Tiểu dầm đơn thuần nguyên phát ở trẻ em điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nhi Đồng 1

Tiểu dầm là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực bệnh lý rối loạn đi tiểu, tuy không nguy hiểm nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống và phát triển tâm sinh lý của trẻ, nhưng lại chưa được quan tâm đúng mức. Nghiên cứu nầy cho thấy tỉ lệ nam nữ tương đương nhau, tuổi thường gặp tại phòng khám là 8 tuổi. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp trên và táo bón lần lượt là 26,2% và 14%. Đa số trẻ (83,7%) đến khám tại phòng khám bệnh viện bị tiểu dầm nặng, nghĩa là > 3 lần mỗi tuần. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có uống nước chứa chất caffeine cao (70,9%). Tình trạng ngủ sâu khó đánh thức liên quan có ý nghĩa thống kê với mức độ tiểu dầm nặng. Trẻ tiểu dầm nặng có lượng nước tiểu về đêm nhiều hơn và thể tích bàng quang nhỏ hơn so với nhóm còn lại. Về điều trị bước đầu theo phác đồ của bệnh viện cho thấy có kết quả khả quan.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu dầm đơn thuần nguyên phát ở trẻ em điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nhi Đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 342 TIỂU DẦM ĐƠN THUẦN NGUYÊN PHÁT Ở TRẺ EM ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I Lê Khánh Diệu*, Huỳnh Thoại Loan* TÓM TẮT Mục tiêu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để tìm hiểu về đặc điểm trẻ tiểu dầm và các yếu tố liên quan đến tiểu dầm ở các trẻ được đưa đến khám tại phòng khám bệnh viện Nhi Đồng 1. Phương pháp và đối tượng: Tất cả các trẻ trên 5 tuổi có chẩn đoán tiểu dầm được đưa vào nghiên cứu. Các số liệu thu thập được dựa trên bảng câu hỏi và nhật kí đi tiểu của trẻ, bao gồm: tuổi, giới tính, tiền căn các bệnh lý thần kinh, tiền căn bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp trên, tiền căn gia đình, tình trạng khó đánh thức, uống nhiều nước chứa caffeine, thể tích bàng quang ước lượng dựa theo tuổi, thể tích bàng quang tối đa, lượng nước tiểu ban đêm, lượng nước uống sau 17 giờ và lượng nước uống trong ngày. Trẻ tiểu dầm được chia làm 2 mức độ: tiểu dầm nặng >3 đêm/ tuần (72 bệnh nhân, 83,7%) và tiểu dầm nhẹ 3 đêm/ tuần (13 trường hợp, 15,1%). Các yếu tố liên quan đến tiểu dầm được phân tích dựa vào mức độ nặng. Tất cả các biến số được thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 và yếu tố liên quan đến độ nặng của tiểu dầm được kiểm định bằng phương pháp Chi-square và t- test với p ≤ 0,05. Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 86 trẻ tuổi từ 5 đến 15 tuổi. Tỉ lệ nam: nữ là 1:1, tuổi thường gặp là 8 tuổi. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có táo bón, tắc nghẽn đường hô hấp trên, uống nước chứa caffeine và khó đánh thức khi ngủ lần lượt là 14%, 26%, 70% và 66%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm nặng là 84,7%. Sau 1 tháng điều trị theo phác đồ, 87,9% trẻ có đáp ứng. Dung tích bàng quang nhỏ và lượng nước tiểu ban đêm nhiều được ghi nhận ở trẻ tiểu dầm nặng. Tình trạng ngủ khó đánh thức có sự liên quan với mức độ tiểu dầm nặng với p ≤ 0,05. Kết luận: Đa số trẻ tiểu dầm đến khám tại phòng khám Thận bệnh viện Nhi đồng 1 ở mức độ nặng (> 3 đêm mỗi tuần). Tỉ lệ nam nữ tương đương nhau, lứa tuổi thường gặp nhất là 8 tuổi. Đa số trẻ đáp ứng điều trị sau 1 tháng. Tình trạng ngủ sâu khó đánh thức có sự liên quan có ý nghĩa thống kê với mức độ tiểu dầm nặng. Từ khóa: tiểu dầm, trẻ em, đa niệu, thể tích bàng quang. ABSTRACT PRIMARY NOCTURNAL ENURESIS IN OUTPATIENT AT CHILDREN'S HOSPITAL 1 Le Khanh Dieu, Huynh Thoai Loan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 342 - 348 Objective: The aims of this study were to determine the characteristic of enuretic children and investigate the factors associated with nocturnal enuresis at Children Hospital Number 1. Subject and methods: All enuretic children over 5 years old who admitted at nephrology outpatient clinic of Children Hospital Number 1 were included in the research. We recorded the information in the questionnaires and bladder diaries, include: age, gender, family history, neurologic disorder, history of upper airway obstruction, deep sleep, constipation, expected bladder capacity, maximum voided volume, nocturnal urine volume, fluid intake and fluid intake after 17 hour. Patients were divided into 2 groups: ≤ 3 nights per week and > 3 wet nights per week. We determine factors associated based on the severity of enuresis. Data was calculated by SPSS 16.0 * Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tp HCM Tác giả liên hệ: Bs Lê Khánh Diệu ĐT: 0903870670 Email: lepkhanhdieu@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 343 and the associted factors for the severity of enuresis were investigated by Chi-square and t-test with p ≤ 0.05. Results: The study group was composed of 59 children aged between 5 and 15 years. The propotion of boys: girls was 1:1, the most common age was 8. The prevalence of enuretic chidren had constipation, upper airway obstruction, caffeine based drinks and deep sleep was 14%, 26%, 70% and 66% alternatively. The prevalence of severe enuretic children was 84.7%. After 1 month of treatment, 87.9% children responsed with treatment. Small bladder and nocturnal polyuria were recognized in severe enuretic children. Deep sleep was associated in children with severe enuresis with p=0.05. Conclusion: Almost enuretic children who admitted at nephrology outpatient clinic were severe (more than 3 wet nights per week). Boys and girls have the same prevalence of enuresis, the most common age was 8. Deep sleep was associated in children with > 3 wet nights per week. Key words: Enuresis, children, polyuria, bladder capacity. MỞ ĐẦU Tiểu dầm đơn thuần nguyên phát là một vấn đề thường gặp ở trẻ. Bệnh lý tiểu dầm tuy không trực tiếp gây tử vong nhưng ảnh hưởng lớn đến tình trạng tâm sinh lý của trẻ và gia đình(4). Tiểu dầm có thể dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống và tình trạng căng thẳng đối với trẻ và gia đình. Ngoài ra, trẻ tiểu dầm có thể gặp một số khó khăn trong việc học, khả năng phát triển về ngôn ngữ và ảnh hưởng đến cân nặng, chiều cao của trẻ(1,4,6). Tần suất của bệnh tiểu dầm thay đổi từ 7-14% theo các báo cáo ở Nhật, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh(2,3,13,15). Tần suất trẻ tiểu dầm ở Trung Quốc và Hồng Kông thì ghi nhận ít hơn(7,16). Hầu hết các nghiên cứu đều đưa ra các yếu tố nguy cơ của tiểu dầm nguyên phát là: trẻ nam, độ tuổi nhỏ, tiền sử trong gia đình có người bị tiểu dầm nguyên phát, cha mẹ ly dị, tình trạng ngủ sâu khó đánh thức, kích thước bàng quang nhỏ và rối loạn đi tiểu vào ban ngày(2,7,8,3,16). Ngoài ra, một số các nghiên cứu khác cũng cho thấy tình trạng kinh tế gia đình thấp, trẻ sống một mình hay cân nặng lúc sinh thấp cũng là các yếu tố nguy cơ của tiểu dầm nguyên phát. Hiện nay, tại Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng chưa có một nghiên cứu tổng quan nào về bệnh lý tiểu dầm và những yếu tố liên quan đến tiểu dầm ở trẻ em, do đó đây là lĩnh vực cần được tìm hiểu. Chính vì những lý do đó nên chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi thiết kế nghiên cứu mô tả hàng loạt các trường hợp bệnh với tất cả các trẻ em đến khám vì tiểu dầm tại phòng Khám Thận Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 8/2011 đến tháng 12/2011. Tất cả các trẻ trên 5 tuổi được chẩn đoán tiểu dầm đều được đưa vào trong nghiên cứu. Các số liệu thu thập bao gồm: tuổi, giới tính, tiền căn các bệnh lý về thận niệu, thần kinh, hô hấp, tiền căn gia đình, tình trạng táo bón, uống nước chứa chất caffeine, tình trạng ngủ sâu khó đánh thức, số đêm tiểu dầm trong tuần, phương pháp điều trị và số đêm tiểu dầm sau điều trị dựa trên bảng câu hỏi khảo sát cha, mẹ hoặc người thân của trẻ. Các thông số về thể tích bàng quang ước lượng dựa theo tuổi, thể tích bàng quang tối đa, lượng nước tiểu ban đêm, lượng nước uống sau 17 giờ và lượng nước uống trong ngày được ghi nhận dựa vào nhật ký bàng quang của trẻ trong 3 ngày liên tiếp. Chúng tôi loại trừ khỏi nghiên cứu các trường hợp tiểu dầm xuất hiện dưới 5 tuổi, tiểu dầm mới xuất hiện trở lại sau khi ngưng tiểu dầm 6 tháng và các trường hợp tiểu dầm đã được điều trị. Theo tổ chức Quốc tế về Tiểu không tự chủ ở Trẻ em (International Children’s Continence Society)(3), tiểu dầm được định nghĩa là tình trạng thoát nước tiểu không tự chủ khi trẻ ngủ vào ban đêm. Tiểu dầm nguyên phát là tình trạng tiểu dầm liên tục từ nhỏ không có khoảng thời gian ngưng tiểu dầm. Tiểu dầm thứ phát Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 344 được định nghĩa là tình trạng tiểu dầm xảy ra lại sau một khoảng thời gian 6 tháng trẻ không bị tiểu dầm. Đa niệu về đêm được định nghĩa là thể tích nước tiểu ban đêm > 130% so với thể tích bàng quang ước lượng. Dung tích bàng quang nhỏ khi < 70% dung tích bàng quang ước lượng. Dung tích bàng quang ước lượng được tính toán dựa theo công thức: Dung tích bàng quang ước lượng = (30 x tuổi) + 30 (ml). Về điều trị, chúng tôi áp dụng theo phác đồ điều trị tiểu dầm của tổ chức Quốc tế về Tiểu không tự chủ ở Trẻ em(11). Tất cả các trẻ đều được hướng dẫn điều trị hỗ trợ dựa vào thăm hỏi bệnh sử và ghi nhận thể tích bàng quang, lượng nước uống trong nhật ký đi tiểu của từng trẻ. Trẻ có tình trạng đa niệu về đêm được điều trị hormone kháng bài niệu desmopressin liều từ 1- 4 mg uống trước ngủ 1 giờ. Trẻ có dung tích bàng quang nhỏ kèm triệu chứng rối loạn đường tiểu ban ngày được điều trị thuốc kháng cholinergic oxybutinin với liều 5 mg/ngày. Ngoài ra, trẻ > 7 tuổi và tiểu dầm ảnh hưởng đến tâm sinh lý và cuộc sống của trẻ cũng được điều trị với desmopressin. Về đáp ứng điều trị, chúng tôi dựa vào tiêu chuẩn của Tổ chức Quốc tế về Tiểu không tự chủ ở Trẻ em(12): đáp ứng nếu số đêm tiểu dầm giảm trên 90% so với trước điều trị, đáp ứng một phần nếu số đêm tiểu dầm giảm từ 50% đến 89% so với trước điều trị và không đáp ứng nếu số đêm tiểu dầm giảm dưới 50% so với trước điều trị. Chúng tôi đánh giá các yếu tố kết hợp với mức độ tiểu dầm dựa vào tiểu dầm > 3 hay ≤ 3 đêm một tuần. Tất cả các biến số sẽ thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0, trình bày dưới dạng bảng. Các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của tiểu dầm được tình toán dựa theo phương pháp Chi-square và t-test với giá trị p ≤ 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Dịch tễ học Trong nghiên cứu chúng tôi gồm 86 trẻ, tỉ lệ nam: nữ là 1:1. Đa số trẻ sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm tỉ lệ 81,4%. Độ tuổi trung bình: 8,84 ± 2,19 (năm). Tuổi nhỏ nhất 5 tuổi, tuổi lớn nhất 15 tuổi. Trẻ 8 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong nghiên cứu (27,9%). Tiền căn, bệnh lý kèm theo Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp trên như viêm amygdale, viêm VA là 26,2%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có bệnh lý ảnh hưởng đến tâm thần kinh như chậm phát triển, tăng động kém tập trung là 10,4%. Tiền căn gia đình có người bị tiểu dầm: tỉ lệ bé có cha, mẹ và anh chị em bị tiểu dầm lần lượt là 9,5%, 11,9% và 19,8%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có kèm theo táo bón, uống nước có chứa chất caffein lần lượt là 14% và 70,9%. Đặc điểm trẻ tiểu dầm (bảng 1) Về mức độ tiểu dầm, đa số trẻ tiểu dầm trên 3 lần mỗi tuần với tỉ lệ là 83,7%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có rối loạn đi tiểu ban ngày là 25%. Tình trạng ngủ sâu khó đánh thức, dung tích bàng quang nhỏ và tình trạng đa niệu về đêm lần lượt là 69,8%, 46,5% và 31,3%. Bảng 1: Đặc điểm trẻ tiểu dầm Đặc điểm n(%) Giới Nam Nữ Táo bón Uống nước chứa caffeine Ngủ sâu Đa niệu về đêm Dung tích bàng quang nhỏ Tắc nghẽn đường hô hấp trên Tiền căn bệnh lý thần kinh Tiền căn gia đình có tiểu dầm Cha Mẹ Anh/ Chị/ Em Độ nặng của tiểu dầm ≤ 3 lần/ tuần > 3 lần/ tuần 41 (47,7) 45 (52,3) 12 (14) 61 (70,9) 60 (69,8) 40 (46,5) 27 (31,3) 22 (26,2) 9 (10,4) 8 (9,5) 10 (11,9) 17 (19,8) 14 (16,3) 72 (83,7) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 345 n: số lượng trẻ tiểu dầm Điều trị (bảng 2) Về phương pháp điều trị, tất cả các trường hợp đều được hướng dẫn điều trị hỗ trợ dựa vào nhật ký đi tiểu và thăm hỏi bệnh sử. Trong đó, 69,8% trẻ được điều trị Desmopressin và 5% trẻ được điều trị với oxybutinin. Sau 1 tháng điều trị, có 34 trường hợp bệnh nhân tái khám, trong đó 87,9% trường hợp trẻ đáp ứng với điều trị. Bảng 2: Đặc điểm liên quan đến điều trị Đặc điểm n(%) Phương pháp điều trị Điều trị hỗ trợ đơn thuần 31 (36,1) Đặc điểm n(%) Desmopressin Oxybutinin Đáp ứng sau điều trị Hoàn toàn Một phần Không đáp ứng 51 (69,8) 4 (5,1) 19 (57,6) (30,3) 4 (12,1) Các yếu tố liên quan đến mức độ tiểu dầm (bảng 3) Chúng tôi chia trẻ tiểu dầm thành 2 nhóm: tiểu dầm nặng và tiểu dầm nhẹ dựa vào số đêm tiểu dầm trong tuần. Trong nghiên cứu của chúng tôi 72 trường hợp là tiểu dầm mức độ nặng. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 346 Bảng 3: Các yếu tố liên quan tới mức độ tiểu dầm: Trẻ tiểu dầm < 3 lần mỗi tuần (n = 14) Tỉ lệ trẻ tiểu dầm > 3 lần mỗi tuần (n = 72) Giá trị p Tuổi Thể tích bàng quang tối đa Lượng nước tiểu ban đêm Giới tính: +Nam +Nữ Tiền căn gia đình: +Cha +Mẹ Bệnh lý tâm thần kinh Tắc nghẽn hô hấp trên Ngủ sâu Táo bón Uống nước có chứa caffein 9,62 ± 2,36 297,5 ± 95,87 301, 11 ± 137,79 7 (50) 7 (50) 3 (21,4) 3 (21,4) 1(7,1) 6 (42,8) 7 (50,0) 2 (14,2) 8 (57,1) 8,71 ± 2,14 250,23 ± 92,75 407,34 ± 169,52 34 (47,2) 38 (52,7) 5 (6,9) 7 (9,7) 8 (11,1) 16 (22,2) 55 (76,3) 10 (13,9) 53 (73,6) 0,21 * 0,22 * 0,07 * 0,53 † 0,10 † 0,18 † 0,55 † 0,07 † 0,05 † 0,62 † 0,17 † Các kết quả được trình bày với giá trị trung bình ± độ lệch chuần và số lượng (tỉ lệ %) *: t- test †: Chi-square test Vậy tình trạng ngủ sâu khó đánh thức liên quan có ý nghĩa thống kê với mức độ nặng của tiểu dầm với giá trị p = 0,05. BÀN LUẬN Tiểu dầm là tình trạng thoát nước tiểu không tự chủ khi trẻ ngủ vào ban đêm. Tần suất trẻ bị tiểu dầm rất thay đổi từ 8 - 17,6% tùy theo khu vực. Tại châu Á, theo tác giả P. Chang(3) tần suất bị trẻ bị tiểu dầm tại Đài Loan là 8%, điều này cũng tương tự như các nghiên cứu tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên theo tác giả Yueng CK(16) nghiên cứu trên trẻ từ 4-12 tuổi ở Hồng Kông thì tần suất trẻ bị tiểu dầm là 3,5%. Tác giả Jian Guo Wen(7) nghiên cứu trên 10088 trẻ tại Trung Quốc thì tần suất tiểu dầm là 4,07%. Cho đến nay, tại Việt Nam cũng như Thành phố Hồ Chí Minh chưa có nghiên cứu nào trên cộng đồng về vấn đề này, do vậy chúng tôi không ghi nhận được tỷ lệ trẻ tiểu dầm trong dân số. Về đặc điểm nhân trắc học của trẻ bị tiểu dầm, đa phần các tác giả đều cho rằng trẻ nam thường bị tiểu dầm hơn. Tác giả P. Chang(3) qua nghiên cứu 1176 trường hợp tại Hồng Kông ghi nhận có 92 trường hợp trẻ bị tiểu dầm, trong đó chiếm 2/3 là trẻ nam. Tác giả Jian Guo Wen(7) cho thấy tình trạng tiểu dầm ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ và sự khác biết này có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên trong từng nhóm tuổi thì tỉ lệ nam nữ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nam: nữ là tương đương nhau. Điều này có thể do nghiên cứu chúng tôi được thực hiện tại phòng khám với số lượng bệnh nhân không nhiều, do vậy cần những nghiên cứu trên cộng đồng để xác định chính xác tỉ lệ nam, nữ trong dân số trẻ bệnh tiểu dầm ở Việt Nam. Về nhóm tuổi, tuổi trung bình trong nghiên cứu chúng tôi là 8 tuổi, điều này cũng tương tự với tác giả Lawless. Tác giả P.Chang(3) và Wen(7) nhận thấy tiểu dầm thường ở lứa tuổi 6-7 tuổi và tần suất tiểu dầm giảm dần theo sự trưởng thành của trẻ. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy tần suất tiểu dầm tăng lên ở lứa tuổi 8-10 tuổi. Số lượng trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi nhỏ và đây không phải là một nghiên cứu trên cộng đồng. Tiểu dầm chưa phải là một vấn đề được quan tâm tại một số quốc gia trong đó có Việt Nam và Ấn Độ(14), do vậy trẻ chỉ được đưa đến phòng khám khi trẻ lớn mà vẫn còn bị tiểu dầm. Về mức độ tiểu dầm, tỉ lệ trẻ tiểu dầm > 3 đêm trong 1 một tuần thay đổi từ 5-28%(7,3,16). Nghiên cứu khác tại Hàn Quốc khảo sát các bệnh nhân đến khám phòng khám, tác giả Kim(10) nhận thấy 54,5% trẻ tiểu dầm mỗi ngày, tương tự với nghiên cứu của chúng tôi với tỉ lệ trẻ tiểu dầm mỗi ngày là 63,9%. Như vậy, trẻ có mức độ tiểu dầm nặng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống gia đình và bản thân thì mới Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 347 được cha mẹ quan tâm và đưa trẻ đến khám tại phòng khám. Ngoài giới tính nam và độ tuổi, đa phần các nghiên cứu đều cho rằng yếu tố di truyền, tình trạng ngủ khó đánh thức, rối loạn bàng quang, chậm phát triển và rối loạn thần kinh là các yếu tố nguy cơ của tiểu dầm. Tác giả Lawless(9) cho rằng có 70% trẻ bị tiểu dầm có tiền sử bố hoặc mẹ bị tiểu dầm lúc nhỏ. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng nếu bố hoặc mẹ bị tiểu dầm thì có tới 40% đến 45% khả năng trẻ sinh ra sẽ bị tiểu dầm. Tác giả P. Cheng(3) nhận thấy có khoảng 30% trẻ tiểu dầm có cha mẹ tiểu dầm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p< 0.001, tuy nhiên tác giả không thấy có sự liên quan giữa yếu tố tiền căn gia đình và mức độ trầm trọng của tiểu dầm ở trẻ. Tác giả Wen(7) cũng nhận thấy có sự liên quan giữa tiền căn gia đình và trẻ tiểu dầm (p< 0.05) và tỉ lệ bố mẹ tiểu dầm là 22,3%. Trong nghiên cứu chúng tôi tiền căn gia đình có người tiểu dầm chiếm 21,4% ở bố mẹ và 19,8 % ở anh em và chúng tôi cũng không thấy có sự liên quan giữa tiền căn gia đình và mức độ tiểu dầm. Tình trạng chậm phát triển tâm thần và táo bón cũng là những yếu tố nguy cơ gây tình trạng tiểu dầm theo tác giả P.Cheng(3). Tuy nhiên theo tác giả Kim(8) tỉ lệ táo bón chiếm khoảng 12,9% và táo bón không liên quan đến mức độ nặng của tiểu dầm. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ táo bón và chậm phát triển tâm thần lần lượt là 14% và 10,4%, tuy nhiên cả hai tình trạng này đều không liên quan có ý nghĩa thống kê đến mức độ nặng của tiểu dầm. Đối với trẻ bình thường, khi bàng quang đầy sẽ phát tín hiệu lên bộ não đánh thức trẻ dậy để đi tiểu. Trẻ tiểu dầm thường có tình trạng ngủ sâu khó đánh thức nên các tín hiệu của bàng quang không đánh thức được trẻ gây nên tình trạng tiểu dầm khi ngủ(9). P. Cheng(3) qua 1176 trường hợp cho thấy có 15% trẻ có tình trạng ngủ sâu khó đánh thức và sự liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng tiểu dầm (p < 0,0001). Tác giả Wen(7) cũng cho thấy có sự liên quan giữa tình trạng ngủ sâu khó đánh thức (57,42%) và tiểu dầm (p = 0,002). Trong nghiên cứu chúng tôi, tình trạng ngủ sâu khó đánh thức gặp ở 69,8% các trường hợp và có sự liên quan với mức độ tiểu dầm nặng > 3 đêm mỗi tuần (p= 0,05). Theo tác giả Néveus, tình trạng thể tích bàng quang nhỏ, tình trạng tăng thải nước tiểu vào ban đêm và ngủ sâu khó đánh thức là những nguyên nhân gây tiểu dầm(6). Chúng tôi ghi nhận có 31,3% trẻ có thể tích bàng quang nhỏ hơn so với thể tích bàng quang ước lượng theo tuổi và 46,5% trẻ có tình trạng đa niệu vào ban đêm. Tình trạng đa niệu vào ban đêm được giải thích là do thiếu hormone Vasopressin tiết ra vào ban đêm(10). Khi so sánh thể tích bàng quang tối đa và lượng nước tiểu về đêm của 2 nhóm bệnh nhân, chúng tôi ghi nhận thể tích bàng quang tối đa của trẻ tiểu dầm nặng nhỏ hơn so với nhóm còn lại, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra chúng tôi cũng ghi nhận lượng nước tiểu vào ban đêm của nhóm trẻ tiểu dầm nặng nhiều hơn so với nhóm còn lại, tuy nhiên sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của tác giả Kim(8) trên 101 bệnh nhân ghi nhận độ nặng của tiểu dầm liên quan có ý nghĩa thống kê với dung tích bàng quang nhỏ và tỉ trọng nước tiểu vào lúc sáng sớm thấp. Chúng tôi hi vọng những nghiên cứu sau với mẫu số lớn hơn, chúng tôi sẽ ghi nhận được kết quả có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Về điều trị, chúng tôi dựa theo khuyến cáo của Tổ chức quốc tế về Tiểu không tự chủ ở Trẻ em(11). Tất cả các trường hợp trẻ tiểu dầm đều được hướng dẫn điều trị hỗ trợ sau khi phân tích bảng theo dõi lượng nước uống và lượng nước tiểu của trẻ mỗi ngày. Điều trị hỗ trợ bao gồm hướng dẫn trẻ uống nước thích hợp (40% vào buổi sáng, 40% vào buổi trưa và 20% sau 17 giờ), hướng dẫn trẻ đi tiểu theo khoảng thời gian nhất định, tư thế trẻ khi đi tiểu, điều trị táo bón kèm theo, hạn chế sử dụng thức uống có chứa caffeine (nước ngọt, trà, cà phê). Phương pháp báo thức có hiệu quả trên 2/3 trẻ tiểu dầm. Trẻ tiểu dầm được gắn một thiết bị báo động và Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 348 thiết bị này sẽ phát tín hiệu ngay khi trẻ bắt đầu tiểu dầm. Hiện nay tại Việt Nam chưa có thiết bị báo thức nên chúng tôi chưa áp dụng điều trị theo phương pháp này cho trẻ. Về thuốc Desmopressin, theo ghi nhận của Tổ chức quốc tế về Tiểu không tự chủ ở Trẻ em, 30% trẻ đáp ứng hoàn toàn với thuốc và 40% trẻ đáp ứng một phần với thuốc. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 62,1% trẻ đáp ứng hoàn toàn và 27,6% trẻ đáp ứng một phần. Điều trị Oxybutinin được ghi chỉ định ở 4 trẻ tiểu dầm kèm triệu chứng rối loạn đường tiểu ban ngày và sau 1 tháng điều trị, không có trẻ nào đáp ứng hoàn toàn và chỉ có 1 trẻ đáp ứng một phần. Theo khuyến cáo, thuốc này có nhiều tác dụng phụ nên chỉ được nên điều trị ở những trẻ có triệu chứng bàng quang kích thích. KẾT LUẬN Tiểu dầm là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực bệnh lý rối loạn đi tiểu, tuy không nguy hiểm nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống và phát triển tâm sinh lý của trẻ, nhưng lại chưa được quan tâm đúng mức. Nghiên cứu nầy cho thấy tỉ lệ nam nữ tương đương nhau, tuổi thường gặp tại phòng khám là 8 tuổi. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp trên và táo bón lần lượt là 26,2% và 14%. Đa số trẻ (83,7%) đến khám tại phòng khám bệnh viện bị tiểu dầm nặng, nghĩa là > 3 lần mỗi tuần. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có uống nước chứa chất caffeine cao (70,9%). Tình trạng ngủ sâu khó đánh thức liên quan có ý nghĩa thống kê với mức độ tiểu dầm nặng. Trẻ tiểu dầm nặng có lượng nước tiểu về đêm nhiều hơn và thể tích bàng quang nhỏ hơn so với nhóm còn lại. Về điều trị bước đầu theo phác đồ của bệnh viện cho thấy có kết quả khả quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Birenbaum TK, Cunha MC, Oral language disorders and enuresis in children (2010). Pro Fono; 22(4): p. 459-64. 2. Byrd RS, Weitzman M, Lanphear NE, Auinger P (1996). Bed- wetting in US children: epidemiology and related behavior problems. Pediatrics, 98: p. 414-9. 3. Chang P, Chen WJ, Tsai WY and Chiu YN (2001). An epidemiological study of nocturnal enuresis in Taiwanese children. BJU International, 87: p. 678–1. 4. Esposito M, C.M. (2011). Roccella M, Primary nocturnal enuresis and learning disability. Minerva Pediatr., 63(2): p. 99-104. 5. Foxman B, Valdez RB, Brook RH (1986). Childhood enuresis: prevalence, perceived impact, and prescribed treatments. Pediatrics, 77: p. 482–7. 6. Ghahramani M, Basirymoghadam M, Ghahramani AA (2008). Nocturnal Enuresis and its Impact on Growth. Iran J Pediatr, 18(2): p. 167-170. 7. Jian Guo Wen, Qing Wei Wang, Yue Chen et al (2006). An Epidemiological Study of Primary Nocturnal Enuresis in Chinese Children and Adolescents. European urology, 49: p. 1107–13. 8. Kim JM (2012). Diagnostic Value of Functional Bladder Capacit, Urine Osmolality, and Daytime Storage Symptomps for Severity of Nocturnal Enuresis. Korean J Urol, 53: p. 114-119. 9. Lawless MR, McElderry DH (2001). Noctural Enuresis: Current Concepts. Pediatr Rev, 22: p. 399-407. 10. Nevéus T (2011). Nocturnal enuresis—theoretic background and practical guidelines. Pediatric Nephrol, 26: p. 1207–1214. 11. Nevéus T, Eggert P, Evans J (2010). Evaluation of and Treatment for Monosymptomatic Enuresis: A Standardization Document From the International Children’s Continence Society. The Journal of Urology, 183: p. 441-447. 12. Nevéus T, Gontard AV, Hoebeke P (2006). The Standardization of Terminology of Lower Urinary Tract Function in Children and Adolescents: Report from the Standardisation Committee of the International Children’s Continence Society. The Journal of Urology, 176: p. 314-324. 13. Serel TA, Akhan G, Koyuncuogˇlu R et al (1997). Epidemiology of enuresis in Turkish children. Scand J Urol Nephrol, 31: p. 537– 9. 14. Sousa AD, Kapoor H, Jagtap J (2007). Prevalence and factors affecting enuresis amongst primary school children. Indian J Urol., 23(4): p. 354-357. 15. Watanabe H, Kawauchi A (1994). Nocturnal enuresis: social aspects and treatment perspectives in Japan. Scand J Urol Nephrol, 163 (Suppl.): p. 29–38. 16. Yeung CK (1997). Nocturnal enuresis in Hong Kong: different Chinese phenotypes. Scand J Urol Nephrol, 183 (Suppl.): p. 17– 21.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_dam_don_thuan_nguyen_phat_o_tre_em_dieu_tri_ngoai_tru_t.pdf
Tài liệu liên quan