1.Tài khoản vãng lai:
1.1) Khái niệm:
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước.
Thành phần chính của tài khoảng vãng lai:
– Cán cân mậu dịch: là tổng hợp các thanh toán phát sinh trong giao dịch thương mại Quốc tế, để chi trả tiền hàng hóa và dịch vụ xuất và nhập khẩu.
Cán cân mậu dịch ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng.
Cán cân mậu dịch = Xuất khẩu – nhập khẩu.
Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân mậu dịch có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân mậu dịch có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân mậu dịch ở trạng thái cân bằng.
– Cán cân dịch vụ: là số tiền chi trả thuần tiền lãi và lợi tức cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như số tiền thu và chi từ du lịch Quốc tế và các giao dịch khác.
Phản ánh các khoản thu chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải (cước phí vận chuyển, thuê tàu, bến bãi, ), du lịch, bưu chính, cố vấn pháp luật, bản quyền, bằng phát minh
Thực chất cán cân dịch vụ là cán cân mậu dịch nhưng gắn với việc xuất nhập khẩu dịch vụ.
– Chuyển giao đơn phương: bao gồm các khoản biếu tặng hay viện trợ của Chính phủ và tư nhân.
1.1.2) Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai:
- Ảnh hưởng của lạm phát:
Lạm phát tăng → mua hàng nước ngoài tăng → giảm cán cân tài khoản vãng lai.
xuất khẩu sang nước khác giảm
Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch thì tài khoản vãng lai của các quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới cán cân mậu dịch của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.Tài khoản vãng lai:
1.1) Khái niệm:
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước.
Thành phần chính của tài khoảng vãng lai:
– Cán cân mậu dịch: là tổng hợp các thanh toán phát sinh trong giao dịch thương mại Quốc tế, để chi trả tiền hàng hóa và dịch vụ xuất và nhập khẩu.
Cán cân mậu dịch ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng.
Cán cân mậu dịch = Xuất khẩu – nhập khẩu.
Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân mậu dịch có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân mậu dịch có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân mậu dịch ở trạng thái cân bằng.
– Cán cân dịch vụ: là số tiền chi trả thuần tiền lãi và lợi tức cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như số tiền thu và chi từ du lịch Quốc tế và các giao dịch khác.
Phản ánh các khoản thu chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải (cước phí vận chuyển, thuê tàu, bến bãi,…), du lịch, bưu chính, cố vấn pháp luật, bản quyền, bằng phát minh …
Thực chất cán cân dịch vụ là cán cân mậu dịch nhưng gắn với việc xuất nhập khẩu dịch vụ.
– Chuyển giao đơn phương: bao gồm các khoản biếu tặng hay viện trợ của Chính phủ và tư nhân.
1.1.2) Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai:
- Ảnh hưởng của lạm phát:
Lạm phát tăng → mua hàng nước ngoài tăng → giảm cán cân tài khoản vãng lai.
xuất khẩu sang nước khác giảm
Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch thì tài khoản vãng lai của các quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
Hình 1: Thâm hụt cán cân thương mại nhìn từ góc độ tỷ giá hối đoái
S$
TỶ GIÁ VND/USD
D$
Thâm hụt
PHÁ GIÁ
LƯỢNG USD
Việc phá giá đồng tiền trong nước sẽ góp phần làm giảm thâm hụt thương mại
Thâm hụt thương mại được xem xét trong mối quan hệ với tỷ giá hối đoái cho nên việc nâng giá hoặc giảm giá đồng tiền sẽ góp phần cải thiện cán cân thương mại.Từ cách tiếp cận trên có thể thấy thâm hụt thương mại có nguyên nhân trực tiếp ở việc định giá cao đồng tiền trong nước. Việc thâm hụt sẽ càng tăng khi đồng tiền trong nước lên giá mạnh.
Đồng thời, ở khía cạnh ngược lại, tình trạng thâm hụt càng lớn khả năng giảm giá đồng tiền càng cao mà ở mức độ lớn hơn là đồng tiền trong nước có thể bị phá giá để bảo đảm cán cân thương mại được cải thiện hay để lấy lại điểm cân bằng mới. Đây là biện pháp mà nhiều nước đã từng áp dụng như Hoa Kỳ áp dụng năm 1971 và 1973 để phá giá đồng đô la. Năm 1986, đồng Yên buộc phải nâng giá so với các ngoại tệ khác đã làm cho hàng hoá Nhật Bản trở nên kém tính cạnh tranh hơn so với các hàng hoá nước khác. Năm 1994, Trung Quốc đã áp dụng biện pháp phá giá đồng nhân dân tệ để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc và cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á năm 1997 đã gây tình trạng phá giá hàng loạt các đồng tiền, sau đó 1-1.5 năm, cán cân thương mại các nước đã được cải thiện đáng kể. Từ góc nhìn tỷ giá và thâm hụt thương mại, biện pháp phá giá đồng tiền được coi là giải pháp thường được lựa chọn hơn cả. Song trong điều kiện hiện tại, việc phá giá đồng tiền chịu tác động của nhiều loại ràng buộc khác nhau như khả năng trả đũa của các đối tác thương mại, năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu chua hẳn đã được cải thiện đáng kể nhờ phá giá, các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau về thương mại và đầu tư và những mặt trái của hoạt động phá giá đối với nền kinh tế trong nước như việc tăng giá của các hàng hoá nhập khẩu gây ra lạm phát nhập khẩu...
Đối với Việt Nam, việc phá giá đồng tiền chưa phải là sự lựa chọn tối ưu trong điều kiện hiện tại đặc biệt về khả năng kiểm soát tình hình giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế sau khi phá giá của Việt Nam còn rất hạn chế, các công cụ điều chỉnh tỷ giá chưa được thực tế khẳng định độ tin cậy và các giao dịch ngầm trong nền kinh tế còn rất lớn, tình trạng đô- la hoá còn nặng và khả năng kiểm soát khu vực tư nhân còn chưa cao...
Cách tiếp cận thứ hai, tiếp cận cán cân thương mại từ góc độ các yếu tố cấu thành tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Công thức xác định GDP được thể hiện như sau:
Y = C + I + G + X – M (1)
Trong đó Y là GDP, C là tiêu dùng của dân cư, I là đầu tư, G là chỉ tiêu của chính phủ, X- M là cán cân thương mại.
Vì Y = C+S + T (2) và S là tiết kiệm, T là khoản thu thuế của chính phủ
Kết hợp công thức (1) và (2) thu được:
(S – I) + (T - G) = X - M
Cán cân thương mại được đo lường bằng tổng mức tiết kiệm ròng của tư nhân và mức tiết kiệm ròng của chính phủ. Công thức trên còn cho thấy mối quan hệ giữa các cân đối trong nước và cân đối đối ngoại. Những mất cân đối đối ngoại đặc biệt là cân đối cán cân thương mại có thể được sửa chữa bằng các tác động của các cân đối đối nội. Biện pháp để cải thiện cán cân thương mại từ cách tiếp cận này cho thấy cần tăng mức tiết kiệm trong dân cư và tiết kiệm trong chi tiêu của chính phủ hoặc cố gắng để cải thiện tình hình thu thuế...Trong các biện pháp được đề xuất từ góc độ tiếp cận này có thể thấy việc cắt giảm chi tiêu của chính phủ và cắt giảm chi tiêu của tư nhân là biện pháp có tác động tới việc cải thiện cán cân thương mại. Các khoản chi tiêu lớn chưa thật cần thiết có thể điều chỉnh lại tiến độ giải ngân, hạn chế việc nhập khẩu càng hàng hoá tiêu dùng tư nhân xa xỉ...bằng các biện pháp tăng thuế hoặc hạn chế định lượng song phải cố gắng tuân thủ các cam kết trong WTO. Biện pháp điều chỉnh thâm hụt thương mại từ việc điều chỉnh các yếu tố cầu thành GDP tạo ra được sự ổn định dài hạn hơn so với các giải pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nếu kết hợp cả hai cách tiếp cận trên sẽ tạo ra được một hệ thống các giải pháp đồng bộ và đa dạng nhằm giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Điều đó cho thấy vấn đề thâm hụt cán cân thương mại không đơn thuần chỉ giải quyết bằng một biện pháp mà cần thực hiện trong một hệ thống các giải pháp đồng bộ.
Cán cân vãng lai từ năm 2007-2010:
2007
2008
2009
2010
Tài khoản vãng lai
(7)
(10.787)
(7.440)
(6.050)
1.cán cân thương mai
(10.483)
(12.782)
(8.306)
(8.200)
2.dịch vụ ròng
(897)
(915)
(1.129)
550
3.chuyển tiền ròng
6.43
7.311
6.527
6.900
4.thu nhập từ đầu tư ròng
(2.190)
(4.401)
(4.532)
(4.200)
Năm có thâm hụt tài khoản vãng lai cũng như cán cân thương mại lớn nhất trong mười năm gần đây nhất là năm 2008, mức thâm hụt tài khoản vãng lai là 10.787 tỷ USD,thâm hụt cán cân thương mại lên tới gần 12.782 tỷ USD.
Nguyên nhân:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 là cụm từ được giới báo chí sử dụng để chỉ tình trạng bất ổn định tài chính như đói tín dụng và thu hồi nợ, mất giá tiền tệ, sụt giá chứng khoán diễn ra đồng thời nhiều nơi trên thế giới từ tháng 8 năm 2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan tỏa của cuộc Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến năm 2009. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, khởi đầu từ thị trường tín dụng dưới chuẩn (cho vay thế chấp rủi ro cao) tại Mỹ, sau đó tiếp tục từ lĩnh vực tài chính-tiền tệ lan sang các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ lan rộng thành khủng hoảng toàn cầu:
Nhìn lại sự kiện ngày 15/9/2008, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Mỹ Lehman Brothers nộp đơn bảo hộ phá sản, cùng ngày hôm đó ngân hàng lớn thứ ba Merrill Lynch cũng bị ngân hàng Mỹ mua lại. Ngày 16/9, công ty Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Quốc tế Mỹ AIG đã bị chính phủ Mỹ tiếp quản.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài chính phát triển. Hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ sẽ bị sụp đổ, sẽ bị sáp nhập hoặc quốc hữu hóa. Tín dụng toàn cầu sẽ bị co rút lại. Có rất nhiều ngân hàng từ châu Á sang châu Âu đều đã cho Lehman Brothers và các ngân hàng Mỹ trên bờ phá sản vay những số tiền rất lớn. Ngoài ra, có nhiều ngân hàng quốc tế đã bị “nhiễm độc” với trái phiếu MBS và các hợp đồng CDS.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng đan xen nhau nhằng nhịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đã nhanh chóng lây lan sang các nước khác như hiệu ứng đô-mi-nô.
Cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng lan rộng: bắt đầu từ địa ốc, ảnh hưởng đến tín dụng, lan dần sang nhiều ngành nghề công nghiệp: hàng không, sản xuất xe hơi, điện tử, …. Đối với từng khu vực, từng lĩnh vực, tác động sẽ khác nhau vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế thực tế trong lĩnh vực vay trả nợ, xuất nhập khẩu, đầu tư kỹ thuật, công nghệ, những nước nào hoặc những khu vực nào phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng lớn và bị tác động trực tiếp.
Ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế hiện nay đến Việt Nam
- Tỷ lệ lạm phát tăng 2 con số Việt Nam đã nâng cao lãi suất để chống lạm phát.
- Đầu tư nước ngoài: dòng vốn đầu tư mạnh mẽ từ các nước chạy vào Việt Nam.Dòng vốn chảy vào nhiều và thực hiện không hiệu quả, thiếu thị trường đầu ra, không đủ năng lực điều hành giám sát.
- Nhập siêu cao (năm 2007 là 20 tỷ USD) gây mất cân đối BOP và biến động tỷ giá ngoại tệ, thâm hụt 20% GDP.
- Xuất khẩu sẽ gặp khó khăn lớn và giảm cả số lượng và giá cả do tổng cầu thế giới giảm và cạnh tranh trên các thị trường sẽ khó khăn.
- Du lịch Quốc tế vào Việt Nam giảm, kéo theo dịch vụ giảm nên giảm nguồng thu ngoại tệ cho cán cân vãng lai.
- Đầu tư nước ngoài FDI, FII, ODA giảm, giải ngân chậm, giảm nguồn thu ngoại tệ, thị trường bất động sản gặp khó khăn, nợ quá hạn của ngân hàng sẽ tăng.
- Kiều hối giảm mạnh, đặc biệt là kiều hối đầu tư.
- Ảnh hưởng nhất định đến cán cân thanh toán vãng lai, cán cân vốn và cán cân tổng thể.
- Hệ thống ngân hàng Thương mại gặp khó khăn trong thanh toán quốc tế và chi phí chuyển tiền tăng.
+ Nợ xấu của hệ thống ngân hàng 35.000 tỷ $ (2008)bằng 2,9% tổng dư nợ cho vay.
+ Cho vay trên thị trường bất động sản 100.000 tỷ $, bằng 9.5% tổng dư nợ.
+ Cho phép các tập đoàn (19 tập đoàn tổng công ty) thành lập ngân hàng làm biến động nghiêm trọng phân bổ tín dụng.
- Thị trường chứng khoán tiếp tục diễn biến phức tạp, do vốn nước ngoài rút.
- Vấn đề việc làm, an sinh xã hội trở nên nan giai
Nhận xét về tình hình kinh tế Việt Nam
Báo cáo cập nhật tình hình của WB cho biết: năm 2008, kinh tế Việt Nam đã gặp phải hai cú sốc, đầu tiên là luồng vốn ồ ạt đổ vào Việt Nam cuối năm 2007 dẫn đến tình trạng bong bóng giá cả trên thị trường bất động sản và nhập siêu, thứ hai là kinh tế thế giới suy thoái vào cuối năm 2008 kèm theo khủng hoảng tài chính, giá cả hàng hóa biến động mạnh và thương mại thế giới sụt giảm. Nhưng bất chấp những trở ngại này, Việt Nam vẫn vượt qua năm 2008. Do các ngân hàng của Việt Nam không tiếp cận với các sản phẩm “độc hại” cũng như không nằm trong quyền kiểm soát của các ngân hàng nước ngoài trong diện rủi ro cao.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp.
2.1) Ảnh hưởng của khủng hỏang tài chính toàn cầu tới cán cân mậu dịch:
2.1.1) Tình hình xuất khẩu:
Để đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến tình hình xuất khẩu của Việt Nam, trước tiên ta hãy xem một số ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may,dầu thô ,nông sản, thủy sản…đã bị tác động như thế nào ,và từ đó,nó lại tác động trở lại đến tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra sao?
2.1.1.1) Dệt may:
Theo đánh giá của các chuyên gia, tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam đã trở nên rõ ràng hơn kể từ tháng 10 năm 2008.
Và chỉ một tháng kể từ khi chịu tác động này, tình hình xuất khẩu dệt may của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có dấu hiệu xấu hơn. Số lượng đơn hàng, giá gia công đã giảm bình quân 20%-30%. Chỉ trong quý 4/2008, mức đơn hàng đã giảm khoảng 20% so với quý 4/2007. Điều này dẫn tới kết quả xuất khẩu dệt may của Việt Nam năm 2008 chỉ đạt 9,1 tỷ USD.
Bước sang tháng 1/2009, Trước những tác động của sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tình hình vẫn gặp nhiều khó khăn, khi kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp trong đó có dệt may... giảm mạnh do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường lớn đều giảm từ 30-40%. Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam chỉ đạt mức 550 triệu USD, giảm 33% so với cùng kỳ năm 2008, giảm 24% so với tháng 12/2008.Đây là lần đầu tiên trong vòng bảy năm gần đây, ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gặp khó khăn ngay từ quý đầu tiên của năm.
è Rõ ràng, cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng một cách trực tiếp và mạnh mẽ đến tình hình xuất khẩu của nước ta, nhóm hàng dệt may vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu cả nước thì trong tháng 3, kim ngạch đã giảm 4,2%.
Thực trạng chung của nhiều doanh nghiệp dệt may do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu là có đơn hàng cũng không dám ký vì tình trạng thiếu hụt vốn, giá nguyên liệu đầu vào lại biến động thất thường. Một số doanh nghiệp ký được đơn hàng phải chịu cảnh giảm giá hoặc đơn hàng bị sụt giảm nghiêm cảnh giảm giá nghiêm trọng.
.
2.1.1.2) Dầu thô:
ã Trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, dầu thô luôn được coi là một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, nguồn thu ngân sách quốc gia Việt Nam cũng phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu dầu thô và tài nguyên khoáng sản. Chính vì thế, mỗi sự biến động của sản lượng hay giá xuất khẩu của mặt hàng này, đều ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Và năm 2008 chính là một điển hình cho sự biến động của giá dầu.
ã Theo số liệu thống kê cho biết, trong quý 1-2008, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam là là 3,67 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.757 triệu USD; bằng 149% so cùng kỳ 2007 và chiếm 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, cao nhất từ trước đến nay. Đạt được mức tăng trưởng trên cũng nhờ sự đóng góp quan trọng của việc giá xuất khẩu dầu tăng.
ã Nhu cầu tăng vọt, trong khi nguồn cung không theo kịp là lý do đầu tiên đẩy giá dầu tăng phi mã. Theo các chuyên gia kinh tế, các nước công nghiệp phát triển (như Mỹ, Nhật, Tây Âu) mặc dù tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhưng nhu cầu dầu mỏ vẫn tăng, cộng thêm với 2 "đầu tàu" tăng trưởng nóng ở Châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ, đã khiến nguồn dầu mỏ thế giới bị "ngốn" với tốc độ chóng mặt. Trong khi đó, hàng loạt các nguyên nhân được cho là sẽ làm tình hình cung ứng dầu khan hiếm trầm trọng là những vụ bạo lực triền miên ở Pakistan, bất ổn chính trị tại Nigeria hay nguồn dự trữ dầu mỏ của Mỹ đang giảm sút. Một nguyên nhân nữa phải kể đến là đồng USD đang suy yếu, trong khi dầu mỏ được giao dịch bằng USD, nên các nước XK đều có tâm lý đẩy giá lên để bù vào khoản lỗ của đồng USD.
Tuy nhiên đang từ ngưỡng đỉnh cao 147USD/thùng hồi tháng 7.2008, giá dầu thô thế giới đột ngột giảm thấp và hiện đã xuyên thủng qua đáy 50USD/thùng. Đối với DN xuất khẩu dầu thô thì việc dầu giảm giá lại là một tín hiệu không vui. Giá dầu sụt giảm vì những lo ngại là cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay sẽ làm chậm lại nền kinh tế toàn cầu và giảm bớt mức cầu nhiên liệu, đặc biệt những nước có nguồn cầu số 1 thế giới phải cắt giảm dự trữ và tiêu thụ như Mỹ, Trung Quốc khiến dầu tuột dốc không phanh. Giá dầu giảm đương nhiên sẽ tác động đến nguồn thu từ xuất khẩu dầu mỏ của VN. Ngày 18/12/2008 giá dầu thô đứng ở mức 39,9USD/thùng. Sự sụt giảm giá dầu thô là nguyên nhân chủ yếu khiến xuất khẩu Việt Nam sụt mạnh trong những tháng cuối năm.
Trong năm 2009, Các nhà phân tích kinh tế dự đoán rằng giá dầu còn giảm xuống mức 30 - 40USD/thùng trong bối cảnh kinh tế thế giới ngày càng xấu đi như hiện nay. Theo các nhà phân tích, nhu cầu sử dụng dầu toàn cầu sẽ giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm trở lại đây
Biểu đồ thể hiện sự biến động của giá dầu thô trên thế giới năm 2008 & đầu 2009.
Thông tin mới nhất từ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam cho biết, trong 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt 1,45 tỷ .Tuy nhiên, con số này đã giảm tới 47% so với cùng kỳ năm 2008 và giảm 29% so với quý IV/2008. Nguyên nhân giảm là do giá dầu thế giới sụt giảm mạnh. Giá dầu trung bình quý I/2009 là 45 USD/thùng, giảm 55 USD/thùng so với trung bình quý I/2008 và giảm 21 USD/thùng so với trung bình quý IV/2008. Mặc dù xét về khối lượng, cả khai thác và xuất khẩu đều tăng, nhưng do giá cả sụt giảm đã khiến cho rất nhiều chỉ tiêu tài chính đạt thấp hơn so với cùng kỳ. Sự sụt giảm của dầu khí cũng gây lo ngại cho nguồn thu ngân sách quốc gia, vì thu ngân sách từ nguồn này hiện chiếm khoảng 22% ngân sách.
.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động làm giá dầu thô giảm mạnh
2.1.1.3) Nông sản:
Nếu nhìn một cách tổng quan, có thể thấy 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản gặp thuận lợi về giá cả và thị trường do thị trường thế giới về các mặt hàng nông sản luôn trong tình trạng cung thấp hơn cầu.
ã Trong 6 tháng đầu năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt trên 4,2 tỉ USD, tăng 31%; giá là yếu tố chính làm tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản.Với tốc độ phát triển đạt được, hơn nửa đầu năm 2008, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng trưởng trên 100% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới nên theo dự báo, xuất khẩu nông sản năm 2009 sẽ gặp nhiều khó khăn.
Cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản..chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ Việt Nam. Những tháng cuối năm 2008, hàng nông sản bắt đầu có dấu hiệu tồn đọng ở các hải cảng của Hoa Kỳ và một số nước do các đối tác không mở được thư tín dụng .Chỉ tính riêng hai thị trường Hoa Kỳ và EU, các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ vẫn tồn kho khoảng 30% số hàng nhập từ năm 2007. Một lượng lớn hàng nhập năm 2008 cũng đang ế ẩm.
Một đặc điểm chính của thị trường nông sản và cũng là thách thức lớn nhất cho xuất khẩu Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 đã là những minh chứng cụ thể cho đặc điểm này.Trong vòng chưa đầy hai tháng, từ tháng 8 đến tháng 10/2008, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cà phê, cao su, hạt điều, hồ tiêu… đang choáng váng trước ảnh hưởng của cuộc khủng kinh tế toàn cầu.
ã Đầu tiên là sự xuống dốc "không phanh" của giá xuất khẩu mủ cao su. Mặc dù 60% thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam là Trung Quốc, hơn 15% là Nhật Bản - những quốc gia nằm ngoài tâm cơn bão tài chính. Tuy nhiên, những nước này nhập cao su chủ yếu để sản xuất lốp ô tô cho thị trường Mỹ và EU nên giá mủ cao su đã sụt giảm nhanh chóng. Chỉ trong vòng 2 tháng từ 12.8 đến 12.10 giá mủ cao su chưa chế biến đã giảm từ 50 triệu đồng /tấn xuống còn 19, 3 triệu đồng/tấn.Nguyên nhân, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, giá dầu thô thế giới giảm gần 50% khiến xu hướng sử dụng cao su tổng hợp từ dầu (chiếm khoảng 50%) trở lại, đã làm giảm một phần nhu cầu cao su thiên nhiên. Quan trọng hơn, cuộc khủng hoảng tài chính đã làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, lượng mua sắm ôtô và săm lốp ở các nước phát triển chững lại.
ã Không xuống dốc nhanh như giá cao su, song cà phê cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Vào dịp tháng 2.2008 giá cà phê ở vào thời kỳ hoàng kim 40.000 - 42.000 đồng /kg; thì đến nay giá cà phê trong nước chỉ còn 26.000 - 27.000 đồng /kg
è Qua tình hình biến động như trên, ta có thể thấy trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá cả nông sản ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, sự cân bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả đầu tư nước ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc gia xem xét, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm cho giá cả xuất nhập khẩu trở nên khó lường. Bên cạnh đó, nhiều quỹ đầu tư đồng loạt rút vốn ra khỏi hoạt động đầu tư nông sản dẫn tới sự giảm cầu trên các thị trường kỳ hạn, cũng tác động làm giá nông sản giảm đột ngột. Nhìn lại những diễn biến của thị trường nông sản năm 2008, các chuyên gia đều đánh giá “nhiều mặt hàng nông sản đã lên rồi xuống giá theo sóng hình sin, với biên độ doãng ra rất rộng, ngoài khả năng ứng phó của các cơ quan quản lý, DN và nông dân”.
ã Bước sang những ngày đầu năm 2009, tình hình vẫn chưa thể chuyển biến theo chiều hướng lạc quan, khi mà các mặt hàng nông sản xuất khẩu đang là thế mạnh của VN đều bị suy giảm cả về giá và khối lượng, trong khi sức mua của thế giới vẫn giảm.
ã Theo thống kê của Bộ Công Thương, tháng 1/2009, tình hình XK cà phê giảm nghiêm trọng: giảm tới 18,8% về lượng và 30% về giá trị so với giá cuối năm 2008. Đối với kết quả xuất khẩu trong tháng 1 của mặt hàng hạt tiêu, một mặt hàng VN đang giữ vị trí nhất nhì thế giới cũng rất ảm đạm giảm 20% về giá và 2% về lượng. Tương tự, theo Hiệp hội Chè VN, chè giảm 28% về lượng, 27% về giá trị. Mặt hàng cao su, mặt hàng chủ yếu phục vụ công nghiệp sản xuất ôtô cũng suy giảm mạnh do sự cắt giảm sản xuất của các hãng xe lớn trên thế giới.Các mặt hàng XK nói trên đều thuộc nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu cho thấy bản thân các cường quốc phát triển trên thế giới đang thắt lưng buộc bụng và cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu. Tình hình có vẻ khả quan hơn khi sang tháng 2/2009, sản lượng xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản đang vào thời vụ thu hoạch đang có chiều hướng tăng trở lại như: cà phê tăng 74,4%, nhân điều tăng 83,3%, chè các loại tăng 60%, hạt tiêu tăng 186,9%, gạo tăng 98,2%. Tuy nhiên, ngoài mặt hàng gạo và nhân điều thì giá của các mặt hàng nông sản đều giảm đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng này.
Tình hình kinh tế thế giới cho thấy, khả năng suy thoái vẫn tiếp tục, với việc cắt giảm chi tiêu của các nền kinh tế lớn, khả năng XK nông sản của VN cũng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Bên cạnh việc xem xét tình hình xuất khẩu nông sản nói chung, chúng ta hãy xem tình hình xuất khẩu gạo-một mặt hàng nông sản chính và cũng gặp phải nhiều biến động trong năm qua. Một điều đáng lưu ý là do tác động của khủng hoảng, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng nông sản khác sụt giảm nghiêm trọng nhưng gạo lại đạt được sự tăng trưởng trong kim ngạch của mình.
2.1.1.4) Gạo:
Nhìn tổng quan về tình hình phát triển trong năm,có thể đưa ra nhận xét chung rằng thị trường gạo năm 2008 có nhiều biến động lớn.
ã Trước hết, lo ngại khủng hoảng lương thực toàn cầu lan rộng từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 5 đã khiến giá cả lương thực tăng vọt. Nguyên nhân là do các nước sản xuất gạo chính trên thế giới như Việt Nam, Ấn Độ áp lệnh cấm xuất khẩu gạo khiến nguồn cung trên thị trường bị thu hẹp, Philippin, quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, đã gia tăng khối lượng nhập khẩu gạo lên gấp 1,5 lần so với năm ngoái do lo ngại khan hiếm lương thực. Đến cuối năm, giá cả hàng hoá lại một lần nữa chịu ảnh hưởng, đồng loạt sụt giảm mạnh khi nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu đi xuống, so với tháng 9, giá lúa gạo trên thị trường trong nước tháng 10 tiếp tục giảm do nguồn cung dồi dào vì lúa hè thu đã có mặt đầy đủ trên thị trường. Cụ thể, gạo 5% tấm giá hiện chỉ còn ở mức 480 USD/tấn. Như vậy, so với tháng trước, giá gạo trên thị trường thế giới đã giảm 20 - 30 USD/tấn. Còn, nếu so với giá gạo thời "hoàng kim" tháng 3,4/2008 thì giá gạo thế giới hiện nay đã bị giảm tới 60%.
ã Tuy nhiên khi bước vào những tháng đầu năm 2009, tình hình xuất khẩu gạo của VN đã có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Hiện đã có nhiều khách hàng liên hệ với các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu trong nước để ký hợp đồng. Xuất khẩu gạo những tháng đầu năm tăng do các quốc gia tăng cường dự trữ bằng cách nhập khẩu gạo để đảm bảo an ninh lương thực. Báo chí đưa tin trong tháng 1 và tháng 2, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước dồn dập ký được các hợp đồng xuất khẩu gạo lên tới 900.000 tấn, mức cao nhất so với cùng kỳ các năm trước. Nguyên nhân là do nỗi lo sợ khủng hoảng kinh tế có khả năng kéo dài trong khi gạo vẫn là lương thực chính trên toàn cầu nên các quốc gia tăng cường dự trữ lương thực để đảm bảo an ninh lương thực.
ã Trong khi nhiều mặt hàng nông sản khác có xu hướng giảm về giá trị xuất khẩu, riêng mặt hàng gạo lại có mức tăng trưởng cao, giá xuất khẩu tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Giá gạo xuất khẩu của nước ta liên tục được giá. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với kết quả trên, khối lượng gạo xuất khẩu hai tháng đầu năm đã đạt 1,054 triệu tấn với giá trị kim ngạch 479 triệu USD - gấp 2,29 lần về khối lượng và 2,51 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2008
2.1.1.5) Thủy sản:
Nhìn chung tình hình trong năm 2008, có thể nhận thấy năm 2008 là một năm thiên nhiên khá ưu đãi cho toàn ngành thủy sản Việt Nam .Tuy nhiên do tác động của suy giảm kinh tế ảnh hưởng tới sự ổn định thị trường xuất khẩu cùng với việc phá vỡ quy hoạch trong nuôi trồng thủy sản ở các địa phương, dẫn đến sản phẩm thủy sản bị ứ đọng. Do vậy, sản phẩm thủy sản vẫn trong cơn khó khăn của việc "được mùa mất giá".
ã Với mức tăng trưởng 13,25%/năm, ngành thủy sản đã có bước tiến đưa Việt Nam từ vị trí thứ 11 lên hàng thứ 6 trên thế giới về xuất khẩu thủy sản. Thế nhưng ngành này đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, năm 2008 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,236 nghìn tấn, trị giá 4,509 tỷ USD, tăng 33,7% về khối lượng và 19,8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
ã Tuy nhiên, kể từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế lan rộng trên toàn cầu thì ngành thủy sản của Việt Nam đã ít nhiều bị ảnh hưởng. Ngay từ tháng 10/2008, do thị trườnng thu hẹp nên sản lượng xuất khẩu thủy sản đã giảm dần, nhất là mặt hàng cá, một số doanh nghiệp đã phải giảm công suất chế biến từ 30-50%, thậm chí có nhiều doanh nghiệp đã phải ngừng sản xuất. Các mặt hàng XK chính là tôm đông lạnh, cá tra đều giảm mạnh về khối lượng và giá trị. Giá trị xuất khẩu thủy sản VN sẽ tiếp tục giảm trong tháng cuối năm 2008.
Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP) dự báo rằng, tình hình khó khăn còn kéo dài trong năm 2009.. Theo thống kê, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước trong hai tháng 1 và tháng 3 giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ của thị trường chính giảm và do khó khăn về nguồn nguyên liệu chế biến. Thị trường xuất khẩu còn 122 thị trường, giảm 37 thị trường so với năm trước. Xuất khẩu sang hầu hết các thị trường chính đều giảm, trừ Trung Quốc, Australia và ASEAN. Do ảnh hưởng của khủng hoảng, sức mua của các thị trường nhập khẩu chính đều giảm. Giá trị xuất khẩu sang thị trường châu Âu giảm gần 15%. Nhật Bản tuy vẫn đứng thứ hai trong tốp các thị trường xuất khẩu chính, nhưng giá trị xuất khẩu sang thị trường này giảm trên 9%. Xuất khẩu sang Mỹ giảm 3,3% so với cùng kỳ...
Về sản phẩm xuất khẩu cá tra, basa với kim ngạch 208 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ. Theo VASEP, đây là sự tụt dốc đáng lo ngại so với tốc độ tăng trưởng của năm trước. Xuất khẩu tôm cũng đã tụt xuống vị trí thứ hai với giá trị xuất khẩu trên 181 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang khiến xuất khẩu thủy sản cả nước tụt giảm mạnh cả về khối lượng và giá trị. Nhiều doanh nghiệp đang lỗ lã kéo dài do không thể cạnh tranh nổi. Các DN thủy sản đang đứng trước nhiều áp lực: thị trường thu hẹp, tiêu chuẩn nhập khẩu ngày càng khó, biên độ tỷ giá của đồng tiền các nước nhập khẩu so với đồng USD lớn hơn biên độ của tiền đồng so với USD...
Qua xem xét tình hình xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu 2009, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình xuất khẩu của Việt Nam đã chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng tài chính.
ç Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nên khó có thể tránh khỏi những tác động không thuận cho sự ổn định và phát triển. Trước hết đó là ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta hiện nay,suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính làm cho sức mua của người tiêu dùng Hoa Kỳ giảm đáng kể kéo theo số lượng các hợp đồng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng giảm theo. Mặt khác, suy thoái của nền kinh tế Mỹ đã tác động gián tiếp tới các nền kinh tế khác như EU, Nhật Bản... đây cũng là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam.
ç Tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đã trở nên rõ ràng hơn kể từ tháng 10 năm 2008, xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong tháng đã sụt giảm rất mạnh. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, dầu thô, gạo, thủy sản... đều có mức tăng trưởng rất thấp và đang đi xuống. Các doanh nghiệp phải đối mặt với giá giảm, thị trường bị thu hẹp do tổng cầu thế giới giảm và cạnh tranh trên các thị trường sẽ khó khăn. . Rõ nhất là nhu cầu tiêu dùng những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao của Việt Nam ở nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU giảm sút. Đối với những mặt hàng nhu cầu tiêu dùng không giảm cũng khó khăn do những nhà nhập khẩu ở các thị trường này không vay được vốn ngân hàng để nhập hàng. Bên cạnh đó, khó khăn lớn khác hiện nay đe doạ khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp được các chuyên gia chỉ ra là do các đối tác nước ngoài không thể mở L/C. Đơn giản vì các nước đang siết chặt tín dụng nên các ngân hàng sẽ ngưng cho vay khiến cho nhiều nhà nhập khẩu không mở được L/C, theo đó phía Việt Nam sẽ không giao được hàng. Biểu hiện rõ nhất là trong tháng 10, kim ngạch xuất khẩu dự tính sẽ giảm nhẹ so với mức bình quân từ đầu năm đến nay là 5,4 tỷ USD/tháng, đạt 5,1 tỷ USD nhưng kết quả thực tế đã giảm khá mạnh chỉ đạt 4,7 tỷ USD, giảm tới 700 triệu USD so với tháng trước
èQuả thực, kinh tế thế giới suy giảm đã ảnh hưởng rõ nét đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng cuối năm 2008 và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu những tháng đầu 2009. Trong 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm giầy dép, thủy sản, cà phê, hạt điều, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính thì có đến 12 mặt hàng giảm từ 10-20%.
Chính vì thế, mặc dù đã liên tiếp "cài số lùi" kế hoạch nhưng nhiều ý kiến cho rằng, tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2009 sẽ rất khó đạt mức 13%. Theo các chuyên gia phân tích: "Trong năm 2008, giá cả các loại hàng hóa tăng mạnh, trong khi những biến động kinh tế thế giới chưa tác động nhiều đến việc xuất nhập khẩu, song tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 64 tỷ USD. Hiện xuất khẩu của Việt Nam đang chịu tác động của suy giảm kép: giá giảm, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước bị thu hẹp nên đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 13% là rất khó.”
2.1.2) Tình hình nhập khẩu
2.1.2.1) Tình hình nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ 2001-2007
Nền kinh tế Việt Nam kể từ khi mở cửa đến nay đã hội nhập gần như hoàn toàn vào dòng chảy kinh tế toàn cầu. Độ mở của nền kinh tế (được đo bằng phần trăm của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP) ngày càng lớn. Xuất khẩu (XK) bình quân tăng 21,52%/năm. Nhập khẩu (NK) tăng bình quân 24,65%/năm, nhanh hơn XK 3,13%. Tỷ trọng của kim ngạch XNK trên GDP tăng từ 97,9% năm 2001 đến con số ấn tượng 153,8% vào năm 2007, tức bình quân tăng 9,32%/năm trong giai đoạn 2002 – 2007. Tuy nhiên bức tranh về kết quả của hoạt động XNK có phần bị mờ đi bởi sự lấn áp của nhập khẩu so với xuất khẩu, nhất là vào năm 2007. Nhập siêu xảy ra liên tục trong cả giai đoạn 2001-2007. Ngoại trừ năm 2005 có giá trị nhập siêu giảm nhẹ, các năm còn lại giá trị nhập siêu tăng liên tục, đặc biệt năm 2007 tăng gần 2,5 lần. Tỉ lệ nhập siêu trên tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 25,82%, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Mức nhập siêu của VN giai đoạn 2001 - 2007 (Triệu đô la)
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm
Năm 2007 tình hình trở nên rất xấu trên phương diện cán cân thương mại: nhập siêu tăng 159% so với năm 2006 và chiếm 1/3 tổng nhập siêu trong 7 năm (2002-2007) với tỷ trọng nhập siêu chiếm 25,72 % so với XK năm 2007, vượt qua ngưỡng an toàn (tức là nhập siêu của năm 2007 vượt quá giới hạn 11,166 triệu USD khoảng 346 triệu USD). Tuy nhập siêu lên tới con số gần 12,5 tỷ USD trong năm 2007 nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát vĩ mô của Chính phủ. Khoản thâm hụt này sẽ được bù đắp bởi kiều hối (khoảng trên 5 tỷ USD), lượng ngoại tệ từ XK lao động (khoảng 2 tỷ USD) và một phần do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập máy móc thiết bị vào phục vụ sản xuất. Do vậy dự trữ ngoại tệ không bị ảnh hưởng bởi nhập siêu. Phần lớn giá trị NK dùng để phục vụ sản xuất và phần nhỏ (khoảng 10%) là phục vụ cho tiêu dùng, nên cơ cấu hàng NK hầu như không bị xáo trộn và nhập siêu chưa ảnh hưởng nhiều đến sức sản xuất và có tác dụng về lâu dài đối với nền kinh tế VN vốn dĩ thiếu công nghệ phục vụ sản xuất. Do vậy đứng về mặt chỉ số vĩ mô, những số liệu về hoạt động XNK của nền kinh tế VN trong giai đoạn 2001-2007 là hết sức ấn tượng và trong khuôn khổ an toàn, kể cả tình trạng nhập siêu, trong đó mức độ nhập siêu năm 2007 dù có tăng lên nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát của nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân của ba nhóm hàng: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; nguyên, nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng trong giai đoạn 2001-2006 lần lượt là 17,4%; 25,9% và 19,3%. Sau 5 năm 2001-2006, cơ cấu nhập khẩu đã có thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, giảm tỉ trọng hai nhóm hàng máy móc, thiết bị và hàng tiêu dùng.
2.1.2.2) Tình hình nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2008 và đầu năm 2009:
ä Tình hình nhập khẩu trong năm 2008.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này tương ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.
Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu lớn nhất, đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007.
Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không 800 triệu USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HOA H_U DI_U AN.doc