc lạm
dụng quy định giới hạn quyền, hoặc tùy tiện
đặt ra các giới hạn mới.
(2) Giới hạn đặt ra không được trái với
bản chất của các quyền bị giới hạn. Yêu cầu
này nhằm đảm bảo những giới hạn đặt ra
không làm tổn hại đến khả năng của các cá
nhân có liên quan trong việc thụ hưởng quyền
đó. Việc giới hạn quyền phải nhằm những
mục đích chính đáng/hợp pháp (legitimate
objective); biện pháp hạn chế phải hợp lý
(reasonable), cần thiết (necessary) và tương
xứng (proportion). Nghĩa là mọi giới hạn
quyền đều phải: 1) Thật sự cần thiết để đạt
được một mục tiêu hợp pháp, chính đáng; 2)
Biện pháp áp dụng chỉ để thực hiện mục tiêu
hợp pháp, chính đáng đó; 3) Các biện pháp
hạn chế không được nghiêm khắc hơn mức
độ cần thiết để đạt được mục đích của việc
giới hạn quyền.
(3) Chỉ được đặt ra một giới hạn quyền
nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội
dân chủ và nhằm mục đích thúc đẩy phúc
lợi chung của cộng đồng hoặc để bảo vệ an
ninh quốc gia, an toàn của cộng đồng, trật tự
công cộng, sức khỏe cộng đồng, đạo đức xã
hội hoặc quyền tự do của người khác.
Pháp luật của các quốc gia châu Âu đòi
hỏi các hạn chế quyền, tự do cơ bản của con
người phải chịu sự kiểm tra về tính tương
xứng. Theo đó, Toà án đánh giá các biện
pháp hạn chế quyền có thực sự cần thiết,
phù hợp và tương xứng với mục đích của
việc hạn chế hay không35. Điều này nhằm
hạn chế sự tuỳ tiện của cơ quan công quyền
trong việc áp dụng các biện pháp hạn chế
quyền, đảm bảo cho các quyền, tự do cơ bản
của người dân được tuân thủ trên thực tế.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiêu chí hạn chế quyền con người vì lý do trật tự công cộng trong pháp luật một số nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIÊU CHÍ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI VÌ LÝ DO
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC1
1 Bài viết trong khuôn khổ Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hạn chế quyền con người ở Việt Nam hiện nay” do TS.
Nguyễn Linh Giang làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Quyền con người có thể bị hạn chế trong một số trường hợp nhất
định vì các lý do chính đáng, theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.
Một trong những lý do hạn chế quyền phổ biến trong pháp luật của
các quốc gia là bảo vệ trật tự công cộng. Bài viết trình bày và phân
tích tiêu chí hạn chế quyền con người vì lý do trật tự công cộng
trong pháp luật một số nước.
Nguyễn Văn Quân*
* TS. GV. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Abstract
Human rights may be restricted in certain cases with sensibly
justified reasons, following a strict procedure. One of the reasons
for restricting the common rights in the laws of a number of
countries is to ensure the public order stability. This article presents
and provides analysis of the criteria restricting the human rights
due to public order in the laws of a number of countries
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền con người; giới hạn
quyền; hạn chế quyền; trật tự công
cộng; sức khoẻ cộng đồng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/03/2019
Biên tập : 30/07/2019
Duyệt bài : 30/07/2019
Article Infomation:
Keywords: human rights; limitation
of rights; restriction of rights; public
order; community health.
Article History:
Received : 15 Mar. 2019
Edited : 30 Jul. 2019
Approved : 30 Jul. 2019
1. Các quan niệm về giới hạn quyền hiến định
Trong các xã hội dân chủ, cơ sở tự do
dựa trên ý tưởng rằng không quyền nào có
thể được coi là tuyệt đối. Đòi hỏi của đời
sống xã hội và đặc biệt là những yêu cầu
về trật tự công cộng, dẫn đến những hạn
chế về việc thực hiện các quyền cơ bản là
cần thiết cho việc bảo vệ trật tự chung - vốn
là bảo đảm cho các quyền này. Pierre Bon
cho rằng, trật tự công cộng “đảm nhận một
chức năng cụ thể là chỉ giới hạn các quyền
tự do khi điều này là bắt buộc và chỉ giới
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 14(390) T7/2019
hạn quyền một cách tương xứng với điều mà
việc bảo vệ quyền khác đòi hỏi”2. Thừa nhận
giới hạn quyền trong Hiến pháp là cơ sở để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể hạn
chế việc thực thi các quyền và tự do.
Hiến pháp có chức năng để giới hạn
quyền lực nhà nước và ràng buộc trách
nhiệm nhà nước. Nhưng đồng thời, Hiến
pháp cũng có các quy định về quyền con
người và hạn chế quyền con người. Việc
Hiến pháp ghi nhận các quy định về hạn chế
quyền con người không phải là tạo điều kiện
cho các cơ quan nhà nước hạn chế quyền
con người mà để nhằm kiểm soát các hành
vi tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước trong
hạn chế quyền con người.
Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận,
quyền con người không phải là một khái
niệm tuyệt đối và trong một số trường hợp
cần phải được hạn chế nhằm đảm bảo trật tự
xã hội. Việc ghi nhận các nguyên tắc hạn chế
quyền con người trong Hiến pháp chính là để
đảm bảo việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người. Tuy nhiên, không phải Hiến pháp của
mọi quốc gia đều quy định trực tiếp về giới
hạn quyền và các nguyên tắc giới hạn quyền.
Sự khác biệt về cách tiếp cận này liên
quan đến quan niệm của các nhà lập hiến về
các giới hạn đối với quyền cơ bản. Nghiên
cứu của Robert Alexy giúp làm sáng tỏ
điểm này. Ông cho rằng, “khái niệm “giới
hạn một quyền” dường như dựa vào một giả
định trước là đã có hai thứ: một quyền và
một giới hạn, giữa chúng có một mối quan
hệ nhất định, ví dụ như là một quan hệ về
sự hạn chế”3. Theo đó, có thể chỉ ra hai kiểu
2 Pierre BON, La police municipale, Thèse dactylographiée, Bordeaux I, 1975, tr. 226.
3 Robert ALEXY, A theory of constitutional rights, Oxford University Press, 2002, tr. 178.
4 X. PHILIPPE, “Les clauses de limitation et d’interprétation des droits fondamentaux dans la Constitution sud africaine
de 1996”, Tlđd, tr. 902.
quan hệ tạo thành hai lý thuyết khác nhau:
- “Lý thuyết bên ngoài”, theo đó giới
hạn nằm bên ngoài quyền;
- “Lý thuyết bên trong”, theo đó quyền chỉ
được quy định một cách có hạn chế, hay hạn chế
là một phần không thể tách rời khỏi quyền.
Việc lựa chọn kiểu mối quan hệ thứ
nhất hay thứ hai có tính quyết định trong
việc xác định cơ sở hiến định của việc hạn
chế các quyền cơ bản. Lý thuyết bên ngoài
chủ yếu được thừa nhận, áp dụng trong các
công ước về quyền con người, còn lý thuyết
bên trong được một số nước, ví dụ như Pháp,
sử dụng.
Theo lý thuyết bên ngoài về giới hạn,
quyền và giới hạn được hình thành như hai
đối tượng riêng biệt, quyền mang tính tự
thân và không bị giới hạn. Lý thuyết này cho
rằng, trong nhà nước pháp quyền, các quyền
này được đặt ra mà không bị giới hạn. “Mối
quan hệ giới hạn” chỉ xảy ra khi quyền buộc
phải đối chiếu với tự do của người khác và
đòi hỏi của lợi ích chung. Các giới hạn cho
việc thực hiện các quyền phải được xác định
và chỉ rõ.
Lý thuyết bên ngoài về giới hạn quyền
và tự do được chia sẻ bởi một số công ước
về bảo vệ quyền con người. Được thông qua
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các văn kiện
này quy định khả năng các nhà nước giới hạn
thực hiện các quyền cơ bản, hoặc thông qua
các điều khoản giới hạn cụ thể, hoặc trong
một điều khoản chung về giới hạn quyền.
Trong cả hai trường hợp, trật tự công cộng
được đề cập như là một giới hạn đối với việc
thực hiện các quyền được thừa nhận.
Điều khoản giới hạn cụ thể, hoặc “điều
khoản bảo vệ”4, được chứa đựng trong điều
khoản thừa nhận một quyền. Điều khoản này
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 14(390) T7/2019
thường nằm trong các công ước về quyền
con người. Công ước châu Âu về quyền con
người tuyên bố quyền được bảo đảm và sau
đó đề ra những giới hạn có thể đặt ra cho
quyền này.
Ví dụ, khoản 1 Điều 8 Công ước châu
Âu về quyền con người quy định: “mọi
người đều có quyền được tôn trọng đời
sống riêng tư và gia đình, nơi cư trú và thư
từ”. Khoản 2 điều này quy định: “cơ quan
công quyền có thể có sự can thiệp tới việc
thực hiện quyền này chỉ khi sự can thiệp
này được luật dự liệu và là một biện pháp
trong một xã hội dân chủ, và cần thiết cho an
ninh quốc gia, an toàn công cộng, [...] bảo
vệ trật tự và phòng chống tội phạm hình sự
[...]”. Như vậy, điều khoản này thể hiện theo
lý thuyết bên ngoài: trước tuyên bố quyền
và sau đó lại quy định là quyền đó có thể
bị hạn chế.
Lý thuyết bên trong xem giới hạn là
một bộ phận của việc xác định và thực hiện
quyền5. Học giả François Luchaire cho rằng,
các bảo đảm và các giới hạn quyền không
thể tách rời khỏi nhau6, bởi vì các giới hạn
đối với một số quyền và tự do là sự bảo đảm
cho việc thực thi các quyền, tự do khác7.
Marcel Waline cho rằng: “mọi quyền, tự do
đều có một giới hạn ngầm định, đó là tôn
trọng trật tự công cộng []. Như vậy, người
ta chỉ thừa nhận những quyền, tự do có giới
hạn (bị hạn chế)”8. Đây là một đặc trưng có
tính cơ bản của luật thực định Pháp. Các nhà
lập hiến Pháp quan niệm, cơ quan lập pháp
5 Pauline Gervier, La limitation des droits fondamentaix constitutionnels par l’ordre public, thèse àl’Université
Montesquyeu-Bordeaux IV, 2013, tr.67.
6 François LUCHAIRE, La protection constitutionnelle des droits et libertés, Economica, Paris, 1987, tr.336.
7 François LUCHAIRE, La protection constitutionnelle des droits et libertés, Sđd, tr. 83.
8 M. WALINE, L’individualisme et le droit, Editions Domat-Montchrestien, 1949, rééd. Dalloz, Paris, Préf. F. Mélin-
Soucramanien, 2007, tr.379.
9 Xem: https://www.un.org/en/udhrbook/pdf/udhr_booklet_en_web.pdf, truy cập ngày 20/4/2019.
có thẩm quyền xác định các quyền và tự do
của người dân, cũng như các giới hạn của
quyền này.
2. Mối quan hệ giữa trật tự công
cộng và quyền, tự do cơ bản và giới hạn
quyền con người vì lý do trật tự công cộng
Trong số các lý do để hạn chế quyền
cơ bản, thì “đòi hỏi bảo vệ trật tự công cộng”
(public order) là một trong những căn cứ
phổ biến. Giới hạn quyền với mục đích bảo
đảm “trật tự công cộng” được ghi nhận trong
nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người.
Khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền năm 1948 (UDHR) quy định:
“Mỗi người trong khi thực hiện các quyền và
tự do cho cá nhân chỉ phải chịu những hạn
chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là
bảo đảm việc thừa nhận và sự tôn trọng đối
với các quyền và tự do của những người khác
và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về
đạo đức, trật tự công cộng và sự phồn vinh
chung trong một xã hội dân chủ”9.
Trong pháp luật của nhiều quốc gia,
trật tự công cộng thường được quan niệm
gần gũi với các khái niệm“an ninh quốc gia”,
“bảo vệ trật tự” và “phòng chống tội phạm”.
Ngoài ra, khái niệm trật tự công cộng không
chỉ được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật, mà nó được diễn giải rất đa
dạng trong các phán quyết của Toà án liên
quan đến các tranh chấp giữa người dân và
công quyền.
Ở nghĩa đơn giản và dễ hiểu nhất, “tự
do là quyền năng tự định đoạt, căn cứ vào
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 14(390) T7/2019
đó con người tự mình chọn cách hành xử”10.
Còn trật tự công cộng được hiểu là “trạng
thái xã hội của một quốc gia cụ thể, tại một
thời điểm cụ thể có được hoà bình, yên tĩnh
và an ninh công cộng không bị xáo trộn”11.
Dưới góc độ nội dung, trật tự công
cộng có quan hệ với khái niệm “lợi ích công
cộng” - vốn là mục đích của mọi hoạt động
công quyền. Ngay từ đầu thế kỷ XX ở Pháp,
việc hạn chế quyền, tự do cơ bản của con
người vì lý do trật tự công cộng đã được đặt
ra. Tham chính viện - cơ quan xét xử hành
chính tối cao của Pháp đề ra nguyên tắc: các
hạn chế đối với tự do do chính quyền đưa
ra chỉ hợp pháp khi việc duy trì trật tự công
cộng đòi hỏi12. Trong pháp luật của Liên
minh châu Âu, Công ước châu Âu về quyền
con người cho phép các quốc gia giới hạn
các quyền cơ bản vì lý do trật tự công cộng.
Tuy nhiên, trong nhà nước pháp quyền
thì mối quan hệ giữa yêu cầu về trật tự công
cộng và các quyền cơ bản thường được xem
như là mối quan hệ giữa “uy quyền” và “tự
do”, trong đó uy quyền là ngoại lệ và tự do
là nguyên tắc.
Ở Pháp, trật tự công cộng (ordre
public) là một quy tắc bất thành văn, không
được định nghĩa một cách tường minh trong
một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Trật
tự công cộng gắn liền với các tiêu chí, đời
10 J. RIVERO et H. MOUTOUH, Libertés publiques, P.U.F., Thémis, Paris, 9édition 2003, tome 1, tr. 5.
11 G. CORNU, Vocabulaire juridique, P.U.F., Quadrige, Paris, 9édition, 2011, tr. 714.
12 R. CHAPUS, Droit administratif général, tome 1, Montchrestien, Domat droit public, Paris, 15 e édition, 2001, tr. 699
và tiếp theo.
13 N. JACQUYNOT, Ordre public et constitution, thèse dactylographiée, Université d’Aix-Marseille III, 2000, tr. 68.
14 C. PERELMAN, “Les notions à contenu variable en droit, essai de synthèse”, in C. PERELMAN et R. VANDER ELST
(dir.), Les notions à contenu variable en droit, Travaux du Centre National de recherche logique, Bruylant, Bruxelles,
1984, tr. 363-374, spéc. tr. 363.
15 L. FAVOREU et autres, Droit des libertés fondamentales, Dalloz, Précis, coll. Droit public science politique, 6 e édi-
tion, 2012, tr. 90 và163.
16 C. AUTEXIER, Introduction au droit public allemand, P.U.F., coll. Droit fondamental, Paris, 1997, tr. 124-128.
17 P. Malaurie trích dẫn bởi M. Gautier « L’ordre public », in J-B Auby (dir), L’influence du droit européen sur les
catégories du droit public, Dalloz, 2010, tr. 317.
hỏi có tính sống còn của hệ thống pháp luật.
Đây là một khái niệm có nội hàm thay đổi
theo thời gian. Bởi vì, “xã hội vận động và
các giá trị của xã hội thay đổi, những gì xã
hội xem là cơ bản thì có thể trở thành cơ
bản, và trật tự công cộng phải thích nghi
theo[..], trật tự công cộng là một khái
niệm tồn tại bất chấp thời gian, vì nội dung
của nó biến đổi cùng với thời gian”13. Giáo
sư Chaim Perelman gọi trật tự công cộng là
“khái niệm có nội dung biến đổi”14.
Có học giả đưa ra lý thuyết “giới hạn
của giới hạn” phát triển từ lý thuyết của
người Đức về các quyền cơ bản15. Theo
lý thuyết này, giới hạn của giới hạn đặt ra
những ranh giới đối với nhà làm luật16. Tức
là các giới hạn có tính hiến định mà nhà làm
luận buộc phải tuân thủ khi xác định các chế
ước, hạn chế của quyền và tự do cơ bản.
Giáo sư Malaurie cho rằng, “không
ai đưa ra định nghĩa của trật tự công, mọi
người ngợi ca sự không rõ ràng của nó và ai
ai cũng sử dụng”17. Cách mạng tư sản Pháp
đề ra nguyên tắc: mọi người có quyền sống,
hành động và tự do thực hiện các quyền của
mình (Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền năm 1789). Tuy nhiên, lý tưởng
tự do này không thể thực hiện một cách
không giới hạn vì nó có thể ảnh hưởng, xâm
hại tới quyền và tự do của người khác. Để
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 14(390) T7/2019
ngăn chặn việc thực thi quyền của người này
gây ảnh hưởng, đe doạ quyền và tự do của
người khác và của trật tự xã hội nói chung,
Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì một
trật tự để bảo đảm cho tự do của các thành
viên trong xã hội. Ở nghĩa này, trật tự xã hội
được hiểu là “trạng thái cân bằng, nơi các
quyền và tự do cơ bản được thực hiện một
cách tốt nhất”. Trật tự xã hội thể hiện các
yêu cầu, đòi hỏi cơ bản của một xã hội, yêu
cầu này có tính bền vững và thường xuyên.
Hơn nữa, các quyền, tự do cơ bản của con
người chỉ có thể được thực hiện trong khuôn
khổ của một quốc gia mà công quyền bảo
đảm được trật tự công cộng.
3. Trật tự công cộng trong thực tiễn xét xử
của Toà án
Trên thực tế, trật tự công cộng là một
khái niệm được diễn giải rất đa dạng.
Theo phán quyết ngày 27/10/1995
của Tham chính viện Pháp, tôn trọng nhân
phẩm con người là một thành tố của trật tự
công cộng18. Vụ việc liên quan đến việc Thị
trưởng thành phố Morsang-sur-Orge cấm
các buổi biểu diễn trò “tung hứng người lùn”
tại các hộp đêm của thành phố vì lý do xâm
phạm nhân phẩm con người. Trong khi đó,
pháp luật trao cho Thị trưởng thẩm quyền áp
dụng các biện pháp cần thiết để duy trì trật
tự công cộng (theo nghĩa truyền thống bao
gồm: an ninh, sự bình yên và vệ sinh công
cộng). Tham chính viện phán quyết rằng,
18 CE Ass., 27 octobre 1995, Commune de Morsang-sur-Orge, Rec. 372.
19 Xem: CE ord., 9 janvier 2014, Ministre de l’intérieur c. Société « Les Productions de la Plume » et M. Dieudonné
M’Bala M’Bala, n° 374508. Chính quyền cấm các buổi biểu diễn của nghệ sĩ Dieudonné vì lý do trong các buổi biểu
diễn của mình, ông này có lời lẽ bài Do thái, kích động hằn thù chủng tộc và ca ngợi sự phân biệt đối xử, đàn áp và diệt
chủng trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai.
20 CE Sect., 18 décembre 1959, Société « Les films Lutetia » et syndicat français des producteurs et exportateurs de films,
Rec. 693.
21 ATF 110 Ia 99, 102, Kress; 111 Ia 184, 186, M. ; 116 Ia 355, 356, Stéphane de Montmollin ; 118Ia 175,
22 AUBERT JEAN-FRANCOIS / MAHON PASCAL, Petit commentaire de la Constitution fédérale de la Confédération
suisse du 18 avril 1999, Zurich-BâleGenève 2003, tr.209.
nhân phẩm con người cũng là một thành tố
của trật tự công cộng mà công quyền cần
phải bảo vệ. Tương tự, hành vi ca tụng nạn
diệt chủng người Do Thái cũng bị xem là
xâm phạm trật tự công cộng19. Ngoài ra, trật
tự công cộng có thể được xem xét trong một
bối cảnh của địa phương để biện minh cho
việc hạn chế quyền. Ví dụ như việc chiếu
phim khiêu dâm, mở một cửa hàng kinh
doanh sách báo khiêu dâm có thể bị xem
là làm rối loạn trật tự công cộng xuất phát
từ điều kiện đặc thù của địa phương20. Điều
kiện, hoàn cảnh đặc thù ở đây là số lượng
lớn các cơ sở giáo dục trên địa bàn, các kiến
nghị, phản đối đến từ người dân.
Tại Thuỵ Sĩ, trật tự công cộng bao hàm
nhiều yếu tố, giá trị khác nhau. Theo Toà án
liên bang Thuỵ Sĩ, trật tự công cộng nhằm
“bảo vệ an ninh, sự yên bình, sức khoẻ, đạo
đức công cộng và tính trung thực trong kinh
doanh”21. Hai tác giả Aubert và Mahon cho
rằng, trật tự công cộng là “thứ tối thiểu cần
có cho sự chung sống cùng nhau của dân cư
của một quốc gia”22.
Một trong những nhiệm vụ thiết yếu
của Nhà nước là đảm bảo sự hài hòa của đời
sống tập thể. Sự phát triển hài hòa của đời
sống tập thể chỉ có thể được duy trì khi trật
tự công cộng được bảo đảm. Do đó, Nhà
nước có trách nhiệm đảm bảo trật tự này.
Tuy nhiên, các hành vi xâm phạm trật tự
công cộng rất đa dạng, ví dụ như xâm hại
các thể chế chính trị, cản trở hoạt động của
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 14(390) T7/2019
chính quyền, xâm phạm các quyền, tự do cá
nhân, cũng như xâm hại các giá trị đạo đức
hay vật chất mà đa số người dân thừa nhận.
Các hành vi này tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau mà các nhà lập hiến, lập pháp
không thể nào dự liệu hết. Các hành vi xâm
hại trật tự công cộng này cần phải được ngăn
chặn hoặc trừng phạt vì chúng cản trở việc
thực hiện một chức năng cơ bản của nhà
nước. Đây được xem như một nguyên tắc
hiến định bất thành văn ở Thuỵ Sĩ. Nguyên
tắc này trao cơ quan hành pháp quyền thực
hiện các biện pháp cần thiết để khôi phục
trật tự công cộng nếu nó bị xáo trộn hoặc để
bảo vệ nó khỏi một mối nguy hiểm nghiêm
trọng đe dọa nó một cách trực tiếp và sắp
xảy ra23. Trên cơ sở này, chính quyền có thể
hạn chế việc thực hiện các quyền tự do cá
nhân. Có thể kể ra án lệ liên quan đến hạn
chế quyền tự do hiệp hội24, tự do hội họp25,
tự do báo chí26, tự do thương mại và công
nghiệp27 và quyền sở hữu28.
Ngoài ra, trật tự công cộng còn có thể
hàm chứa cả yêu cầu về sức khoẻ cộng đồng
và sự yên tĩnh, thanh bình của cộng đồng.
Ví dụ, chính quyền có thể lấy lý do yên tĩnh,
thanh bình của cộng đồng để buộc các nhà
hàng ăn uống đóng cửa vào đêm khuya, hay
hạn chế kinh doanh ở khu vực nghỉ mát, điều
này làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của
người dân29. Cũng vậy, mại dâm là hợp pháp
23 RO 91 I 327.
24 RO 60 I 209 và 353, 61 I 39 và 269.
25 RO 55 I 235 ss., 57 I 272.
26 RO 60 I 121 ff.
27 RO 63 I 222, 67 I 76.
28 RO 20, tr. I 148, 88 I 176.
29 ATF 100 Ia 47, Birreria Wädenswil.
30 ATF 99 Ia 504, X.
31 ATF 108 Ia 151, Bosshard.
32 ATF 118 Ia 427, C.
33 ATF 128 I 295, Association suisse des annonceurs et consorts.
34 ATF 127 II 91, Genossenschaftsverband Schweizer Milchproduzenten.
ở Thuỵ Sĩ, nhưng chính quyền có thể cấm
mại dâm ở những tuyến đường và địa điểm
có nhiều người dân sinh sống với lý do bảo
đảm sự yên tĩnh của cộng đồng30. Việc quy
định giờ mở cửa của các hộp đêm cũng có
thể dựa trên căn cứ này31.
Lý do vì sức khỏe cộng đồng cũng là
căn cứ để áp đặt chế độ chăm sóc sức khoẻ
răng miệng đối với trẻ em ở độ tuổi đi học32.
Chế độ tiêm phòng chống các bệnh truyền
nhiễm cũng có thể được áp dụng, đặc biệt là
đối với bệnh bạch hầu, để bảo vệ sức khoẻ
của những người có nguy cơ lây nhiễm cao.
Quy định của thành phố Genève cấm
quảng cáo thuốc lá và rượu có nồng độ trên
15% tại các nơi công cộng được cho là không
xâm phạm tới quyền tự do kinh doanh lẫn
quyền sở hữu33. Không chỉ Thuỵ Sĩ mà nhiều
quốc gia đã có các đạo luật về phòng, chống
tác hại của rượu, bia hay thuốc lá. Trong đó,
có các quy định về cấm quảng cáo các sản
phẩm này trên các phương tiện truyền thông
đại chúng và nơi công cộng. Tương tự, quy
định cấm các nhà sản xuất sữa tuyên truyền
về tác dụng có lợi của canxi trong sữa, đặc
biệt là chống bệnh loãng xương là hạn chế
quyền tự do kinh doanh và tự do biểu đạt,
nhưng được biện minh bằng lý do bảo vệ
sức khoẻ cộng đồng34.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 14(390) T7/2019
4. Sự kiểm soát của Toà án đối với hạn
chế quyền
Theo luật nhân quyền quốc tế, bất cứ
biện pháp nào mà các quốc gia dự định áp
dụng nhằm hạn chế bất cứ quyền con người
nào đều cần phải tuân thủ các điều kiện sau
đây nhằm đảm bảo rằng việc hạn chế như
vậy là phù hợp:
(1) Việc giới hạn quyền phải được
quy định rõ ràng trong luật. Không chỉ vậy,
những quy định của luật đặt ra giới hạn
đối với việc thực hiện quyền cần phải: 1)
Công khai với người dân và có chỉ dẫn thích
hợp để mọi người có thể hiểu sự hạn chế
luật định đối với các quyền của họ; 2) Quy
định về giới hạn quyền trong luật phải chính
xác, rõ ràng để người dân có thể hiểu rõ và
tự điều chỉnh hành vi của họ; 3) Có những
biện pháp thích hợp để phòng ngừa việc lạm
dụng quy định giới hạn quyền, hoặc tùy tiện
đặt ra các giới hạn mới.
(2) Giới hạn đặt ra không được trái với
bản chất của các quyền bị giới hạn. Yêu cầu
này nhằm đảm bảo những giới hạn đặt ra
không làm tổn hại đến khả năng của các cá
nhân có liên quan trong việc thụ hưởng quyền
đó. Việc giới hạn quyền phải nhằm những
mục đích chính đáng/hợp pháp (legitimate
objective); biện pháp hạn chế phải hợp lý
(reasonable), cần thiết (necessary) và tương
xứng (proportion). Nghĩa là mọi giới hạn
quyền đều phải: 1) Thật sự cần thiết để đạt
được một mục tiêu hợp pháp, chính đáng; 2)
Biện pháp áp dụng chỉ để thực hiện mục tiêu
hợp pháp, chính đáng đó; 3) Các biện pháp
hạn chế không được nghiêm khắc hơn mức
độ cần thiết để đạt được mục đích của việc
giới hạn quyền.
35 CE Ass., 26 octobre 2011, Association pour la promotion de l’image, Rec. 506.
(3) Chỉ được đặt ra một giới hạn quyền
nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội
dân chủ và nhằm mục đích thúc đẩy phúc
lợi chung của cộng đồng hoặc để bảo vệ an
ninh quốc gia, an toàn của cộng đồng, trật tự
công cộng, sức khỏe cộng đồng, đạo đức xã
hội hoặc quyền tự do của người khác.
Pháp luật của các quốc gia châu Âu đòi
hỏi các hạn chế quyền, tự do cơ bản của con
người phải chịu sự kiểm tra về tính tương
xứng. Theo đó, Toà án đánh giá các biện
pháp hạn chế quyền có thực sự cần thiết,
phù hợp và tương xứng với mục đích của
việc hạn chế hay không35. Điều này nhằm
hạn chế sự tuỳ tiện của cơ quan công quyền
trong việc áp dụng các biện pháp hạn chế
quyền, đảm bảo cho các quyền, tự do cơ bản
của người dân được tuân thủ trên thực tế.
Toà án được xem là chốt chặn trong
bảo vệ quyền con người. Trong đó, Toà án
hành chính có vai trò quan trọng trong kiểm
soát các biện pháp hạn chế quyền con người
mà công quyền sử dụng, đánh giá biện pháp
hạn chế quyền do chính quyền đưa ra có
thực vì lợi ích bảo đảm trật tự công cộng
hay không. Bởi vì trên thực tế, các hành vi
hạn chế quyền, tự do cơ bản là do cơ quan
hành chính tiến hành, thông qua một quyết
định hành chính. Toà án hành chính được
xem như “người gác đền”, đảm bảo cho việc
hạn chế quyền con người tuân thủ đúng các
nguyên tắc pháp luật liên quan
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 14(390) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_chi_han_che_quyen_con_nguoi_vi_ly_do_trat_tu_cong_cong.pdf