Qua nghiên cứu và tìm hiểu lạm phát cùng những tác động của nó đối với nền kinh tế chúng ta thấy rõ tính tích cực và tiêu cực của lạm phát cùng sự tác động và mối quan hệ của nó đối với thất nghiệp.
Từ sự nghiên cứu trên chúng ta đã tìm hiểu tỉ mỉ về lạm phát và thất nghiệp. Qua đó ta có thể rút ra kết luận: Lạm phát và thất nghiệp đã trở thành những căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường nói chung và nước ta nói riêng. Do vậy giải pháp tốt nhất của vấn đề này không phải là cố gắng triệt để xoá bỏ lạm phát giảm thất nghiệp xuống bằng không mà phải tìm ra các biện pháp để kìm chế nó giảm xuống mức vừa phải để vừa đạt được mức tăng trưởng cao ổn định vừa hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài để rồi từ đó sửa đổi phục vụ cho lợi ích của nước mình và từ đó chuyển cái của nước bạn sang cách của nước mình. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng không nên rập khuôn máy móc mà phải dựa vào điều kiện đặc thù riêng của nước ta để có bước đi đúng đắn, làm được điều này chúng ta nhất định sẽ thành công.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bản chất của lạm phát trong nền kinh tế – luận chứng tính năng tác dụng và tác hại của lạm phát khi nền kinh tế suy thoái mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền tệ và tăng lãi suất để khắc phục khống chế cầu.
Song thực tế với phương pháp này đòi hỏi khi các nước vẫn còn rơi vào tình trạng lạm phát chính vì lẽ đó cho nên đã có rất nhiều nhà kinh tế học đã không chấp nhận với sự lý giải lạm phát của lý thuyết lạm phát do cầu kéo và nhiều nhà kinh tế học vẫn luôn tìm kiếm cách tiếp cận khác về lạm phát.
3. Lý thuyết lạm phát chi phí đẩy
Trong nền kinh tế thị trường, không một quốc gia nào có thể đạt được chỉ tiêu công ăn việc làm đầy đủ, lâu dài và giá cả ổn định. Giá cả, tiền công tăng và luôn đi trước khi công ăn việc làm cao.
Lạm phát chi phí đẩy cho rằng do chi phí sản xuất kinh doanh tăng nhanh hơn năng suất lao động (mức tăng chi phí này chủ yếu do tăng tiền lương, giá nguyên liệu, do công nghệ cũ kỹ). Khi đó các doanh nghiệp đối phó bằng cách tăng giá hàng hoá và lạm phát xuất hiện.
Như vậy lạm phát cung giải thích được nguyên nhân vì sao lại có lạm phát trong trường hợp cầu giảm xuống hoặc không đổi, tại sao việc thu hẹp cầu nhờ giảm đầu tư và tín dụng Nhà nước có thể gây ra thất nghiệp và suy thoái kinh tế chứ không giúp giảm lạm phát. Xuất phát từ quyền lực thị trường thuộc về người lao động và doanh nghiệp đôi khi các nhà kinh tế gọi kinh tế "lạm phát chi phí đẩy" là lạm phát "cung" "lạm phát do quản lý giá" hay lạm phát của người bán.
Nếu như "lạm phát do cầu kéo" xuất hiện do cầu vượt cung khi nền kinh tế vượt quá mức sản xuất tiềm năng, có sự toàn dụng nhân công và công suất máy móc thì lạm phát chi phí đẩy phát sinh ngay cả khi tài nguyên chưa được sử dụng hết, chưa có trạng thái toàn dụng đó.
Tồn tại một lúc giữa "lạm phát cầu kéo" và "lạm phát chi phí đẩy": tăng giá do cầu kéo dẫn đến và tăng giá do chi phí đẩy, cụ thể do tổng cầu về dịch vụ và thành phẩm tăng lên làm mở rộng cầu dẫn xuất của các doanh nghiệp về nguyên vật liệu, lao động, dẫn đến chi phí sản xuất tăng giá thành tăng và cuối cùng sinh ra lạm phát.
Khi nguồn lực kinh tế chưa được sử dụng hết, chi phí sản xuất tăng đẩy đường AS sang trái, với chính sách năng động thúc đẩy công ăn việc làm. Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá - tiền tệ làm dịch đường tổng cầu AD sang phải kết quả giá tăng nhanh lạm phát chi phí đẩy.
P
P3
P2
P1
O
GNPr
Y1
AD1
AD3
AD2
AS1
AS3
AS2
Sản lượng tiềm năng
Hình 3: Minh hoạ cơ chế lạm phát chi phí đẩy.
4. Luận thuyết "Lạm phát cơ cấu".
Luận thuyết về "lạm phát cơ cấu" thịnh hành ở nhiều nước đang phát triển. Những người theo luận thuyết này cho rằng: sự mất cân đối cơ cấu nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ tiêu dùng) giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp - nông nghiệp ...) từ đó hoặc khiến cho nền kinh tế phát triển kém hiệu quả, làm tăng chi phí nên sản xuất xã hội làm tăng lạm phát chi phí đẩy từ đó kích thích tăng giá cả của các mặt hàng khác, tăng mặt bằng giá chung tức là làm tăng "lạm phát cầu kéo" nền thuyết này được suy diễn từ thuyết "lạm phát cầu dư thừa tổng quát".
Khi phân tích lưu thông tiền tệ giấy chế độ bản vị vàng. CácMác đã nhấn mạnh: "việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng (bạc) thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy. Nên khi Nhà nước phải hành tiền đem vào lưu thông giá mức giới hạn vàng bạc mà nó đại diện thì giá trị đồng tiền sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Các Mác đưa ra công thức tính khối lượng tiền tệ đang lưu thông.
Công thức:
Trong đó: T: Tổng tiền cần cho lưu thông
G: Tổng giá cả hàng hoá
V: Số vòng quay lưu thông của các đồng tiền cùng loại.
Sau đây là các luận thuyết khác về lạm phát mà ta có thể nêu ra để tham khảo.
* Lạm phát giá cả: mọi sự tăng giá được coi là lạm phát giá cả. Đầu thế kỷ XX, J.P Luthesing - L.V Chandeles và D.C Clines quan niệm " bất kỳ thời kỳ nào mà giá hàng hoá tăng không kể dài hay ngắn, có tính chất chu kỳ hay đột xuất đều là thời kỳ lạm phát".
* Lạm phát tài chính tín dụng:
P.Bicaplơ cho rằng sự bội chi ngân sách, mở rộng tác dụng, bội chi tiền mặt, tăng phát hành công trái, tăng thuế và đầu tư. Có đặc trưng lạm phát vì dẫn đến tăng giá, tăng lương, tăng thuế là tăng lạm phát.
* Trên đây là hai luận thuyết về lạm phát mà các nhà kinh tế học nêu ra những quan điểm lạm phát.
II- Các nguyên nhân của lạm phát.
1. Các loại lạm phát
a. Lạm phát vừa phải.
Còn gọi là lạm phát vừa phải một con số có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm, trong trường hợp này giá cả tăng chậm, thường xấp xỉ mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút. Do vậy sự mất mát của đồng tiền không cao và tác hại của lạm phát này cũng không đáng kể. Đặc biệt giữ được lạm phát ở mức 2-3% là mong muốn của một số người, nó có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối không khác mức bình thường nhiều, do đó nhân dân không mất thời gian tìm cách tiêu tiền bừa đi vì lãi suất thực tế không quá thấp. Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa hoặc lãi suất bằng tiền trừ tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát thấp thì đồng tiền nói chung có lãi suất danh nghĩa gần như số không.
Trong trường hợp xấu nhất cũng chỉ có lãi suất thực tế nhỏ dưới không. Do đó tiền giữ được phần lớn giá trị của nó từ năm này qua năm khác. Với loại lạm phát này người ta không sợ ký hợp đồng với những điều kiện danh nghĩa, tức là những hợp đồng không được chỉ số hoá một cách bất biến theo lạm phát. (một hợp đồng được “chỉ số hoá” khi giá cả tiền lương hoặc giá trị đồng đô la trong hợp đồng tăng giảm cùng với sự biến chuyển của một chỉ số giá cả chung). Nhưng điều không hiệu quả gắn với lạm phát vừa phải là không đáng kể.
b. Lạm phát phi mã.
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20% - 100%/năm. ở đầu một khi lạm phát phi mã trở nên vững chắc nhưng biến dạng nghiêm trọng về kinh tế nảy sinh nói chung, phần lớn các hợp đồng được chỉ số hoá theo một số giá cả hoặc ngoại tệ như đồng USD chẳng hạn. Vì nếu đồng tiền đột ngột mất giá một cách nhanh chóng như vậy lãi suất thực tế giảm xuống tới 50 hoặc 100 lần, nhân dân tránh giữ tiền nhiều hơn mức tối thiểu cần thiết, thị trường tài chính tàn lụi và những quỹ nói chung được phân bổ theo định mức chứ không theo lãi suất. Nhân dân tích trữ hàng hoá, mua nhà và không bao giờ cho vay với tiền lãi suất bình thường.
Điều đáng ngạc nhiên là những nên kinh tế với tỷ lệ lạm phát hàng năm là 200% lại phát triển rất tốt. Điển hình là nước Brazin và Ixraen đã phát triển nhanh chóng một thời gián, dữ giá cả tăng lên theo kiểu phi mã.
c. Lạm phát ở mức siêu cao (siêu lạm phát).
Trong khi các nền kinh tế có vẻ vẫn còn sống sót và một số có vẻ phồn thịnh với lạm phát phi mã thì một loại thứ ba nghiêm trọng chết người xảy ra, bệnh ung thư siêu lạm phát tấn công, loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng lên với con số hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng triệu phần trăm một năm.
Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ đối với nền kinh tế bởi vì nó làm cho giá cả không ổn định, tiền lương thực tế biến động và thường giảm mạnh cùng sự mất giá của tiền tệ, mọi người có tiền đều bị tước đoạt và tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn. Hầu hết các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng và bóp méo hoặc thổi phồng, hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng hổn loạn.
Cuộc siêu lạm phát có nhiều tư liệu ghi lại một cách cẩn thận nhất xảy ra ở cộng hoà Đức. Còn đối với những nhà nghiên cứu lạm phát, siêu lạm phát đặc biệt lý thú vì nó cho thấy rõ tác động của lạm phát. Bệnh lý học soi sáng giải phẩu học, giống như chúng ta cho chuột ăn những liều cao về các chất với hy vọng có thể hiểu được tác động của những liều nhẹ hơn đối với con người, chúng ta quan sát siêu lạm phát vì ánh sáng mà nó rọi vào những loại lạm phát.
Ba loại lạm phát
Vừa phải
Phi mã
Siêu lạm phát
Hình 4: Lạm phát có nhiều loại đôi khi lại quấy rầy, lúc khác gây tai hại
Hình trên cho thấy có ba loại lạm phát, lạm phát vừa phải là điển hình ngày nay. Trong phần lớn những nước công nghiệp hoá lạm phát phi mã như trường hợp ở ý những năm 1970 hoặc nhiều nước Nam Mỹ lạm phát tăng từ năm này sang năm khác nhưng dường như không gây bùng nổ. Siêu lạm phát xảy ra khi tiền giấy được in ra làm cho giá cả tăng lên một nghìn, một triệu, một ngàn tỷ phần trăm một năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài và thường dẫn đến cải cách tiền tệ hoặc sự sụp đổ kinh tế lớn.
2. Quy mô và sự biến động của lạm phát.
Lạm phát cao là lạm phát biến đổi, điều đó có nghĩa là những nước có mức lạm phát bình quân cao cũng có xu hướng có tỷ lệ lạm phát tha đổi lớn từ năm này qua năm khác.
Nừu một nước quyết định theo đuổi chính sách tiền tệ gây lạm phát cao, nó sẽ phải chấp nhận tình trạng lạm phát có nhiều biến động lớn vì những lý do chúng ta đã thảo luận ở trên, lạm phát biến động mạnh làm tăng tính bất trắc đối với cả người cho vay và đi vay bằng cách buộc họ phải phụ thuộc vào sự phân phối lại của cải một cách độc đoán trên quy mô lớn.
3. Lạm phát không dự kiến.
Lạm phát không dự kiến có tác động nguy hại hơn so với bất kỳ tổn thất nào của lạm phát ổn định được dự kiến từ trước, nó phân phối lại của cải cá nhân một cách độc đoán. Điều này có thể nhận thấy khi cho vay dài hạn. Các khế ước vay thường quy định rõ mức lãi suất danh nghĩa dựa trên cơ sở lạm phát dự kiến.
Nếu lạm phát khác xa mức dự kiến thì lợi tức thực tế thực hiện mà người vay trả cho người vay khác mức mà hai bên dự kiến trước.
Nếu lạm phát cao hơn mức dự kiến, người vay sẽ được lợi và người cho vay bị thiệt, vì người đi vay trả nợ bằng đồng đô la ít giá trị hơn. Ngược lại nếu lạm phát mức hơn mức dự kiến người cho vay sẽ được lợi và người đi vay bị thiệt vì khoản tiền phải trả có giá trị cao hơn so với mức hai bên dự kiến.
VD: Một người vay dưới hình thức cầm cố vào năm 1960, lãi suất đối với những khoản vay trong thời gian đó là 30 năm, 6%/năm. Mức lãi suất này dựa trên tỷ lệ lạm phát dự kiến thấp – lạm phát bình quân10 năm trước là 2,5%. Người cho vay có thể đã dự kiến thực tế là 3,5% và người đi vay phải trả mức dự kiến thực tế này. Trên tỷ lệ lạm phát bình quân ở mức 5% trong thời gian vay cẩm cố do đó lãi suất thực tế chỉ là 1%, mức lạm phát không dự kiến làm lợi cho người vay ở mức người cho vay bị thua thiệt. Lạm phát không dự kiến còn làm tổn hại người nhận lương hưu cố định, công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa khi công nhân về hưu vì lương hưu là khoản thu nhập trả sau, thực ra công nhân đã cho các doanh nghiệp vay, công nhân cung cấp dịch vụ lao động cho doanh nghiệp nhưng không nhận được đủ thu nhập trước khi về già. Giống như bất kỳ người cho vay nào, công nhân bị thiệt khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến.
4. Lạm phát dự kiến.
Giả sử giá cả tăng lên 1%, loại lạm phát ổn định biết được trước 12%/năm thì gây ra những tổn thất gì cho xã hội.
- Tác dụng gây biến dạng thuế lạm phát đánh vào số tiền mà một người đang giữ vì tỷ lệ lạm phát cao hơn dẫn tới lãi suất danh nghĩa cao hơn do đó làm giảm số tiền giữ thực tế. Nếu họ giữ tiền tệ thấp thấp hơn thì họ cần đến ngân hàng để rút tiền. Sự ít tiền đó tạo ra chi phí gọi là “chi phí mòn giầy” của lạm phát vì việc đến ngân hàng nhiều làm cho giầy của họ mòn đi.
- Khi sinh ra lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thay đổi giá cả thường xuyên hơn và việc thay đổi giá luôn luôn tốn kém vì phải lo in ấn, phát hành và những tổn thất trên được gọi là chi phí thực đơn và lạm phát càng cao thì chi phí càng lớn.
- Khi lạm phát cao do các doanh nghiệp tránh điều chỉnh giá cả thường xuyên khi chịu phải chi phí thực đơn vì vậy lạm phát càng cao thì biến động giá cả càng lớn và lạm phát này gây ra sự thay đổi trong giá tương đối. Vì nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bố nguồn lực một cách hiệu quả nên lạm phát dẫn đến kém hiệu quả tính theo góc độ vi mô.
- Lạm phát do luật thuế gây ra. Nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Lạm phát không thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân, thường trái ý định của người làm luật.
- Lạm phát là sự bất tiện của cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường luôn luôn thay đổi. Tiền là thước đo mà chúng ta dựa vào để tính toán các giao dịch kinh tế khi có lạm phát thì cái thước này co giản và tình hình của nó như đo đơn vị chiều dài. Để so sánh độ dài đo được qua các năm người ta cần phải điều chỉnh “lạm phát”.
5. Lạm phát không cân bằng: những sự biến dạng của lạm phát.
Vấn đề đặt ra cho một số thể chế không thể điều chỉnh hoặc không dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp với lạm phát.
Tiền và thuế là hai tiêu thức đánh giá quan trọng nhất. Tiền tệ là một hình thức không lợi tức, những ngân phiếu có lãi suất do luật quy định. Do đó nếu lạm phát đi từ số 0 đến 10% thì lãi suất thực tế đối với tiền tệ là số 0 đến 10%.
Thuế: những tác động thực tế khác nữa của lạm phát không cân bằng và có dự đoán trước lại có ý nghĩa hơn. Một tác động xảy ra thông qua hệ thống thuế. Nếu một hệ thống thuế tăng dần tỷ lệ lạm phát cao sẽ đẩy người ta sang nhóm đóng thuế cao và một số nước phải “chỉ số hoá” luật thuế của họ đối với lạm phát.
Những tác động khác tế nhị hơn. Trong những nền công nghiệp được điều tiết để xin phép thay đổi giá cả của họ kết quả giá cả phải điều tiết thường giảm đi trong những thời kỳ lạm phát.
Lạm phát phá huỷ thông tin nhiều nhà kinh tế nhấn mạnh rằng giá cả bao hàm một lượng thông tin có giá trị đối với người tiêu dùng tuy nhiên lạm phát phá huỷ thông tin trong tình hình lạm phát phát triển cao biểu giá thường xuyên bị thay đổi.Vì vậy nhiều người tiêu dùng không biết mua chỗ nào rẻ chỗ nào đắt dẫn đến nguy hiểm cho người tiêu dùng.
III. Những tác động của lạm phát với nền kinh tế suy thoái
1. Tác động của lạm phát
1.1.Phản ứng kinh tế vĩ mô.
Những bất kể tác hại thực tế hoặc thấy được của lạm phát ra sao, các nước ngày nay sẻ không dung thứ tỷ lệ lạm phát cao trong một thời gian dài. Sớm muộn họ sẽ thực hiện những biện pháp thích ứng để giảm lạm phát bằng cách giảm sản lượng thực tế và tăng thất nghiệp hoặc kiểm soát giá cả và tiền lương. Kết quả của nó dẫn đến là một thời kỳ suy thoái trì trệ kinh tế, công nhân bị giãn việc, giờ làm việc ngắn và ít công việc hơn. Như vậy những quyết định của Chính phủ hạn chế lạm phát là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng đình trệ lâu dài.
Do vậy bất kể những nhà kinh tế có thể kết luận như thế nào về tác hại kinh tế vĩ mô khác của lạm phát. Phản ứng chính sách tiền tệ – và tài chính trong một nước dân chủ phải được coi như một tác hại của lạm phát. Và những phản ứng đó thường nhằm hạn chế lạm phát bằng thất nghiệp cao và GND phát triển thấp.
1.2. Các tiêu cực của lạm phát.
Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc độ lạm phát, với mứcđộ các tiến triển không dự đoán trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của Chính phủ lạm phát phi mã và siêu lạm phát là tai hoạ khủng khiếp cho đời sống kinh tế – xã hội của một quốc gia.
Nhìn chung lạm phát có thể gây ra những tiêu cực.
- Vì làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ nên lạm phát xuyên tạc, bóp méo làm biến dạng của giá cả, yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tiến hành được và vai trò điều tiết của Chính phủ về nền kinh tế thông qua tiền tệ cũng bị suy giảm thậm chí bị vô hiệu hoá, do mức thuế trở nên vô nghĩa với tốc độ tăng lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát.
- Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, hành vi đầu tư do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận.
Lạm phát kìm hãm các đầu tư dài hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn hạn thường là vào các tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh chi phí nhiều nổ lực vào hoạt động dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa bất ổn kéo theo.
- Làm suy yếu, phá vỡ thị trường vốn và tín dụng.
Sự bất ổn định giá cả trong tương lai sẽ làm suy giảm lòng tin. động cơ và gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định cho cả người gửi tiền lẫn các thể chế tài chính tín dụng. Lạm phát có thể gây tác động xấu đến ngân hàng tiết kiệm, cộng đồng những người để dành thị trường trái phiếu các quĩ an ninh xã hội, hưu trí bảo hiểm và các công cụ nợ của Chính phủ. Lạm phát thường tạo ra tình huống lãi suất thực tế âm, khiến tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra khỏi đầu tư sản xuất. Bởi vậy lạm phát thường hay đi kèm với suy thoái kinh tế.
- Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát. Một số người nắm giữ hàng hoá có giá cả tăng đột biến trở nên giàu có nhanh chóng và ngược lại. Những người có hàng hoá - tài sản mà giá cả không tăng hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng giảm sút làm tổn hại đến mức sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. Phúc lợi xã hội dành cho tầng lớp nghèo cũng bị suy giảm rõ rệt. Hơn nữa việc phân phối lại của Chính phủ từ những người tiêu dùng đến người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai đoạn đầu của lạm phát. Sau đó sẽ mất hết tác dụng do sự thích nghi của tiêu dùng. Việc Chính phủ kiểm soát giá cả về mức tăng giá cả của hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng bằng cách qui định giá trần sẽ làm sai lệch sự phân bố các nguồn lực và dẫn đến thiếu hụt, tham nhũng.
Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường kéo theo việc điều chỉnh giá với giải pháp thích nghi kiềm chế lạm phát đồng thời điều chỉnh phá giá bản tệ là nguồn gốc làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đối với hàng hoá, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa và sự tương tác giữa chúng nếu nó vượt quá khả năng kiểm soát của Chính phủ sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giá - lạm phát – phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội của quốc gia.
- Sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm mt kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng đầu tư nước ngoài đổ vào chậm, chững lại thậm chí suy giảm đi đối với sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo cả nhưng giá cả hàng hoá trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những hàng hoá, vật tư cần thiết. Lạm phát cao (thường trên 40%) luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn và thâm hụt đó trở nên nặng nên hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.3. Tác động đối với sự phân phối thu nhập của cải.
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối sinh ra từ những sự khác nhau trong các loại tài sản nợ nần của nhân dân.
Khi nhân dân có những khoản nợ dài hạn với lãi suất cố định thì việc, giá cả tăng lên thì đó là dấu hiệu tốt lành đối với ọh với lối suy nghĩ này voà những năm 70 công nghiệp xây dựng nhà cửa phát triển mạnh. Còn nếu bạn cho vay tài sản bằng cầm cố hoặc tín phiếu dài hạn, nếu giá cả đột nhiên tăng lên sẽ làm cho bạn nghèo đi.
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không đoán trước đối với giá trị thực tế của cải nhân dân. Nói chung sự lạm phát không được đoán trước và có tác động ngược lại.
1.4. Tác động đối với sản lượng và công ăn việc làm.
Ngoài việc phân phối lại thu nhập, lạm phát còn tác động đến nền kinh tế thực tế.
Những tác động về kinh tế vĩ mô: tác động trước tiên là đối với mức sản lượng nói chung. Những thời kỳ lạm phát tăng lên bất ngờ thường là những thời kỳ có công ăn việc làm nhiều và sản lượng cao.
Tác động kinh tế vĩ mô đối với tài nguyên, lạm phát làm biến dạng giá cả tương đối nói chung tỷ lệ lạm phát càng cao thì sự biến dạng giá cả tương đối càng lớn. Một mặt hàng hoá mà giá bị biến dạng một cách trầm trọng do lạm phát và tiền tệ. Do bản chất tiền tệ không mang lại lợi tức nghãi là lãi suất đối với tiền tệ là con số 0. Những lãi suất thực tế (lãi suất tính bằng hàng hoá thực tế) được chỉnh nghĩa là lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực tế đối với tiền tệ bị ảnh hưởng đối với lạm phát.
Vì vậy nên ngạc nhiên khi thấy những khoản tiền dư vẫn đọng một cách lạ lùng, khi giá cả tăng nhanh.
2. Lợi ích của lạm phát.
Không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác hại to lớn. Nếu tốc độ lạm phát vừa phải khoảng từ 2% đến dưới năm 5%/năm ở những nước phát triển và dưới 10% ở những nước kém phát triển và với việc “chỉ số hoá” lạm phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm páhệ thống có thể dem lại một số lợi ích.
- Lạm phát như một chất “xúc tác” kích thích nền kinh tế. Trong một điều kiện nào đó, có thể không qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngõ hả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nựo và đầu tư do đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế còn nếu lạm phát hoành hành thì kéo theo thất nghiệp là điều tất yếu: và là đặc trưng của kinh tế.
Năm 1960. A.W phillips, nhà kinh tế Mỹ đã đưa ra biểu đồ thể hiện mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tăng giá - tăng tiền lương và thất nghiệp như sau:
+ Lạm phát tỷ lệ thất nghiệp.
+ Lạm phát tỷ lệ thuận với tăng lương.
(Trong đó tỷ lệ tiền lương trên trục thẳng đứng biên phải coa hơn tỷ lệ lạm phát trên cột thẳng đứng bên trái 2% là tỷ lệ tăng giả định của năng suất lao động trung bình.
1
2
3
4
5
6
7
8
1
2
3
4
5
6
7
8
3. Sự đánh giá về tác động lạm phát.
Sự phân tích về tác động tác hại của lạm phát cho thấy nó là một hiện tượng phức tạp, với nhiều loại tác hại khác nhau.
Vậy chúng ta sẽ đánh giá cuối cùng về những gánh nặng của lạm páhệ thống không? Lạm phát có làm cho sản lượng thực tế của một nước giảm xuóng không? Và những tác hại đó có thể tính được đối với sự ổn định tinh thần và xã hội lớn hay nhỏ?
Qua nghiên cứu cho thấy lạm phát nhiều nhất ở các nước phát triển cũng chỉ là một tác động nhỏ đối với hiệu suất sản lượng thực tế. Và khó tìm thấy những tác hại hàng năm lên tới vài tỷ USD trong một nền kinh tế 4 ngày tỷ USD. Mặt khác sự biến dạng đột ngột do lạm phát hoặc những thay đổi trong thu nhập và của cải có một ảnh hưởng lớn khó chịu đối với nhiều cá nhân.
Qua nghiên cứu. Các nhà kinh tế cũng không tìm ra được những tác hại của lạm phát vừa phải nhất là trong một nền kinh tế hiện đại.
Chương II
Thất nghiệp và lạm phát.
A- Thất nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp và vấn đề trung tâm và là vấn đề giải quyết nó không phải một sớm một chiều mà nó là sự quan tâm của Chính phủ và Nhà nước.
Thất nghiệp là một thực tế nan giải của mỗi quốc gia có nền kinh tế thị trường, cho dù quốc gia đó phát triển hay không phát triển. Nếu một quốc gia số thất nghiệp nhiều sẽ dẫn đến sự sản xuất kém phát triển, tài nguyên bị lãng phí – thu nhập nhân dân thấp gây khó khăn tiêu cực cho kinh tế – xã hội. Đặc biệt sẽ gây nên tình trạng tiêu cực của xã hội và gây tác hại khó lường cả lĩnh vực kinh tế và xã hội.
1. Khái niệm thất nghiệp.
Thất nghiệp có tác động rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội. Vì vậy, số liệu kinh tế toàn diện và được tính toán ở mỗi quốc gia. Theo điều tra thông kê xã hội học người ta chia số dân ở tuổi 16 trở lên thành 3 nhóm lớn:
- Người đang làm việc: Đây là những người đang trực tiếp tham gia lao động và được trả công.
- Thất nghiệp nhóm này gồm những người không có việc làm nhưng đang tìm việc ohặc đang chờ được gọi trở lại làm việc. Nghĩa là một người là thất nghiệp nếu người đó không làm việc và có những cố gắng nhất định để tìm một công việc cụ thể.
- Nhóm còn lại “con số không thuộc lực lượng lao động nhóm này gồm những học sinh, sinh viên đang đi học hay những người về hưu, đau ốm bệnh tật không đi làm được.
* Tỷ lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm số người thất nghiệp với tổng số người trong lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của mỗi quốc gia. Do đó những quan điểm khác nhau về nội dung (phương pháp tính toán để có khả năng biểu luận đúng) đầy đủ đặc điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động đạt cân bằng, tại mức đó, tiền lương, giá cả hợp lý bởi các thị trường đều đạt cân bằng dài hạn số người thất nghiệp tự nhiên sẽ là tổng số thất nghiệp tự nhiên, nhưng người chưa có những điều kiện mong muốn để tham gia vào thị trường lao động.
Mức thất nghiệp thực tế có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng mức thất nghiệp tự nhiên. Khi nền kinh tế biến động hoạt động của các doanh nghiệp đình đốn, mức cầu về lao động giảm xuống.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên còn được gọi là tỷ lệ thất nghiệp mà ở mức đó không có gia tăng lạm phát.
2. Tác động kinh tế.
Trong thời kỳ thất nghiệp cao là thời kỳ mà GNP thực tế thấp hơn so với GNP tiềm năng. Vì khi thất nghiệp cao xảy ra một phần sản lượng bị bỏ hoặc không được sản xuất ra .
Mối quan hệ giữa thay đổi sản lượng và thất nghiệp đã được nhà kinh tế học Asthus - Okun nói rằng: “Khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1 phần trăm. Như vậy là mức GNP ban đầu là 100% tiềm nanưg và giảm xuống còn 98% tiềm năng, thì mức thất nghiệp sẽ tăng 1%.
Mức thất nghiệp cao dẫn tới làm giảm thu nhập của một bộ phận dân cư, gây lãng phí nguồn lực dẫn đến khó khăn kinh tế.
3. Tác động của xã hội đối với thất nghiệp.
Dù tác hại kinh tế của thất nghiệp lớn đến đâu chăng nữa thì thiệt hại tính bằng tiền cũng không thể diễn tả được một cách đẩy đủ tổn thất về mặt xã hội mà thời kỳ thất nghiệp cao kéo dài gây nên.
Những nghiên cứu cho thấy. Thất nghiệp coa thường kéo dài và phát triển luôn gắn bó với sự gia tăng phát triển của các tệ nạn xã hội, xói mòn nếp sống văn minh – lành mạnh truyền thống gây tầm thường về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người.
4. Các loại thất nghiệp.
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế phức tạp nó tác động đến mọi mặt đời sống – kinh tế – xã hội do đó cần phân loại để hiểu rõ bản chất của vấn đề này.
1.4.Theo loại hình thất nghiệp.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến từng bộ phận dân cư, ngành nghề... cần phải hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại của nó trong đời sống kinh tế xã hội với mục đích đó ta có thể chia thất nghiệp thành 2 loaị:
+ Thất nghiệp phân theo giới tính (Nam – nữ).
+ Thất nghiệp phân theo lứa tuổi
+ Thất nghiệp phân theo vũng lãnh thổ.
+ Thất nghiệp phân theo ngành nghề.
+ Thất nghiệp phân theo dân tộc, chủng loại.
4.2. Theo lý do thất nghiệp.
Lý do thất nghiệp được phân thành các loại sau:
- Bỏ việc, tự ý thôi việc vì những lý do khác nhau như lương bổng – nghề nghiệp.
- Mất việc: do hãng sản xuất kinh doanh cho thôi việc vì một lý do nào đó.
- Nhập mới: lần đầu bổ sung cho lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm đó (là những sinh viên vừa tốt nghiệp đại học đang công tác và thanh niên đến tuổi lao động tìm kiếm việc làm).
- Tái nhập: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động, nay muốn quay trở lại tìm việc nhưng chưa có việc làm.
Cách phân biệt này cho chúng ta biết được tính chính xác của tình hình thất nghiệp thực tế. Nhưng cơ cấu của loại thất nghiệp này vĩnh viễn, số thất nghiệp chỉ là con số mang thời điểm tạm thời nó luôn biến động không ngừng theo xã hội.
4.3. Căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp.
Các nhà kinh tế học đã chia nguồn gốc thất nghiệp làm 4 loại:
- Thất nghiệp tạm thời đây là mức thất nghiệp không thể tránh khỏi đối với xã hội năng động, nguyên nhân là do sự di chuyển không ngừng của dân số giữa các vùng các công việc hoặc các giai ddoạn khác nhau giữa cuộc sống. Những người thất nghiệp tạm thời thường do chuyển công việc chuyển những công việc hoặc tìm những công việc tốt hơn, phù hợp hơn. Chỉ khác là qui mô và thời gian thất nghiệp của mỗi quốc gia khác nhau.
- Thất nghiệp cơ cấu: Trong dài hạn động thái sản xuất và cơ cấu luôn thay đổi. Thất nghiệp do cơ cấu gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của cơ cấu thị trường lao động. Như vậy nó xuất hiện không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội việc làm khi động thái sản xuất và nhu cầu có sự thay đổi.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: Đây là lý thuyết thất nghiệp của Keynes khi tổng cầu giảm mà giá cả chưa điều chỉnh kịp mới mức toàn dụng của công nhân. Do suy giảm của tổng cầu, nền kinh tế dồi dào tình trạng suy thoái nên người ta gọi thất nghiệp chu kỳ.
- Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Xảy ra khi tiền lương được cố ý duy trì cao hơn mức lương mà thị trường lao động cân bằng do các yếu tố ngoài thị trường. Tiền công lao động không chỉ gắn với thu nhập mà còn có quan hệ đến mức sống tối thiểu của quốc gia. Do vậy những qui định cứng nhắc về mức lương tối thiểu sự không linh hoạt tiền công lao động đã phá vỡ tính năng động của thị trường lao động dẫn tới một bộ phận lao động mất việc làm hoặc khó khăn hơn trong tìm kiếm việc làm.
Tóm lại, thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ phận phân biệt của thị trường lao động. Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế suy thoái. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển xảy ra do tác động của các yếu tố phi kinh tế.
5. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của nền kinh tế thị trường. Vào năm 1958 giáo sư. A.W.Phillip ở học viện kinh tế London đã chứng minh rằng có mối liên hệ thống kê mạnh mẽ giữa tỷ lệ lạm phát hàng năm và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Anh.
Mối liên hệ tương tự cũng được phát hiện là đúng ở nhiều nước khác.
Mối quan hệ này được biết đến qua đường philips.
5. Đường Phillip ban đầu.
Khi ra đời lý thuyết về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (tại đó sản lương đạt mức sản lượng tiềm năng và lạm phát không thay đổi), đường philips được xây dựng hoàn chỉnh có dạng như sau:
gp = - e (U- U*)
Trong đó: gp: Tỷ lệ lạm phát
U: Tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
U* : Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
e: Độc dốc đường Phillips.
Lý thuyết này gợi ra cho ta thấy rằng: Có thể đánh đổi lạm phát nhiều hơn để có ít thất nghiệp hơn và ngược lại.
Đường phi líp ban đầu cho ta thấy:
- Lạm phát bằng không khi tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
- Một mức thất nghệp thấp tương ứng với một mức lạm phát cao và ngược lại.
Độ dốc e quyết định rất lớn đến mối quan hệ đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp.
Đưonừg philips đã gợi ý cho những nhà hoạch định chính sách lựa chọn các chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khoá, tiền tệ phù hợp với từng thời kỳ định.
Đường PHILLIPS ban đầu
GP
Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ thất nghiệp
U
U*
Đường PHILLIPS mở rộng
Thưc tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự kiến, vì thế đường phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ lệ lạm phát dự kiến (gpc).
Công thức: gp = gpe - e (U- U*).
Trong đó: gpe: Tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Đường này cho thấy khi thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhên thì lạm phát bằng tỷ lệ lạm phát tự nhiên.
Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến và ngược lại. Đương mô tả mối quan hệ sau gọi là đường phillips mở rộng. Trong thời kỳ này nếu có những cú xốc cầu. Giả sử tổng cầu tăng lạm phát tăng thất nghệp giảm.
Nếu không có sự tác động nào của chính sách thì giá tăng lên, mức cung thực tế giảm xuống, lãi suất tăng lên đường cầu dần được điều chỉnh về mức cả của nền kinh tế với lạm phát thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái ban đầu. Song vì lạm phát đã được dự kiến, tiền công và chi phí khác cũng được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát nên tỷ lệ giá cả dừng lại ở tỷ lệ dự kiến và mức thất nghiệp trở lại mức thất nghiệp tự nhiên.
GP
U
U*
5%
PC2
PC1
E
Đường PHILLIPS mở rộng
Hình trên cho ta thấy: Giả sử có cơn sốt về giá cầu đẩy lạm phát từ không lên 5% tiền công và các chi phí khác được điêù chỉnh để thích ứng sản lượng tiềm năng nhưng giá cả không tụt xuống, đường phillips lúc này là đường PC1.
Tại điểm E lạm phát khác không và bằng tỷ lệ lạm phát dự kiến (5%).
Riêng các cơn sốc về phía cung, đẩy chi phí sản xuất giá cả lên cao, sản lượng và việc làm giảm xuống, nền kinh tế rơi vào trì trệ lạm phát, không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Khi Chính phủ tăng mức cung tiền liên tục để giữ cho tổng cầu không suy giảm và thất nghiệp không thể tăng, nền kinh tế vẫn đạt mức sản lượng như cũ, nhưng giá cả tăng theo tỷ lệ tăng tiền. Như vậy sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và tài khoá để giữ cho nền kinh tế ổn định khi gặp cơn sốc về phía cung, chúng ta phải trả giá bằng mức lạm phát cao hơn.
6. Đường Phillips dài hạn
GP
U
U*
Đường PHILLIPS dài hạn
Trong ngắn hạn, tỷ lệ lạm phát thực tế bằng hoặc không bằng tỷ lệ lạm phát dự kiến, nhưng trong dài hạn có sự tác động của chính sách tài khoá - tiền tệ chúng sẽ bằng nhau. Nghĩa là gp = gpe. Do vậy đường philips chính sách dạng.
0 = -e (U – U*).
Hay: U = U*
Như vậy tỷ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Cho dù lạm phát thay đổi như thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau.
Biểu diễn trên đồ thị, đường philip dài hạn là đường thẳng đứng , cắt trục hoành tại điểm thất nghiệp tự nhiên.
Tóm lại,trong ngắn hạn trung hạn nền kinh tế vận động có sự biến đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp.
Thời gian này nền kinh tế đang tự điều chỉnh bởi các cơn sốc về phía cầu, nhưng không có sự đánh đổi lạm phát và thất nghiệp bởi các cơn sốc về phía cung.
Còn trong dài hạn, về cơ bản không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
II. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam
Qua khái niệm thất nghiệp và các đường phillips dài hạn, phillips mở rộng và phillips ban đầu ta nhận thấy tầm quan trọng giữa lạm phát và thất nghiệp đặc biệt tầm quan trọng vĩ mô giữa thất nghiệp và lạm phát ở Việt Nam. Không những thế thất nghiệp và lạm phát là vấn đề được các nhà kinh tế - các thông tin đại chúng hay các người quan tâm đến công ăn việc làm đều chú ý theo dõi từng bước đi của nền kinh tế ở mỗi quốc gia.
ở Việt Nam một đất nước từng ngày, từng giờ đang chuyển mình chuẩn bị bước vào một nền kinh tế vững mạnh hoà nhập với sự phát triển kinh tế của các nước phát triển trên thế giới. Thì không những nhà hoạch định chính sách kinh tế quan tâm mà mỗi người dân đều chú ý theo dõi từng bước đi của kinh tế, vậy làm gì để giảm lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam. Trên lý thuyết, nếu nước ta muốn giảm lạm phát thì phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp cao. Nhưng trong điều kiện hiện nay, thực tế cho ta thấy rằng ở nước ta không hoàn toàn phù hợp bởi mức sống của người dân Việt Nam còn quá thấp so với các nước khác. Ngoài ra nó còn phụ thuộc rất nhiều đến các yếu tố khác như: ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế cũ một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp một nền kinh tế còn tồn tại bởi các tàn dư phong kiến nên nền kinh tế Việt Nam chậm"mở cửa". Việc xây dựng cơ cấu kinh tế còn có nhiều bất cập hệ thống kinh tế Việt Nam và các luật ban hành còn tương đối mơ hồ lệch lạc, chưa phù hợp với tầm quản lý kinh tế vĩ mô. Chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và mở mang phát triển việc làm còn chậm chạp ngoài ra sự phát triển dân số còn quá đông.
Bên cạnh đó trong điều kiện quản lý kinh tế vĩ mô chưa ổn định, sự quản lý yếu kém thiếu kinh nghiệm ở các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh kết quả nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, số người thất nghiệp ngày càng tăng nhanh và do thất nghiệp nhanh lạm phát dẫn đến không mấy cao. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam hiện nay có xu hướng dao động với biên độ nhỏ, tốc độ lạm phát ở nước ta nhìn chung ổn định.
Sau đây là những số thống kê trong những năm qua:
Năm 1993: 5,2%
Năm 1994: 14,4%
Năm 1995: 12,7%
Năm 1996: 4,5%
Năm 1997 với sự tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tiền tệ lớn nhất trong lịch sử Châu á nhưng nước ta vẫn dữ được tỷ lệ lạm phát ở mức 3,6%. Qua sự hệ thống trên ta thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam không mấy rõ ràng. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang duy trì mức lạm phát và thất nghiệp vừa phải để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Theo thống kê hiện nay 6 tháng đầu năm 2000 tỷ lệ lạm phát Việt Nam vẫn dữ ở mức ổn định gần bằng 5% một tỷ lệ lạm phát tương xứng với sự phát triển kinh tế ở nước mình.
Có thể nới từ khi Đảng và Nhà nước chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bộ mặt kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, lạm phát và thất nghiệp đặc biệt là mối quan hệ của chúng vẫn luôn là vấn đề nan giải của nền kinh tế. Làm thế nào để có một mức lạm phát và thất nghiệp hợp lý phù hợp với điều kiện và phát triển của nền kinh tế - xã hội. Thực tế trở lại đây trong những năm gần đây sự phát triển"Thần kỳ" với mức lạm phát một con số , nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững bất kể khi nền kinh tế khu vực bị cơn bão khủng hoảng làm kiệt quệ nền kinh tế. Qua đó ta thấy sự quản lý kinh tế của Việt Nam có sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả những điều đó chính là nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước vì dân giàu nước mạnh vì một tương lai ổn định. Hy vọng rằng trong tương lai nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển thần kỳ sánh kịp với sự phát triển kinh tế của các nước phát triển và Việt Nam sẽ hoá"Rồng" trong tương lai.
Chương III
Các biện pháp chống lạm phát
ở giai đoạn nước ta đã có những thành công nhất định trong viêc kiềm chế lạm phát. Trong giai đoạn này để tiếp tục giữ được một lạm phát thấp phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay, tránh nguy cơ tái lạm phát và lạm phát cao thì điều cần nhất là phải có những biện pháp hữu ích nhất để kiềm chế lạm phát. Việt Nam phải đảm bảo cho thâm hụt ngân sách, đồng tiền phải được giữ giá để người tiêu dân tin tưởng và có thể gửi tiết kiệm trong nước. Lãi suất tiết kiệm vì thế phải cao hơn tốc độ lạm phát. Trên cơ sở có những chuyển biến tốt trong thời gian qua cần tiến hành thêm một bước quyết định để thúc đẩy quá trình hình thành đồng bộ nền kinh tế thị trường. Sử dụng tốt nhất công cụ quản lý vĩ mô và ổn định tài chính tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển.
Để đáp ứng những khoản chi lớn không lên dùng tiền do phát hành thêm để bù mà phải dựa vào tăng thu các nguồn vay viện trợ.
Phải áp dụng thuế gia tăng trong một số lĩnh vực điều chỉnh thuế xuất - nhập khẩu xăng - dầu, xây dựng các loại thuế mua bán, chuyển nhượng thừa kế tài sản.
Đầu năm 1999 đã bắt đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) tuy giá cả có nhúc nhích lên nhưng hoàn toàn không phải do áp dụng thuế làm tăng chi phí sản xuất kéo giá cả tăng lên, mà là do các hộ kinh doanh tự nâng mức giá do không hiểu về luật thuế hoặc do cố tình kiếm lợi. Tuy nhiên, do công tác chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt là công tác tuyên truyền cổ động khá tốt nên ổn định được tâm lý người tiêu dùng do đó giá cả đang giảm xuống. Bên cạnh đó Nhà nước cần thiết lập kỷ luật tài chính doanh nghiệp phát triển các dịch vụ kế toán - kiểm toán. Bài trừ tham nhũng trong hệ thống thu thuế đi đôi với ngăn chặn buôn lậu.
Về chi, phải sắp xếp các khoản chi tăng cường quản lý chi tiêu theo nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm. Đối với ngân sách cần phải nhắc lại nghị quyết Quốc Hội là thu được bao nhiêu thì chi bấy nhiêu. Đồng thời cần đẩy mạnh hơn nưax việc cải cách hành chính ở tất cả các khâu, các cấp, các ngành, thắt chặn chi tiêu về vốn xây dựng cơ bản, giao cho các doanh nghiệp tự tạo vốn bằng các hình thức đi vay vốn hoặc liên doanh liên kết ngân sách Nhà nước chỉ bố trí vốn đầu tư cho các công trình cơ sỏ hạ tầng và các công trình đặc biệt.
Đối với ngân hàng lạm phát phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền vào lưu thông quá mức cần thiết.
Cần phải phân định rạch ròi chức năng ngân hàng phải đảm bảo hoạt động theo đúng chức năng của mình, phải thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh mở rộng hoạt động theo đúng hướng đa dạng hoá các hình thức tín dụng, kinh doanh tiền tệ. Thực hiện cải tổ hệ thống ngân hàng theo pháp lệnh đổi mới đồng bộ từ cơ chế tổ chức bộ máy đến phương thức hoạt động. áp dụng cơ chế mua bán ngoại tệ bình thường và duy trì tỷ giá thực tế, ổn định làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc người Việt Nam tiêu tiền Việt Nam. Các doanh nghiệp không nhất thiết phải xuất mới nhập. Từng bước mở rộng thị trường vôn, thị trường chứng khoán trên mọi mìn đất nước. Về giác ngộ tiền tệ khó có thể cùng một lúc thực hiện hai mục tiêu giữ cho tỷ giá ngoại tệ theo ý muốn lại kiềm chế được lạm phát ở mức thấp.
Vấn đề cân nhắc hơn nữa là tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế việc tăng trưởng phương tiện thanh toán qua con đường phát hành tiền vào lưu thông. Những vấn đề càng quan trọng hơn phải được đẩy mạnh đó là nâng cao chất lượng tín dụng ở tất cả các ngân hàng thương mại.
Với các thành phần kinh tế, phải đánh giá lại đúng đắn vai trò của nó trong nền kinh tế.
Các doanh nghiệp Nhà nước: Kiên quyết loại trừ giải thể các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả sang hình thức khác như công ty cổ phần, công ty liên doanh. Thực hiện kiểm tra kiểm soát trong việc thi hành các loại thuế, giá thành tiền lương phân phối lợi nhuận.
Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần phát triển mạnh mạng lưới này dưới các hình thức công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty 100% vốn nước ngoài.
Cần xây dựng lại hệ thống đầu tư pháp luật đồng bộ và có hiệu lực. Điều này vừa tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư thuận lợi vừa giảm những"cú lừa" do các công ty nước ngoài gây ra, bởi lẽ hệ thống pháp luật lỏng lẻo là cái van hỏng lớn nhất đẩy nền kinh tế rối loạn, là cơ hội thuận lợi nhất cho hoạt động kinh doanh kiếm lời bằng lừa đảo. Xây dựng điều chỉnh luật đầu tư nước ngoài luật công ty cổ phần, luật thành lập doanh nghiệp đòi hỏi phải có luật nghiêm minh.
Kiềm chế lạm phát là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế của các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Từ khi Đảng và Nhà nước ta chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đã xem nó là nhiệm vụ cấp bách trước mắt cũng như lâu dài nên đã tiến hành cùng lúc nhiều biện pháp có kết quả về chính sách kinh tế để kiềm chế lạm phát thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế mà tình hình kinh tế tài chính của nước ta trong những năm vừa qua đạt được sự ổn định và có chiều hướng tốt nạn lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi.
1. Các chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập là ý đồ để tác động một cách trực tiếp tời tiền lương và các thu nhập khác.
Chính phủ muốn đẩy lùi lạm phát từ 10% xuống 5%. Nếu bằng pháp chế công khai hoặc tiềm ẩn, Chính phủ thuyết phục được mọi người đòi tăng lương chỉ ở mức 5% thì lạm phát về giá cả sẽ tụt xuống 5%.
Nếu bước quá độ này xảy ra nhanh thì tiền lương thực tế không bị ảnh hưởng, về cơ bản là đúng nhưng chính sách dự định trước đây đối với chính sách thu nhập lại bị thất bại. Trong trường hợp tốt nhất cũng chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn trước khi sự bùng nổ mới về tiền lương giá cả xảy ra. Tuy nhiên, điều này không phải là tất yếu và một vài nguyên nhân vì sao chính sách thu nhập không thành công.
Một là: khi can thiệp vào thị trường lao động Chính phủ không thể không đeo đuổi các mục đích khác cùng một lúc. Bằng cách thay đổi tiền lương tương đối và tiền lương thực tế, đã làm cho tiền lương thực tế sai lệch với mức cân bằng của chúng. Thị trường lao động lúc này mất cân đối tạo ra sức ép để lẩn tránh hoặc vi phạm chính sách.
Hai là: chúng ta coi chính sách thu nhập như một giải pháp tạm thời. Trong dài hạn mức tăng tiền lương chậm lại và cần thiết nếu muốn duy trì mức lạm phát thấp. Một chính sách thu nhập đã thất bại vì Chính phủ hy vọng rằng chính sách dài hạn có thể kiềm chế tiền lương và giá cả. Dẫu cho tiền lương danh nghĩa tiếp tục tăng với tốc độ nhanh, dẫn đến tổng cầu tăng nhanh tiền lương và giá cả phải tăng lên để làm giảm tổng cầu trở lại với mức việc làm đầy đủ.
Thứ ba: Khó có thể điều hành các chính sách thu nhập dài hạn trong nền kinh tế. Việc giữ nguyên tiền lương cơ cấu hiện hành băng cách dành cho mọi người một mức tăng lượng sinh hoạt ngang nhau sẽ dần tạo nên các tác nhân thị trường hùng hậu gây dư cầu dư cung.
Ba nguyên nhân quan trọng của những thất bại trước đây có thể là không đúng nếu chính sách chỉ là giải pháp tạm thời để đẩy nhanh việc điều hành tiền lương theo sự thay đổi cơ bản trong mức tăng tiền danh nghĩa.
2. Cải cách thể chế
Cách tiếp cận này không quan tâm tới chi phí tạm thời để đẩy lùi lạm phát mà là làm thế nào để lạm phát thấp.
Thư nhất: kiểm soát Ngân hàng Trung ương thông qua luật hạn chế lâu dài đối với tỷ lệ tăng tiền tệ danh nghĩa. Quy chế chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương có thể loại bỏ và ngăn ngừa sự bột phát tăng tiến và lạm phát ở thời gian nào đó. Nó cũng có thể làm tăng niềm tin vào chính sách tiền tệ chặt chẽ trong dài hạn.
Thứ hai: kiểm soát hệ thống ngân hàng các ngân hàng thương mại có sự linh hoạt nào đó trong việc tạo nguồn tiền gửi. Ngay cả khi Ngân hàng Trung ương kiểm soát chặt chẽ đối với tiền mặt, các ngân hàng thương mại vẫn có thể hoạt động với số dự trữ tiền mặt ít hơn và tạo thêm khoản tiền gửi mới thành lượng chính của mức cung tiền. Vì vậy buộc Ngân hàng phải có tỷ lệ tiền nhất định.
3. Học cách sống với lạm phát
Khi mức lạm phát cao hơn được duy trì từ lâu dài phần lớn các nền kinh tế dần dần đã học cách sống vơí lạm phát. Các ngân hàng đã bắt đầu trả lãi cao với lãi suất danh nghĩa cho một vài hình thức ký gửi. Các hãng bắt đầu chuyển sàng hạch toán lạm phát.
Chính phủ cam kết nâng các hạn ngạch phải nộp thuế danh nghĩa và tăng các khoản thanh toán chuyển nhượng danh nghĩa (trợ cấp thất nghiệp tiền lương) ngang với mức lạm phát.
Nói chung không có một giải pháp nào là dễ các chính sách tiền tệ tài khoá có thể gây ra những tổn thất lớn về sản lượng và việc làm trong bước quá độ đưa tới lạm phát thấp hơn. Vấn đề là nên xem xét lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong thực tiễn chúng ta sẽ tiếp tục với mức lạm phát nào đó. Với những thể chế mà có thể làm giảm phần nào đó tới những ảnh hưởng xấu của lạm phát - giữ tốc độ phát triển kinh tế.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ thập kỷ 80 đến nay.
Bước vào những năm 80 lạm phát "ngầm" bột phát "công khai"và trở thành lạm phát phi mã với mức tăng 3 chữ số.
Sau đây là bảng thống kê từ 1981 - 1988
Năm
Thị trường Nhà nước kiểm soát
Thị trường tự do
1981
202,0
147,4
1982
207,2
165,0
1983
142,8
157,5
1984
155,8
163,3
1985
210,9
154,7
1986
557,1
682,3
1987
389,9
429,2
1988
313,2
400,0
Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ số tăng giả 557% vượt năm trước. Những biểu hiện và tác hại của nó không kém gì siêu lạm phát. Vậy là mức lạm phát cao và không ổn định.
- Như vậy qua bảng tỷ lệ trên ta thấy từ năm 1981đến 1988 chỉ số tăng đều trên 100%/năm nhưng đầu 1980 mức tăng này lên trên 200% đến năm 1983, 1984 đã giảm xuống. Nhưng 1986 vượt cao nhất 557% sau đó giảm. Trên bảng ta thấy mức lạm phát không ổn định.
- ở Việt Nam vòng quay của đồng tiền qua ngân hàng Nhà nước lại không tăng lên mà giảm đi vì cơ chế hoạt động của ngân hàng quá kém không đáp ứng được nhu cầu gửi và rút tiền của các chủ kinh doanh và đầu tư.
- Tiền lương thực tế bị giảm mạnh. Nước ta trước 1988 hầu hết giá cả hàng hoá do Nhà nước quy định. Trong những năm 1980 Nhà nước đã nhiều lần tăng giá, trước 1985 mức giá Nhà nước quy định không lớn nên không bù vào lương, 1986 Nhà nước bù giá vào lương khi tăng giá. Nhưng tiền lương thực tế vẫn giảm mạnh vì Nhà nước không thay thế giá trị thị trường tự do.
* Từ năm 1989 nay:
Kể từ năm 1989 nay nước ta đã có một bước ngoặt lớn lần đầu tiên đẩy lùi lạm phát xuống mức hai con số trên một năm. Không dừng lại ở đó năm 1993 lần đầu tiên mức lạm phát hai con số trở thành hiện thực và kể từ đó đến nay nền kinh tế nước ta bắt đầu ổn định với tốc độ lạm phát dao động ở mức vừa phải.
Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh và ổn định. Năm 1996 khối lượng đầu tư nước ngoài vào trong nước lớn hơn nhiều so với những năm trước. Tốc độ tăng trưởng GDP (Gross Domestic Producing) tăng 9,34%. Năm 1997 tuy khối lượng đầu tư nước giảm nhưng tốc độ tăng trưởng GDP vẫn đạt 8,8% tỷ lệ lạm phát 3,6% hai tỷ số này được coi là thành tích quản lý kinh doanh kỳ diệu trong bối cảnh kinh tế các nước trong khu vực đang bị khủng hoảng.
Năm 1998 đây là sự cản trở khó khăn cho Việt Nam do thời tiết và cuộc khủng hoảng tiền tệ kéo dài làm giảm tốc độ phát triển kinh tế khu vực, làm giảm xuất khẩu và đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam.
Các nền kinh tế Châu á bị trật khỏi đường ray bởi sự mất giá của tiền tệ, chiếm ít nhất là 60% xuất khẩu của Việt Nam và đóng góp gần 70% trong đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Việt Nam không thể chuyển thị trường sang mỹ và Châu Âu nhanh được bởi các sản phẩm của Việt Nam là các sản phẩm sử dụng nhiều sức lao động với chi phí thấp.
Năm 1999 triển vọng thoát ra khỏi khủng hoảng và kinh tế có thể đi lên và tăng trưởng tốt. Việt nam vẫn duy trì được mức lạm phát một con số. Qua đây ta thấy Việt Nam đang hoà dần vào nền kinh tế thế giới với mức lạm phát một con số Việt Nam ngày càng tăng trưởng tiến kịp với các nước trong khu vực và thế giới.
Năm
Tốc độ lạm phát (%)
1989
34,7
1990
67,1
1991
67,5
1992
17,5
1993
5,2
1994
14,4
1995
12,7
1996
4,5
1997
3,6
Theo tin mới nhất tháng 9-2000 lạm phát Việt Nam đạt 5%/năm.
lời kết
Qua nghiên cứu và tìm hiểu lạm phát cùng những tác động của nó đối với nền kinh tế chúng ta thấy rõ tính tích cực và tiêu cực của lạm phát cùng sự tác động và mối quan hệ của nó đối với thất nghiệp.
Từ sự nghiên cứu trên chúng ta đã tìm hiểu tỉ mỉ về lạm phát và thất nghiệp. Qua đó ta có thể rút ra kết luận: Lạm phát và thất nghiệp đã trở thành những căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường nói chung và nước ta nói riêng. Do vậy giải pháp tốt nhất của vấn đề này không phải là cố gắng triệt để xoá bỏ lạm phát giảm thất nghiệp xuống bằng không mà phải tìm ra các biện pháp để kìm chế nó giảm xuống mức vừa phải để vừa đạt được mức tăng trưởng cao ổn định vừa hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài để rồi từ đó sửa đổi phục vụ cho lợi ích của nước mình và từ đó chuyển cái của nước bạn sang cách của nước mình. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng không nên rập khuôn máy móc mà phải dựa vào điều kiện đặc thù riêng của nước ta để có bước đi đúng đắn, làm được điều này chúng ta nhất định sẽ thành công.
Trong quá trình viết tiểu luận này do trình độ và khả năng còn hạn chế cho nên bài viết không tránh khỏi được sai lầm thiếu sót.
Vậy em kính mong thầy cô tạo điều kiện cho em tốt hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35025.doc