Sau khi Hùng Vương dựng nước Văn Lang thì An Dương Vương kế tục sự nghiệp cai quản lãnh thổ này dưới một quốc hiệu mới là Âu Lạc. An Dương Vương đã ảnh hưởng đến xã hội Văn Lang như thế nào? Thời kỳ lịch sử đó đem lại những biến đổi gì trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của tổ tiên ta? Điều đó lệ thuộc một phần vào nguồn gốc của An Dương Vương, thời gian tồn tại và vị trí của nước Âu Lạc.
Tài liệu Việt Nam ghi chép về nước Âu Lạc và An Dương Vương khá phong phú, khá đầy đủ chi tiết. Việt sử lược ghi:“ Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương” ( ).
Lĩnh Nam chích quái chép: “ Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên Phán, nhân vị tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua Hùng Vương, Hùng Vương không gả con cho, bèn mang oán, Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải tên nước là Âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường” ( ).
Việt điện u linh chép: “Vua Hùng Vương có một người con gái tên là Mỵ Châu, sắc đẹp tuyệt trần, vua nước Thục sai sứ sang cầu hôn, Hùng Vương định gả. Có quan đại thần là Lạc hầu tâu rằng:“ Không nên! Họ định mượn cớ cầu hôn để ngấp nghé đất nước ta đó” .Hùng Vương nghe lời mới không gả con cho vua Thục .” ( ).
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Cuối đời Hùng Vương, vua có con gái tên là Mỵ Nương, người xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng đến cầu hôn” ( ). Đó là nội dung về Âu Lạc và An Dương Vương ghi trong bốn tập sách Việt Nam xưa nhất đó còn tồn tại cho đến nay. Ngoài bốn sách này, còn có các sách như Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, v.v .cũng có sách ghi chép về ậ và An Dương Vương với nôi dung tương tự. Cho nên từ trước đến nay, người ta vẫn xem nước Âu Lạc bắc giáp Ba Thục, đông giáp Động Đình .Và An Dương Vương là người Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), con của vua Thục thời Chiến Quốc. Chỉ có một số sử thần nhà Nguyễn đã bác bỏ ý kiến đó. Họ cho là ranh giới của Âu Lạc (cũng tức là của Văn Lang) không vươn đến Ba Thục; Thục Phán có thể là người họ Thục, chứ không thể là con vua Thục thời Chiến Quốc ( ). Sau này, thời Pháp thuộc, Trần Trọng Kim và một số người khác cũng lặp lại ý kiến đó mà không có lý lẽ gì hơn các sử thần thời Tự Đức. Nhưng nhìn chung, ý kiến thứ nhất vẫn được các nhà nghiên cứu ngả theo hơn.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3446 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương
Sau khi Hùng Vương dựng nước Văn Lang thì An Dương Vương kế tục sự nghiệp cai quản lãnh thổ này dưới một quốc hiệu mới là Âu Lạc. An Dương Vương đã ảnh hưởng đến xã hội Văn Lang như thế nào? Thời kỳ lịch sử đó đem lại những biến đổi gì trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của tổ tiên ta? Điều đó lệ thuộc một phần vào nguồn gốc của An Dương Vương, thời gian tồn tại và vị trí của nước Âu Lạc.
Tài liệu Việt Nam ghi chép về nước Âu Lạc và An Dương Vương khá phong phú, khá đầy đủ chi tiết. Việt sử lược ghi:“ Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương” ( Việt sử lược ( bản dịch của Trần Quốc Vượng) – Hà Nội, 1969. Trang 14.
). Lĩnh Nam chích quái chép: “ Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên Phán, nhân vị tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua Hùng Vương, Hùng Vương không gả con cho, bèn mang oán, Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải tên nước là Âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường” ( Vũ Quỳnh và Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái ( bản dịch của Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San) – Hà Nội, 1960. Trang 57.
). Việt điện u linh chép: “Vua Hùng Vương có một người con gái tên là Mỵ Châu, sắc đẹp tuyệt trần, vua nước Thục sai sứ sang cầu hôn, Hùng Vương định gả. Có quan đại thần là Lạc hầu tâu rằng:“ Không nên! Họ định mượn cớ cầu hôn để ngấp nghé đất nước ta đó”...Hùng Vương nghe lời mới không gả con cho vua Thục...” ( Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh ( bản dịch của Trịnh Đình Rư) – Hà Nội, 1960. Trang 55 và 56.
). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Cuối đời Hùng Vương, vua có con gái tên là Mỵ Nương, người xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng đến cầu hôn” ( Đại Việt sử ký toàn thư ( bản dịch của Cao Huy Giu) – Hà Nội, 1967. Tập I, trang 62, 63, 64.
). Đó là nội dung về Âu Lạc và An Dương Vương ghi trong bốn tập sách Việt Nam xưa nhất đó còn tồn tại cho đến nay. Ngoài bốn sách này, còn có các sách như Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, v.v...cũng có sách ghi chép về ậ và An Dương Vương với nôi dung tương tự. Cho nên từ trước đến nay, người ta vẫn xem nước Âu Lạc bắc giáp Ba Thục, đông giáp Động Đình...Và An Dương Vương là người Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), con của vua Thục thời Chiến Quốc. Chỉ có một số sử thần nhà Nguyễn đã bác bỏ ý kiến đó. Họ cho là ranh giới của Âu Lạc (cũng tức là của Văn Lang) không vươn đến Ba Thục; Thục Phán có thể là người họ Thục, chứ không thể là con vua Thục thời Chiến Quốc ( Việt sử thông giám cương mục (bản dịch của Tổ Phiên dịch Ban nghiên cứu Văn Sử Địa) – Hà Nội, 1957. Tiền biên, quyển I, trang 57.
). Sau này, thời Pháp thuộc, Trần Trọng Kim và một số người khác cũng lặp lại ý kiến đó mà không có lý lẽ gì hơn các sử thần thời Tự Đức. Nhưng nhìn chung, ý kiến thứ nhất vẫn được các nhà nghiên cứu ngả theo hơn.
Trong mấy năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra một số tài lệu khác ( Truyền thuyết vùng Cao Bằng: tác giả Pháp Ro-ma-mê Đuy Cai-yô (Romanet du Câihud), “Cầu Chúa cheng vùa”, các thần tích vùng Vĩnh Phú, Hà Tây v.v...
), từ đó hình thành một số ý kiến mới. Hoặc cho rằng Thục Phán vốn ở “nước Nam Cương” thuộc khu vực Cao Bằng ngày nay, hoặc cho rằng Thục Phán là người Ai Lao Di thời Hán tức thuộc khu vực tỉnh Vân Nam của Trung Quốc ngày nay, sát trên đường biên giới Trung-Miến. Nhờ có thêm nhiều tài liệu, có nhiều ý kiến khác nhau như thế, chúng ta có nhiều điều kiện tìm hiểu thêm, tiến đến xác minh vấn đề nước Âu Lạc và An Dương Vương.
Những tài liệu trong nước kể trên đây rất quý giá cho việc nghiên cứu nước Âu Lạc và An Dương Vương. Nguồn gốc của các tài liệu đó là những chuyện dân gian đã được nhiều đời truyền kể, thêm bớt, rồi được các sĩ phu phong kiến nhào nặn với nhiều tài liệu Trung Quốc, thành ra những truyền thuyết, thần thoại, thần tích, v.v...Thần tích cũng như chuyện cổ dân gian vừa mới được chúng ta khai thác trong vài năm gần đây để phục vụ cho việc nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương. Song các tài liệu quý báu này lẫn lộn rất nhiều yếu tố lịch sử đời sau và nhiều hư cấu văn nghệ nữa. Nghiên cứu, sàng lọc khối tài liệu đó đã là một nhiệm vụ cấp bách, nhưng nặng nề. Tuy nhiên vẫn có nhiều thuận lợi. Thời kỳ An Dương Vương nằm gần đầu Công nguyên; và sĩ phu phương Bắc khoảng Công nguyên có hiểu biết và ghi chép khá nhiều về khu vực Lĩnh Nam, trong đó có nước Âu Lạc.
Số tài liệu nước ngoài này cho phép soi sáng và chừng mực nào đó giám định các tài liệu trong nước. Bài này nhằm chủ yếu mục đích đó.
Nước Âu Lạc ở đâu?
Thời Chiến Quốc, thế lực phong kiến phương Bắc đã ảnh hưởng đến khu vực Ngũ Lĩnh, nhưng chủ yếu còn dừng lại ở Lĩnh Bắc (tức là từ phía Trường Sa ngày nay trở về phía Bắc). Nước Việt của Câu Tiễn là khu vực cực nam nằm trong vùng ảnh hưởng của nhà Chu. Đó là nước có tiếng tăm và uy thế trong thời kỳ này. Do đó từ Việt đã dùng để phiếm chỉ toàn bộ khu vực từ nước Việt này trở về nam, tựa hồ như biên giới nước này kéo xa về phía nam một cách vô hạn. Lúc bấy giờ “Nam Man”, người phương Nam, tức là Việt. Đó là nhận thức của sĩ phu đương thời.
Năm 470 trước Công nguyên, nước Việt bị diệt. Cửa ngõ thông qua bên kia Ngũ Lĩnh mở rộng. Người phương Bắc nhận thấy ở khu vực này không phải chỉ có một nước Việt mà có nhiều “nước Việt”. Từ Việt trước kia dùng để chỉ cho tất cả khu vực này được thay thế bởi từ Bách Việt (vô số nước Việt). Chính sự hiểu biết sâu hơn nữa về khu vực này đã làm cơ sở cho nhiều cuộc hành quân của quân Tần vào Lĩnh Nam.
Với cuộc hành quân cuối cùng của Đồ Thư, Sử Lộc vào năm 214 trước Công nguyên, quân Tần đãchiếm được Lĩnh Nam trừ lưu vực sông Hồng ngày nay. Tần đặt ra bốn quận: Mân Trung, Nam Hải, Tượng, Quế Lâm; Triệu Đà được cử làm huyện lệnh Long Xuyên ở quận Nam Hải. Khi nhà Tần sụp đổ Triệu Đà cát cứ một phương, lập ra nước Nam Việt vào năm 207 trước Công nguyên. Tư Mã Thiên kể truyện Triệu Đà - “ Uý Đà” – nói về nước Âu Lạc, do đó cung cấp tài liệu để chúng ta để tìm hiểu về nước này.
1. Âu Lạc (với Tây Âu Lạc) trong Sử Ký và Tây Âu trong Hán Thư
Mân Việt Vương Vô Chư và Đông Hải Nam Dao cùng Triệu Đà nhân dịp Tần đổ, nổi dậy. Đến năm 192 trước Công nguyên thì Dao được vua Hán phong làm Đông Hải Vương, đóng đô ở Đông Âu; người ta thường gọi là Đông Âu Vương.
Riêng khu vực Nam Hải, Quế Lâm, Tượng thì bị Triệu Đà chống chế. Triệu Đà cố xây dựng thế lực độc lập của mình nhằm hình thành một quốc gia lớn đủ sức tồn tại song song với thế lực phương Bắc. Việc đầu tiên của họ Triệu là gọi tất cả các quan lại Tần về, tìm cách hãm hại rồi đưa tay chân tin cậy của mình lên thay. Đà đánh chiếm Tượng và Quế Lâm rồi tự xưng Nam Việt Vương. Việc thứ hai là chuẩn bị lực lượng chống lại quân Hán. Năm 196 trước Công nguyên, nhà Hán sai Lục Giả dụ Đà hoà hiếu với Hán. Đến thời Cao Hậu (187 – 180 trước Công nguyên), Đà đánh nhau với quân Hán. Năm 180 trước Công nguyên, Cao Hậu chết, quân Hán rút lui. Thừa thế thắng, nhân có sẵn quân đội đã được động viên và tổ chức, Đà “dùng sức ép quân sự kèm với mua chuộc bằng của cải khiến Mân Việt và Tây Âu Lạc thần phục”( .2 ư Mã Thiên: Sử ký, Liệt truyện 53, Nam Việt Uý Đà - trong Nhị thập tứ sử, Bắc Kinh, 1958. Trang 1066 (số trang thống nhất cho toàn bộ)
). Rồi Triệu Đà tiến lên xưng đế.
Một thời gian sau, nhà Hán cường thịnh lại, sai Lục Giả dụ Đà ra hàng. Lục Giả trách Đà sao dám xưng đế, ngang hàng với vua Hán. Đà trả lời rằng ở chốn “man di” này ai cũng có thể xưng vương cả, như “Mân Việt, ở phía đông có nghìn người mà xưng vương, Âu Lạc, ở phía tây là nước ở trần mà cũng xưng vương”(
).
Đó là lần đầu tiên ta thấy xuất hiện trong sử sách những từ “Đông Âu”, “Tây Âu Lạc”, “Âu Lạc”, với toàn bộ bối cảnh lịch sử của nó.
Trong Sử ký còn có bốn chỗ ghi chép về “Âu Lạc” nữa. Khi quân Hán tiêu diệt nước Nam Việt, thì viên giám Quế Lâm là Cư Ông “dụ Âu Lạc thuộc Hán”( Tư Mã Thiên: sách đã dẫn – Trang 1069.
) cho nên được phong hầu. Điều này được ghi lại trong bản thống kê các chức hầu với chi tiết cụ thể hơn: Tương Thành Hầu có công “dụ Âu Lạc binh hơn 40 vạn ra hàng”( Tư Mã Thiên: sách đã dẫn. Niên biểu 8 – Kiến nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu. Trang 344.Điều này trong Hán thư cũng ghi như thế, chỉ khác là ghi “Âu Lạc dân”.
). Cũng cùng trong bảng thống kê này, có Hạ Lịch Hầu là “tả tướng cũ của Âu Lạc chém Tây Vu Vương nên được phong hầu”: “Năm nguyên Phong thứ 6 ( Năm 105 trước Công nguyên
) phong hầu cho tả tướng quân Hoàng Đồng”( Tư Mã Thiên: Sách đã dẫn – trang 344.
Điều này trong Hán thư cũng ghi như thế, nhưng ghi trong Đông Việt truyện, trong Sử ký, chỉ thấy ghi ở Nên biểu 8.
). Để kết thúc truyện Uý Đà, Tư Mã Thiên có tóm tắt và bình luận. Trong lời Thái Sử Công có câu: “Âu Lạc đánh nhau( Tư Mã Thiên: sách đã dẫn, Liệt truyện 5. Trang 1069.
), Nam Việt lung lay, quân Hán đến biên giới. Anh Tề vào triều...”( “Âu Lạc tương công”: chi Mân Việt và Nam Việt đánh nhau.
). Đó là Tư Mã Thiên tóm tắt việc Mân Việt đánh Nam Việt, vua Mân Việt có nguy cơ thua, cầu cứu Hán và sai thái tử Anh Tề vào triều chầu vua Hán. Sự việc xảy ra vào năm Kiến Nguyên thứ 4 (137 trước Công nguyên).
Như vậy, trong Sử ký có chép năm lần từ “Âu Lạc” và một lần từ “Tây Âu Lạc”
Sử Ký của Tư Mã Thiên viết xong vào khoảng năm 91 trước Công nguyên ( Cũng có tài liệu cho Sử ký được hoàn thành sớm hơn mấy năm
). 76 năm sau, Ban Cố viết xong Hán thư. So sánh Hán thư với Sử ký ta thấy Ban Cố chép lại nguyên văn của Tư Mã Thiên khá nhiều. Truyện Nam Việt cũng thế: phần nhiều là họ Ban chép theo truyện Uý Đà của Tư Mã Thiên. Có thay đổi vài chữ: “nhi”, “nhân”, “dĩ”…không ảnh hưởng gì đến ý. Nhưng cũng có đoạn Ban Cố đưa nhiều tài liệu mới vào; ví dụ như bức thư của Hán Văn Đế gửi cho Triệu Đà. Điều đó chứng tỏ Ban Cố có tiếp xúc nhiều tư liệu khác chứ không phải chỉ chép Tư Mã Thiên. Sử ký cũng như Hán thư đều là hai bộ sử viết đến thời hiện đại lúc bấy giờ. Sự việc về Nam Việt cũng xảy ra vào lúc Tư Mã Thiên đang làm quan và cách xa Ban Cố - nhất là Ban Bưu, cha của Cố, người khởi thảo Hán thư - chưa bao lâu. Cho nên cả hai nhà viết sử này đều có khả năng hiểu biết và nắm được tư liệu về Nam Việt gần như nhau. Vì vây chúng ta không lấy gì làm ngac nhiên khi thấy cơ bản hai cuốn sách này giống nhau.
Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải hết sức để ý đến sự khác nhau giữa hai bộ sử đó. Bởi vì hai nhà viết sử có nguồn sử liệu khác nhau mà đều có khả năng chính xác cả. Khi đem so sánh các đoạn văn có liên quan đến Âu Lạc, ta thấy Ban Cố hầu như chép y Sử ký - chỉ có một trường hợp chép khác và từ đó gây ra ít nhiều suy nghĩ trong việc nghiên cứu. Đó là đoạn văn nói về Âu Lạc. Sử ký ghi: “Kỳ đông Mân Việt thiên nhân chúng xưng vương, kỳ tây Âu Lạc loã quốc diệc xưng vương…” Hán thư ghi: “Tây hữu Tây Âu( Chúng tôi nhấn mạnh.
) kỳ chúng bán loã nam điện xưng vương, đông hữu Mân Việt kỳ chúng số thiên nhân diệc xưng vương…” ( Ban Cố: Hán thư, Liệt truyện 65 (Nam Việt) – Trong nhị thập tử sử, Bắc Kinh, 1958. TRang1358.
Trong đoạn văn trên, chữ “loã” do in thể phức tạp nên nhầm ra chữ “luy”. Có bản Hán thư khác in là “loã”. Trong Sử ký dùng chữ “loã” thể giản. Về đoạn tài liệu của Sử ký, xem chú thích số 1, trang 146.
).
Rõ ràng trong đoạn văn của Sử ký thì “tây” đứng trước “Âu Lạc” là từ chỉ phương hướng, tương xứng với “đông” chỉ cho “Mân Việt”. Còn trong Hán thư thì tác giả đã tách từ chỉ phương hướng ra khỏi tên đất một cách quá ư rõ ràng; tên nước là “Tây Âu” chứ không phải Âu Lạc, mà đối chiếu nội dung hai bên thì Tây Âu lại chính là Âu Lạc.
Vậy qua hai cách đó, một vấn đề đặt ra: “Tây Âu”, “Tây Âu Lạc” và “Âu Lạc” là tên gọi của 1 nước, 2 nước hay 3 nước? Và vị trí của nước đó (hay các nước đó) ở đâu?
Có thể dễ dàng cho rằng Hán thư in sót một chữ “Lạc”, thừa một chữ “Tây” ở đoạn văn này, cũng như đã từng sót một chữ “vô” vô cùng quan trọng, mà thôi ( Trong Sử ký, Bình chuẩn thư có ghi là 17 quận mới đặt ở phía nam từ Phiên Ngung đến phía nam của Thục đều “dĩ kỳ cố tục trị vô phú thuế”. Thực hoá chí của Hán thư chép y như thế nhưng mất chữ “vô”, hoá ra là “có” phu thuế.
).
Nhưng vấn đề rắc rối là ở chỗ có những tài liệu khác, trước cả Sử ký và sau Hán thư cũng ghi về Tây Âu.
2. Tây Âu trong sách trước Sử ký và trong sách sau Hán thư
a. Thiên Nhân gian huấn trong sách Hoài Nam Tử ghi: Vua Tần “lại sai lính đào Linh Cừ đánh thông đường chở lương thực để đánh nhau với người Việt, giết Tây Âu quân là Dịch Hu Tống…”( Lưu An: Hoài Nam Tử. Nhân gian huấn. Quyển 18, trang 13.
). Thế là có một Tây Âu được ghi chép trước Sử ký.
Hoài Nam Tử chết vào năm 122 trước Công nguyên: sách của Hoài Nam Tử ra đời trước sách của Tử Mã Thiên.
Đúng ra chữ “Âu” trong Hoài Nam Tử đó theo âm đọc ngày nay là “Ẩu”. Về cấu tạo tự dạng thì hai chữ có khác nhau, tuy cùng có một bộ phận hài thanh giống nhau, là “khu”; âm đọc do đó có gần nhau, nhưng thanh thì khác xa nhau. Cũng có thể thời Tần Hán hai chữ này thông dụng theo phép giả tá cổ truyền của chữ Hán. Do đó, trong Bách Việt tiên hiền chí, khi chép lại việc này, tác giả đã viết là Âu chứ không phải Ẩu.
Địa điểm của nước Tây Âu trong Hoài Nam Tử phù hợp với địa điểm của Tây Âu trong Hán thư, vì nó nằm ở khu vực phía bắc thị trấn Quế Lâm thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay, tức là thuộc phía tây nước Nam Việt của Triệu Đà. Vấn đề này chúng ta sẽ quay trở lại dưới đây.
b. Sau Hán thư, Cựu Đường thư cũng có những sách về Tây Âu. Khi giải thích diễn biến lịch sử của một số châu huyện thời Đường, sách này ghi:
- “Uất Binh là huyện Quảng Uất, thuộc quận Uất Lâm thời nhà Hán, là nơi xưa Tây Âu Lạc Việt ở”.
- “Mậu danh là trị sở của châu (Phiên), đất cũ của Tây Âu Lạc Việt, thời Tần thuộc quận Quế Lâm, thời Hán là đất Hợp Phố”.
- “Đảng Châu Hạ là nơi xưa Tây Âu cư trú, Tần đặt quận Quế Lâm, Hán lập thành quận Uất Lâm, Đường đặt Đảng Châu”.
- “Tuyên Hoá là trị sở của châu (Ung), là đất của huyện Lĩnh Phương, thuộc quận Uất Lam thời Hán, thời Tần là quận Quế Lâm…là đất Lạc Việt cũ”( Lưu Hú: Cựu Đường thư, Địa lý chỉ – Lĩnh Nam đại, chí 21. Trong Nhị thập tứ sử. Bắc Kinh, 1958. Trang14373, 14374.
Chúng tôI nhấn mạnh các từ: “Tây Âu Lạc Việt”, “Tây Âu”, “Lạc Việt”.
).
Lưu Hú viết xong Cựu Đường thư vào thời Hậu Tấn (khoảng từ năm 937 đến năm 946). Lưu đã căn cứ vào các biên niên sử đời Đường, các địa lý chí thời trước để lại mà soạn ra bộ sách này. Theo Lưu, một số khu vực ở Lĩnh Nam xưa kia là của “Tây Âu Lạc Việt”, hay Tây Âu.
Sau Lưu Hú, Nhạc Sử làm Thái Bình hoàn vũ ký (cũng thế kỷ thứ 10), cũng ghi chú một số địa điểm ở Lĩnh Nam là đất cũ của Tây Âu – “Tây Âu Lạc Việt”, - gần y như Cựu Đường thư. Đặc biệt có chỗ ghi chi tiết hơn như:
- Đất Quý Châu thời Ngu Thuấn đến thời Chu là đất hoang duệ( Tức khu vực ở ngoài xa cùng của phạm vi ảnh hưởng của nhà Chu.
).
- Tần tóm thu thiên hạ, chiếm Dương Việt, đặt quận Quế Lâm, đem người đày ra đó. Sách Dư địa chí ghi đó là đất Tây Âu Lạc Việt cũ, Tần tuy có lập quận nhưng vẫn có tên Âu Lạc. Năm Nguyên Đĩnh thứ 6 ( Năm 111 trước Công nguyên.
) đời nhà Hán, đổi quận Quế Lâm của Tần thành quận Uất Lâm…”.
- “Huyện Uất Lâm là đất Quảng Uất thời nhà Hán, là đất cư trú cũ của Tây Âu Lạc Việt. Sau đến thời nhà Hán, Cốc Vĩnh làm thái thú Uất Lâm hàng phục mười vạn người Ô Hử, đặt bảy huyện, đó là huyện Uất Lâm ở phía Tây sông Uất”( Nhạc Sử: Thái Bình hoàn vũ ký – Quyển 165, 166.
Chúng tôi nhấn mạnh các từ “Tây Âu Lạc Việt”, “Âu Lạc”.
).
Tóm lại, trước Ban Cố cũng như sau Ban Cố đều có tài liệu nói đến nước Tây Âu. Do đó ta không thể xem Ban Cố chép câu của Tử Mã Thiên về Âu Lạc, mà xót một chữ “Lạc”, thừa một chữ “Tây”…Vậy phải chăng Tây Âu tức là Tây Âu Lạc, và cũng tức là Âu Lạc? Muốn rõ điều đó cần phải nghiên cứu vị trí của “Tây Âu”, “Tây Âu Lạc” và “Âu Lạc”, ở mỗi nơi sách nói đến.
3. Vị trí của Tây Âu, Tây Âu Lạc, Âu Lạc
Trong Hoài Nam tử, Địa điểm của Tây Âu gắn liền với địa điểm Linh Cừ. Ngày nay Linh Cừ còn lại dấu vết ở nguồn sông Ly thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay. Nó nối liền sông Ly với sông Tương (thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay) ở vùng giáp ranh hia tỉnh Quảng Nam và Hồ Nam của Trung Quốc ngày nay (khu vực huyện Hưng An). Sách cổ ghi chép về con kè này khá tỉ mỉ. Sử Lộc đào con kè này để nối liền đường thuỷ từ khu vực Trường Sa, sang khu vực Quế Lâm. Lợi dụng con đường này quân Tần chuyển lương thực tiếp tế cho cánh quân đánh Tây Âu. Vậy Tây Âu phải nằm ở khu vực quận Quế Lâm đương thời (tức tỉnh Quảng Tây, và vùng phị cận ngày nay). Lưu Hú chỉ rõ Đảng Châu đời Đường là khu vực Tây Âu cũ, là khu vực quận Quế Lâm thời Tần. Như vật địa bàn Tây Âu của Hoài Nam tử phù hợp với địa bàn Tây Âu của Lưu Hú.
Sử ký đặt Âu Lạc(“ kỳ Tây Âu Lạc”) và Hán thư đặt Tây Âu ở đâu? Triệu Đà nói rất rõ: Mâm Việt ở phía đông; Âu Lạc (theo Sử ký), Tây Âu (theo Hán thư) đều ở phía tây. Triệu Đà lấy Nam Việt làm trung tâm để định phương hướng cho các nước láng giềng. Như vậy rõ ràng là Âu Lạc hay Tây Âu thì đều nằm trong khu vực quận Quế Lâm thời Tần.
Ta có thể kết luận rằng địa bàn của Tây Âu hay Âu Lạc trong bốn sách kể trên đều là một: khu vực quận Quế Lâm thời Tần. Trong Sử ký và Hán thư, Âu Lạc và Tây Âu được nói song song với Mân Việt. Lần duy nhất Tây Âu Lạc xuất hiện trong Sử ký lại cũng được nói song song vói Mân Việt. Tây Âu Lạc cũng tức Tây Âu và cũng tức Âu Lạc mà thôi.
Căn cứ theo tài liệu Sử ký và Hán thư ghi về quân (cũng tức là dân) Âu Lạc “hàng” Hán, thì ta thấy người Âu Lạc ở khu vực Quế Lâm vì đã bị tên quan cai trị ở Quế Lâm, “dụ” hàng nhà Hán. Nếu như hai tác giả này dùng tên đất thời Tần để ghi sự việc, thì vị trí của Âu Lạc thật rõ ràng: thời Tần có quận Quế Lâm. Còn nếu ta cho rằng hai tác giả đã ghi sự việc theo tên đất thời Hán, thì vị trí của Âu Lạc cũng không có gì thay đổi, vì quận Quế Lâm thời Tần sang thời Hán cải thành quận Uất Lâm, nhưng Quế Lâm vẫn là tên một huyện trong quận Uất Lâm đó; huyện Quế Lâm của quận Uất Lâm (Quế Lâm cũ) nằm về khoảng giữa của quận. Vậy chi tiết này xác định địa bàn Âu Lạc nói ở đây trùng với địa bàn Âu Lạc và địa bàn Tây Âu nói nơi khác.
4. Tây Âu Lạc Việt: nước Tây Âu (hay Âu Lạc) và người Lạc Việt
Trong Cựu Đường thư còn có từ “Tây Âu Lạc Việt”nữa. Từ này cũng chỉ khu vực Quế Lâm thời Tần mà thôi. Song điều đáng chú ý là từ này, khi được dùng, là chỉ đất, chỉ người chứ không phải chỉ nước.
Muốn làm sáng tỏ vấn đề, chúng ta lại phải trở lại tìm hiểu quá trình hiểu biết khu vực Lĩnh Nam của các sĩ phu phong kiến phương Bắc qua các đời. Thời Chu, sĩ phu phong kiến phương Bắc chỉ biết đến nước Việt của Câu Tiễn. Sau khi nước này bị diệt, thì họ biết đến nước Đông Âu. Do Đông Âu là nước hùng mạnh đàu tiên họ gặp, cho nên bấy giờ từ Âu (vốn tên con sông mà dân nước này tập trung cư trú ven bờ) được dùng thay cho từ Việt xưa kia để chỉ những người Lĩnh Nam. Do đó trong Sử ký có dùng từ Âu Việt ( Tư Mã Thiên: Sách đã dẫn – Thế Gia 13 (Triệu Thế Gia). Trang 607.
), Âu Nhân ( Tư Mã Thiên: Sách đã dẫn – Liệt truyện70 (Thái tử công tự tựa). Trang 1203.
) để chỉ người Việt ở Lĩnh Nam, dù họ ở khu vực Mân Trung hay khu vực Chu Nhai - Đạm Nhĩ.
Khi quânTần tiến vào phía tây của Lĩnh Nam, gặp một nước kiệt hiệt, chống trả quyết liệt và cuối cùng chiến thắng họ. Theo các sĩ phu phương Bắc, nước này cũng có đặc điểm giống như Đông Âu Dân ở đây là người Việt, ở bên bờ một con sông, dũng cảm, thiện chiến v.v…Do đó mọi người gọi nước này là Tây Âu, đối chiếu với nước nọ là Đông Âu. Trước đó Đông Âu có lẽ chỉ gọi là Âu, chưa có vật đối lập của nó là Tây Âu, thì tất cũng chưa cần có chữ Đông Âu trước chữ Âu. Bằng chứng là có từ Âu Việt và Âu Nhân chứ không có Đông Âu Việt, Đông Âu Nhân. Thế kỷ thứ 7, Nhan Sư Cổ giải thích: “Tây Âu tức là Lạc Việt, gọi Tây (Âu) là để phân biệt với Đông Âu”( Hán thư, Liệt truyện65 (lời chú thích của Sư Cổ). Trang 2356.
). Giải thích như vậy là hoàn toàn chính xác.
Đồng thời với phát hiện ra Tây Âu, sĩ phu phương Bắc thấy người Việt ở khu vực này cũng có đặc điểm khác với người Việt ở khu vực khác. Giả Quyên Chi nói: “Người Lạc Việt cha con cùng tắm một sông, uống bằng mũi..”( Hán thư, Liệt truyện 34 hạ (Giả Quyên Chi). Trang 2005.
). Trong trường hợp này Lạc Việt là dùng để chỉ cho người Chu Nhai - Đạm Nhĩ, tức khu vực bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam ngày nay. Lưu Hú ghi Tuyên Hoá là đất Lạc Việt, có sông Hoan ở phía Bắc huyện vốn là sông Tường Kha, tục gọi là sông Uất Trạng, tức sông Lạc Việt, còn gọi là sông Ôn Thuỷ, đất cũ của Lạc Việt”( Lưu Hú: Cựu Đường thư – Sách đã dẫn.
) Các huyện Uất Bình, Mậu Danh cũng là đất Tây Âu Lạc Việt. Các huyện đời Đường này thuộc các quận Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Tường Kha thời Hán. Đó là khu vực tương ứng với vùng phía nam hai tỉnh Quý Châu và Vân Nam, toàn bộ tỉnh Quảng Tây, một phần tỉnh Quảng Đông, của Trung quốc ngày nay, và một phần các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, của Việt Nam ngày nay.
Riêng về bộ phận thuộc đất Việt Nam ngày nay, sách quảng Châu ký của họ Triệu ghi: “Hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân chính là Âu Lạc…”( Sử ký sách ẩn dẫn Quảng Châu ký của Triệu Thị đề chú Sử ký. Xem Sử ký, Liệt truyện 53. Trang 1066.
). Dự đại chí viết: “Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, vẽ mình cắt tóc ngắn để tránh Giao Long; cho nên Tây Âu Lạc, nằm ở phía tây của Phiên Ngô…”( Dư địa chí dẫn để chú Sử ký, Thế gia 113. Sách đã dẫn. Trang 607. Có nhiều sách Dư địa chí. Tài Liệu này về sau còn thấy xuất hiện trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục – Sách đã dẫn.
). Từ “Giao Chỉ” ghi trong Dư địa chí có thể hiểu là chỉ bộ Giao Chỉ. Nhưng Dư địa chí cũng đã nói rõ Giao Chỉ là Tây Âu thời Tần, rõ ràng là đã loại bỏ phần đất của nước Nam Việt ra ngoài Tây Âu, mà chỉ nó đến khu vực Tượng và Quế Lâm thời Tần.
Nhìn chung địa bàn người Lạc Việt bao gồm toàn bộ khu vực các quận Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Tường Kha, Giao Chỉ, Cửu Chân thời Hán; tức là bao gồm một vùng lớn từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Tây Giang hiện nay. Từ Lạc Việt chỉ người sống ở khu vực này. Từ Tây Âu, Âu Lạc hay Tây Âu Lạc chỉ tên một nước ở trong khu vực này. Các sử gia đã ghi Tây Âu Lạc Việt là để nói rõ nước Tây Âu của người Lạc Việt phân biệt với nước Đông Âu của người Đông Việt. Địa bàn của Âu Lạc thường được xem là phù hợp với địa bàn của người Lạc Việt; thực ra địa bàn chủ yếu của Âu Lạc theo như trên nằm ở lưu vực sông Hồng ngày nay.
Các sách Quảng Châu ký, Giao Châu ngoại vực ký đều ghi rằng ở Giao Chỉ, có Lạc điền, Lạc dân, Lạc tướng, Lạc hầu, Lạc vương( Xem lời chú trong Sử ký, Liệt truyện 53. Trang 1066; lời chú trong Thuỷ kinh chú; Thuỷ kinh chú sở của Dương Thủ Kính, Bắc Kinh 1955. Phần diệp du hà, quyển 37, trang 14a.
). Lạc tường còn tồn tại mãi đến thời Hai bà Trưng khởi nghĩa. Bản thân hai bà và Thi Sách đều là con Lạc Tướng.
Nhà Hán sau khi đặt ra 7 quận ở cực Nam thì lập bộ Giao Chỉ hay châu Giao để cai trị. Tiêu châu là dựa vào tên quận Giao Chỉ mà đặt ra, vì quận này là hạt nhân của toàn châu. Trị sở của châu đặt ở Luy Lâu của quận Giao Chỉ, ngày nay còn dấu vết ở làng Dâu thuộc xã Hạnh Phúc, huyện Thuận Thành (Hà Bắc). Riêng dân số quận Giao Chỉ vượt dân số tất cả 6 quận kia gộp lại, trong đó dân số quận Cửu Chân là đáng kể nhất( Xem Hán thư – sách đã dẫn, Địa lý chí. Trang1619.
- Quận Giao Chỉ : 92440 hộ - 746237 khẩu.
- Quận Cửu Chân : 35743 - - 1166613 –
- Quận Nhật Nam : 115460 - - 69485 -
- Quận Hợp Phố : 115398 - - 78980 -
- Quận Nam Hải : 119613 - - 94253 -
- Quận Uất Lâm : 112415 - - 71162 -
- Quận Tượng Ngô: 24397 - - 146160 -
Tổng số hộ của Giao Chỉ và Cửu Chân : 128183
Tổng số hộ 5 còn lại :87265
Tổng số khẩu của Giao Chỉ va Cửu Chân :912950
Tổng số khẩu 5 quận còn lại :460040
).
Sử ký và Hán thư đều ghi tả tướng Âu Lạc là Hoàng Đồng giết Tây Vu Vương. Tây Vu là một huyện của quận Giao Chỉ sau này. Mã Viện sau khi trấn áp cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng, chia đất huyện này lập ra huyện Vọng Hải và Phong Khê. Như vậy Âu Lạc nằm trên địa bàn Giao Chỉ.
Tất cả những điều đó khẳng định nước Âu Lạc là khu vực miền Bắc nước ta ngày nay.
Nhưng các sử gia vẫn thường lầm lẫn địa bàn người Lạc Việt với địa bàn nước Âu Lạc tức lầm lẫn phạm vi phân bố tộc người với phạm vi khống chế của một nước trong tộc người đó. Do đó cho nước Âu Lạc giáp với Ba Thục. Điều đó có thể hiểu được và thừa nhận được nếu chúng ta nghiên cứu kỹ ý thức, quan niệm về diên cách các nước của sĩ phu phong kiến phương Bắc lúc đầu Công nguyên. Thường khi họ phát hiện ra một trung tâm sinh tụ của nhóm người nào đó khá mạnh thì thường ghi diên cách của nó sát liền với trung tâm sinh tụ của một nhóm người khác đã biết từ trước. Họ không kể đến không gian, cũng không kể đến các nhóm dân tộc nhỏ khác nằm giữa hai trung tâm ấy. Lúc đó chưa có một ranh giới quốc gia cụ thể với mốc biên giới phân minh như ngày nay; thường họ lấy tên một nước đáng kể nhất đại diện cho cả một vùng rộng lớn. Tên nước cụ thể do đó trởt thành một từ phiếm chỉ. Và tên nước, tên người (nhóm chủng tộc) lẫn lộn với nhau.
Điều đó đã xảy ra với từ Việt, từ Đông Âu. Do đó Âu Lạc là tên nước cụ thể có lúc được dùng để chỉ một vài nước khác ở trong vùng. Tư Mã Thiên đã viết “Âu Lạc đánh nhau” để chỉ việc Mân Việt và Nam Việt đánh nhau; ở đây từ Âu Lạc dùng theo nghĩa rộng.
Và họ cũng đã xem từ Lạc Việt, vốn là từ chỉ người (nhóm chủng tộc), như từ chỉ tên nước. Lạc Việt là một phạm trù dân tộc học cụ thể, chính xác hơn từ Việt hay Bách Việt, nó chỉ rõ nhóm người cư trú trong một khu vực nhỏ hẹp hơn, xác định hơn. Nhưng nó vẫn là một phạm trù dân tộc học mơ hồ so với phạm trù dân tộc học ngày nay. Thật ra trong Lạc Việt có nhiều dân tộc (theo đúng nghĩa dân tộc học ngày nay) có quan hệ lịch sử, huyết thống nào đó với nhau. Dần dà với lịch sử, các sĩ phu phong kiến phương Bắc phát hiện ra trong khu vực Lạc Việt có người Ô Hử, người Lý, người Lão v.v…Ngày nay ở khu vực người này ta đã xác minh có nhiều nhóm dân tộc ít người bản địa lâu đời như Choang, Tày, Thái…;do đó hiện nay có nhiều học giả chủ trương tổ tiên người Thái, Choang, Tày…vốn là người Lạc Việt. Điều đó dễ hiểu như trên đã phân tích ý nghĩa của phạm trù Lạc Việt.
Tóm lại nước Âu Lạc là một nước đã tồn tại thực tế trong lịch sử, được sử sách biết đến vào thời gian nhà Tần ở Trung Quốc. Nước ấy có ba tên gọi chính khác nhau: Tây Âu, Tây Âu Lạc, Âu Lạc; ba tên gọi khác nhau đó là do những tài liệu ghi chép của những người khác nhau, gây ra nhầm lẫn. Những tài liệu của nước ta, ghi chép về sự tồn tại của Âu Lạc và về địa bàn của nó là có căn cứ, tuy do hạn chế khoa học cho nên có mơ hồ không được hoàn toàn chính xác.
An Dương Vương là ai?
Người đứng đầu nhà nước Âu Lạc là ai? Đó là An Dương Vương, cũng có thể nói đó là Thục Phán. An Dương Vương (hay Thục Phán) là ai?
An Dương Vương từ Ba Thục đến?
Tài liệu trong nước của chúng ta, như Việt Sử Lược, chỉ nói Thục Phán là “con vua Thục”, không chỉ rõ là người xứ Ba Thục. Lĩnh Nam chích quái thì chỉ rõ Thục Phán là “người Ba Thục”( Xem Lĩnh Nam chích quái – sách đã dẫn. Trang 57.
). Các tài liệu khác cũng có sách chép theo Việt Sử Lược, có sách chép theo Lĩnh Nam chích quái. Xu hướng chung là giải thích Thục là Ba Thục, tức vương triều Thục Khai Minh của Ba Thục. Riêng Việt sử thông giám cương mục cho Thục Phán là “họ Thục”.
Các tài liệu của sĩ phu phong kiến phương Bắc nói chung ghi chép nhất trí. Họ đều không nói rõ Thục là Ba Thục, càng không nói rõ là vương triều Thục Khai Minh. Họ cũng không nói tên là Phán.
Giao Châu ngoại vực ký ghi “Sau ba vạn binh tướng của Thục Vương Tử đánh bại Lạc Vương, Lạc Hầu, khuất phục các Lạc Tướng, Thục Vương Tử ( Xem Thuỷ kinh chú sớ – quyển 37, trang 14a.
) xưng là An Dương Vương…”. Quảng Châu ký chép: “Sau binh tướng Thục Vương Tử đánh bại Lạc Hầu tự xưng An Dương Vương trị vì ở huyện Phong Khê…”( Sử ký sách ẩn dẫn Quảng Châu ký của Triệu Thị, chú Sử ký, Liệt truyện 53. Trang 1066.
). Nam Việt chí ghi: “Sau ba vạn binh tướng của Thục Vương đánh diệt Hùng Vương…”( Xem Cựu Đường thư – lời chú trong huyện Bình Đạo. Địa lý chí 21. Trang 14376.
). An Nam chí (nguyên) chép: “Sách cũ ghi rằng xưa lúc chưa có quận huyện, có lạc điền theo con nước lên xuống, người làm ruộng này là lạc dân, cai quản ruộng này là Lạc Vương, kẻ phù tá là Lạc tướng, đều ấn đồng thao xanh. Gọi là nước Văn Lang, phong tục chất phác thuần hậu, cai trị bằng thắt nút, truyền được 18 đời thì bị Thục Vương ( Các chữ “Thục Vương Tử”, “Thục Vương” trong các tài liệu trên đều do chúng tôi nhấn mạnh.
) diệt. Nay vết cũ Lạc cung vẫn còn ( Cao Hùng Trưng: An Nam chí (nguyên) – Hà Nội 1932. Phần chữ Hán trang136.
)
Như vậy ở không hề khẳng định Thục Vương hay Thục Vương Tử là người Ba Thục, là Thục Vương triều Thục.
Xong nhièu sử gia căn cứ và chữ Thục để giải thích đó là vương triều Thục. Trong số những người nghiên cứu gần đây thì Trần Tu Hoà là người đã bổ nhiều công phu để vun đắp lý thuyết này nhất. Họ Trần đã nhìn thấy một khó khăn lớn trong vấn đề này là tuổi của Thục Vương Tử. Nước Thục bị Tần diệt vao năm 316 trước Công nguyên. Triệu Đà lại diệt Thục An Dương Vương vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên.Như vậy nếu An Dương Vương la con vua Thục thì lúc này ít ra cũng khoảng 136 tuổi( Nếu căn cứ theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Thục An Dương Vương ở ngôi từ 258 – 207 trước Công nguyên. Tác giả lấy năm Triệu Đà chiếm Quế Lâm rồi xưng vương làm năm Triệu diệt An Dương Vương. Dù tính như thế thì An Dương Vương tính ra phải 109 tuổi.
). Hoa Dương quốc chí lại ghi rõ thái tử Thục cũng bị quân Tần giết. Trần Tu Hoà bèn đưa thuyết Con di phúc: Họ Trần giả định một cách hoàn toàn vô căn cứ là có một cung phi hay vợ nào đó của vua Thục có mang, chạy thoát, sau sinh ra Thục An Dương Vương. Không có một tài liệu chữ viết nào, một truyền thuyết nào dù hoang đường đến đến đâu, để làm cơ sở giả định của họ Trần.
Nhưng như vậy cũng chưa phải thanh toán được ý kiến cho rằng An Dương Vương là con vua Thục ở Tứ Xuyên ngày nay. Nam Việt chí ghi rằng người diệt Hùng Vương là bản thân Thục Vương. Như vậy có thể đặt vấn đề chính vua Thục diệt Hùng Vương. Nghĩâ là có thể trước khi nước Thục bị Tần diệt thì Thục đã chiếm nước Văn Lang. Và như vậy nước Âu Lạc có thể ra đời trước năm 316 trước Công nguyên.
Muốn làm sáng tỏ vấn đề này cần tìm hiểu các vương triều nước Thục và xu hướng phát triển của nó. Tài liệu về mặt này được Thường Cứ tập hợp trong Hoa Dương quốc chí khá đầy đủ. Nước Thục xưng vương vào lúc nhà Chu suy vong. Vua đâu tiên là Tàm Tùng cũng như các vua sau chỉ lo dạy dân cày cấy làm ăn không có chinh chiến gì. Đó là bước đầu xây dựng vương triều, nên vua Thục chưa có thế lực để phát triển ra ngoài. Đến lúc “Thất quốc” xưng vương (khoảng năm 476 trước Công nguyên) vua Thục là Đỗ Vũ cũng xưng đế lấy hiệu là Vọng Đế, đổi tên là Bồ Ty. Đỗ Vũ tự cho công đức cao hơn các vương khác, bèn lấy Bao Tà làm cửa trước, Hùng Nhĩ, Linh Quan làm cửa sau; Ngọc Luỹ, Nga My làm thành quách; các sông Giang, Tiền, Miên, Lạc là chi trạch ( Hào nước bảo vệ quanh thành.
), lấy núi văn sơn làm nơi chăn nuôi, lấy Nam Trung làm ngự uyển…”( Thường Cứ: Hoa Dương quốc chí, Thục chí. Bản in của Thương vụ ấn thư quán. Trang 27, 28.
). Đó làlần đầu tiên Thục bành trướng. Theo các tên đất đã nêu trên, chủ yếu nó hướng về phía Bắc và phía Đông.
Đỗ Vũ nhường ngôi cho Khai Minh. Con Khai Minh đánh Tần đến đất Ung, “đánh Thanh Y, hùng cứ của Lão, Bặc. Đời Chu Hiển Vương( Năm 368 đến 321 trước Công nguyên.
), Thục Vương có đất Bao và Hán… Thục Vương phong cho em là Hà Manh giữ đất Hán Trung, hiệu là Thư Hầu. Thư Hầu kết thân với vua Ba; Ba thù địch với Thục. Thục Vương cả giận đánh Thư Hầu. Thư Hầu chạy đến Ba, cầu cứu Tần…Mùa thu năm Chu Thận Vương thứ 5( Năm 316 trước Công nguyên.
), quan quân của Tần là Đại phu Trương Nghi, Tư Mã Tháo, Đô uý Mặc theo đường Thạch Ngưu đánh Thục. Thục Vương chống cự với Hà Manh, bị thua, chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần giết. Tướng phó và thái tử của vua Thục lui về Phùng Hương rồi chết ở núi Bạch Lộc…”( Thường Cứ: Sách đã dẫn – trang 28và 29.
). Đó là lần duy nhất Thục Vương phát triển về phía đông nam, nhưng chưa hề vượt khỏi nước Ba, tức là chưa đến địa phận quận Tường Kha thời Hán sau này. Họ chưa vượt quá thượng lưu Trường Giang ngày nay. Hướng phát triển chủ yếu của Thục là bắc và đông, chô nên gặp phải Tần và Sở.
Chỉ có những người dân Thục vào thời đầu Tây Hán là bị Đường Mông đưa đi làm đường ở Dạ Lang (thuộc huyện Trường Thuận tỉnh Quý Châu ngày nay) để chuẩn bị đánh Nam Việt ma thôi. Khi đánh Nam Việt, quân Dạ Lang có cả người Thục đi theo, nhưng chưa xuống Nam Việt thì chiến tranh đã kết thúc. Lúc đó đã không còn Thục Vương họ Khai Minh nữa!
Vây, xét toàn bộ lịch sử, ta thấy vương triều Thục kể từ Tàm Tùng đến Đỗ Vũ, đến Khai Minh, chưa từng có xu hướng phát triển về phía nam xa đến khu vực Âu Lạc bao giờ. Cho nên cho rằng Thục Vươnghay con vua Thục của vương triều này đánh Hùng Vương là điều không thể có được
An Dương Vương từ Ai Lao Di đến?
Thường Cứ có ghi “Đất (Thục) đông giáp Ba, nam tiếp với Việt, bắc giáp Tần”( Thường Cứ: sách đã dẫn – trang 27.
). ở đây tác giả đã cho Thục giáp với Việt. Thường Cứ đã diễn tả diên cách theo lối nối liền. Thục - Điền - Âu Lạc, không đếm xỉa đến các nước nhỏ khác tồn tại ở giữa như Dạ Lang, Lậu Ngoạ, Câu Đinh, v.v…Đó là lý do khiến cho nước Thục, nam giáp Âu Lạc, và Âu Lạc, bắc giáp Thục!
Sau này khi nhà Tây Hán đặt hai châu Ích và Giao, thì địa bàn hai châu tiếp giáp nhau, nhưng cũng không có đường ranh giới cụ thể. Dần dà về sau châu Giao thu hẹp lại đến mức chỉ còn là khu vực miền Bắc nước ta mà thôi. Trái lại châu Ích lại có lúc được mở mang ra bao gồm cả khu vực tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Rồi sau đó châu Ích chia làm nhều châu nhỏ. Ninh Châu là châu trực tiếp tiếp giáp với châu Giao.
Diễn biến diên cách khu vực này từ Tây Hán đến Tam Quốc khá phức tạp. Đến thời Tam Quốc, Lưu Bị chiếm châu Ích lập ra nước Thục, mở rộng đến giáp châu Giao. Đó là thời kỳ nước Thục Hán. Và danh từ Thục được dùng để chỉ cả khu vực Quý Châu – Vân Nam ngày nay. Thời Tần Hán cũng đã từng dùng từ Thục để phiếm chỉ khu vực này, nhưng chỉ đến thời Tam Quốc thì từ Thục mới được dùng phổ biến rộng rãi. Đời sau, các sử gia đã quên nước Thục của Tàm Tùng, chỉ còn nhớ đến nước Thục của họ Lưu.
Tài liệu ghi về Thục An Dương Vương sớm nhất thì cũng là tác phẩm thứ 4, thứ 5 sau Công nguyên. Có thể là tác giả dùng tên đất Thục thời Tam Quốc để diễn đạt sự kiện lịch sử cũ. Cũng có thể là tác giả theo lối định niên cách xưa mà cho bất cứ một địa diểm nào từ Quảng Tây lên đến Tứ Xuyên đều có thể là Thục.
Thuỷ kinh chú, dẫn Giao Châu ngoại vực ký, có ghi là Thục Vương Tử lập nước Âu Lạc. Người sau dịch Thục Vương Tử là “con vua Thục”. Thật ra cũng có thể hiểu một cách khác. Thuỷ kinh chú cũng ghi: “Thanh Y Vương Tử hâm mộ chế độ nhà Hán bèn xin nội thuộc”( Thuỷ kinh chú sớ, Thanh Y thuỷ – quyển 36, trang 2a.
). Đây là vua Thanh Y quyết định việc hàng Hán, chứ không phải con vua Thanh Y quyết định. Chính Thục Vương Tử cũng có thể nghĩa là vua Thục. Cho nên cũng có tài liệu ghi là Thục Vương đánh Hùng Vương.
Hơn nữa Thục Vương cũng không bắt buộc phải ở Tứ Xuyên. Có thể đó là một người đứng đầu một nhóm nào đó nằm trong khu vực mà người ta thường dùng chữ Thục để chỉ chung như khu vực Tường Kha về nam trong thời Hán. Khu vực này có nhiều quan hệ với châu Giao thời Hán( Người Dạ Lang đã theo sông Tưòng Kha trao đổi tương Thục xuống đến Nam Hải, và sau này theo con sông đó xuống đánh Nam Việt. Mã Viện cung đã định đem người Lạc Việt từ Mê Linh lên Hưng Cổ để đánh châu Ích. Hứa Tịnh đã từng theo đường Giao Chỉ lên Ích Châu hàng Thục Hán. Sĩ Nhiếp đã theo đường này đặt quan hệ với Ung Khải, một thủ lĩnh ở khu vực này.
).
Nhưng giao lưu giữa Giao Châu và Ích Châu chỉ hạn chế đến Điền, không vượt qua khỏi Điền đến Ai Lao Di bao giờ. Ai Lao Di cũng chưa từng trở thành một nước hùng mạnh và có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao giờ. Ngay nước Điền ở bên cạnh cũng chưa từng có những hoạt động gì lan tràn xuống phía Giao Chỉ, dù rằng Điền rất phát triển. Văn hoá phương Bắc vào Giao Chỉ không phải qua con đường Ai Lao Di. Con đường qua Ai Lao Di là một con đường đi “Thân Độc” (tức Ấn Độ). Nhưng con đường này cũng chỉ đánh thông được rất muộn về sau. Thời Tần-Hán, Điền là bức thành chắn ngang đường giao lưu giữa Trung Quốc và Miến Điện, Ấn Độ ngày nay.
Con đường văn hoá phương Bắc vào Giao Chỉ chính là con đường xuyên qua khu vực Tường Kha, ích Châu thời Hán (một phần các tỉnh Quý Châu và Vân Nam ngày nay). Đó là con đường thứ nhất. Con đường thứ hai là con đường qua khu vực Uất Lâm, Thương Ngô thời Hán. Đó là con đường xuyên qua Quảng Tây và Cao Bằng, Lạng Sơn ngày nay. Con đường thứ ba là đường biển nối liền khu vực Mân Triết với nước ta. Trên ba con đường này, ngày nay còn phát hiện nhiều dấu vết văn hoá phương Bắc thuộc thời Tần Hán. Những ghi chép về mối quan hệ qua lại giữa nước ta và ba khu vực này của Trung Quốc trong thời Tần Hán còn rất nhiều.
Những thần tích ghi việc Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau này viết. Từ “Ai Lao” ở đây phải chăng là chỉ Ai Lao Di? Hay là Lao ngày nay? Thần tích đã dùng địa danh nào? Một số lớn thần tích do Nguyễn Bính biên soạn vào thời Lê mạt; Nguyễn Bính mở đầu các đoạn thần tích bằng đoạn văn nói về Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương, Thục An Dương Vương…Đó là một câu mở đầu rập khuân thường lệ cho hầu hết thần tích. Cho nên phải nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích kỹ các thần tích, mới có thể khẳng định được Ai Lao là nơi nào( Đọc một số thần tích, chúng tôi thấy có bản ghi Thục Phán cai trịi ở Ai Lao, có bản ghi trị ở ALao. Nhưng chưa bàn nhiều về vấn đề này được.
).
Tóm lại, chưa có bằng cớ gì đáng tin cậy để tìm kiếm Thục Vương Tử ngoài khu vực cư trú của người Lạc Việt. Nói Thục Vương Tử là con vua Thục Khai Minh cũng như nói nước Văn Lang bao gồm cả Ai Lao Di thời Hán và Hùng Vương cho người thân thuộc là Thục Phán cai trị, - cả hai giả thuyết đó đều khó lòng tin cậy đựơc.
An Dương Vương là người Lạc Việt.
Một số tài liệu khác giúp chúng ta soi sáng vấn đề này. Trước hết, đó là tài liệu về thành của An Dương Vương. Việt sử lược cho là thành ấy ở Việt Thường. Đại Việt sử ký toàn thư cũng như Dư địa chí và Quảng Châu ký đều ghi thành của An Dương Vương là ở Phong Khê. Dư địa chí của Nguyễn Trái còn ghi rõ Phong Khê là đất Cổ Loa( Nguyễn Trãi: Dư địa chí (Bản dịch của Nhà xuất bản Sử học) – Hà Nội. 1963. Trang 23.
). Quy mô, hình dáng của thành được mô tả khác nhau ít nhiều: “thành 9 vòng, chu vi 9 lý…”, “thành ở Phong Khê rộng đến nghìn trượng xoáy tròn như hình chôn ốc cho nên gọi là Loa Thành…”( Cựu Đường thư, dẫn Nam Việt chí. Trang 14376. Việt sử thông giám cương mục. Tạp 1. I, trang 57.
). Tên gọi cũng khác nhau: Loa Thành, Tư Long, Khả Lũ, Con Luân…( Xem các sách Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, An Nam chí (nguyên)…
) - Do đó ta có thể nêu ra giả thuyết An Dương Vương có hai thành chứ không phải một. Có thể trước khi xây thành ở Phong Khê, An Dương Vương có xây thành ở Việt Thương. Rất có thể thành Việt Thường là cơ sở của An Dương Vương. Chỉ sau khi chiếm xong Văn Lang, An Dương Vương mới đến Phong Khê.
Việt Thường thị là một nhóm người khá có tên tuổi trong lịch sử Lĩnh Nam. Hậu Hán thư ghi Việt Thường cống chim trĩ trắng vào thời nhà Chu( Phạm Hoa: Hậu Hán thư, Liệt truyện 76. (Nam man). Trang 378.
). Nhưng mãi đến thời Ngô - Tống (thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên) mới thấy xuất hiện huyện Việt Thường trong quận Cửu Đức( Thẩm Ước: Tông thư trong Nhị thập tứ sử. Bắc Kinh 1958 – Châu quận chỉ 25. Trang 6382. Chi huyện này ra đời vào thời Ngô.
). Đến Nam Hán kỷ ghi: “Năm Khai Bình( Năm 907 sau Công nguyên.
), đổi huyện Mậu Danh của Phiên Châu thành huyện Việt Thường”( Ngô Lan Tu: Nam Hán kỷ – Quyển 1, Liệt tông kỷ. Trong Lĩnh Nam dị thư. (Bản Nam Hải, Ngũ thị hiệu san trang 5a). Tác phẩm này thuộc thời Thanh.
). Theo Nam Hán kỷ Việt Thường lúc này nằm ở tỉnh Quảng Tây ngày nay. Theo Việt sử lược thì huyện Việt Thường nằm ở khoảng Nghệ- Tĩnh nước ta ngày nay. Ngày nay, có người cho Việt Thường ở đất Miến- điện, người khác lại cho là ở Vân Nam,v.v…Việt Thường được dùng để đặt tên đất muộn hơn là thời đại của Việt Thường thị. Nhưng ta có thể tin là thời Chu, ở phía Lĩnh Nam có Việt Thường thị. Vị trí cụ thể của nó ở đâu? Người ta chỉ nhớ nó có xuất hiện ở khu vực khoảng từ Tượng đến Quế Lâm thời Tần. Do đó sau này ta thấy tên Việt Thường xuất hiện ở khu vực này và truyền thuyết về đường đi về bằng xe chỉ nam của sứ giả Việt Thường cũng ghi qua khu vực này. Việt Thường thị ở vùng Tượng- Quế Lâm thời Tần là điều có thể chấp nhận được. Vì chỉ ở khu vực đó họ mới được gọi là Việt vào thời Chu, và khả năng hiểu biết của nhà Chu dù qua nhiều lần phiên dịch thì cũng đến đây là cùng.
Trước Tần Hán, phương Bắc chưa biết đến khu vực sông Hồng. Do một sự lầm lẫn về tên đất của các sử gia cũ, do ý thức muốn tôn vai trò nhà Chu ra đến khu vực sông Hồng để làm cớ xâm lược, cho nên quận Tượng của nhà Tần biến thành đất Giao Chỉ, Cửu Chân. Thật ra quân Tần chưa hề đánh thắng nước Âu Lạc thì làm sao họ có thể chiếm đất này mà đặt ra quận Tượng? Sau khi thất bại, sử sách ghi nhà Tần đóng quân ở Nam Hải để giữ bờ cõi, thế thì ro ràng họ chưa bước đến vùng sông Hồng ngày nay. Nói rằng quận Tượng thời Tần được đổi thành quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời Hán, thế nhưng hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân được đặt vào năm Nguyên Đĩnh thứ 6 (111 trước Công nguyên). Chính Hán thư đã ghi như thế và cũng chính Hán thư ghi: “Năm Nguyên Phụng thứ 5( Năm 76 trước Công nguyên.
)…mùa thu, bãi bỏ quận Tượng, chia nhập vào Uất Lâm và Tường Kha”( Ban Cố: Sách đã dẫn - Đế kỷ: Hán Chiêu Đế. Trang1282.
). Như vậy, là sau khi lập Giao Chỉ, Cửu Chân 35 năm, thì quận Tượng mới bị xoá bỏ! Giao Chỉ và Cửu Chân đã tồn tại song song với quận Tượng suốt 35 năm trong thời thịnh trị của Tây Hán! Nhưng chưa phải vấn đề thời gian tồn tại của quận Tượng là quan trọng. Quan trọng hơn là vị trí của quận Tượng. Rõ ràng quận Tượng phải nằm giữa quận Tường Kha và quận Uất Lâm thì mới có thể chia đôi quận tượng cho hai quận này kiên trị. Tóm lại quận Tượng không phải là Giao Chỉ, Cửu Chân, mà là một dải đất nằm giữa hai quận Tường Kha và Uất Lâm thời Hán, tức là dải đất nừm ở phía nam hai tỉnh Quý Châu Vân Nam và phía bắc tỉnh Quảng Tây ngày nay. Đó là khu vực ta thường nhắc nhở đến. Đó là khhu vực có lúc cũng được xem như là đất Thục theo nghĩa rộng, mà thực ra là đất của người Lạc Việt. Như vậy có thể An Dương Vương là người đứng đầu một nhóm Lạc Việt nào đó, rất có thể là nhóm Việt Thường thị thời Chu. Do sau này các sử gia xem khu vực đó là Thục cho nên Phán được gọi là Thục Phán hay Thục Vương mà Thôi.
Điều đó còn được tài liệu của Sử ký gợi ý. Theo Sử ký, Tây Âu Lạc là nước “ở trần”. Các sử gia thời bấy giờ khi phân biệt các nhóm dân tộc thường chú ý đến y phục. Song trong tất cả các nhóm dân tộc mà Tư Mã Thiên cũng như các sử gia đời sau (cho đến đời Đường) đã mô tả, chúng ta không thấy nói đến nhóm người ở trần nào khác. Người Thục, người Điền đều không ở trần; chỉ có người Âu Lạc ở trần. Những tượng người thổi khèn tìm được trong quan tài mộ Việt Khê, những tượng đồng trên thạp đồng Đào Thịnh v.v…đều đóng khố. Tổ tiên ta thường đóng khố, điều đó cho đến thời cận đại vẫn còn dấu vết. Đóng khố, chính là “ở trần”. Đó là một dấu hiệu phân biệt người Âu Lạc với người Nam Việt, người Điền Việt, người Thục v.v…Điều đó làm sáng tỏ thêm người nước Âu Lạc và Thục An Dương Vương đều là người Lạc Việt. Không thể là người Thục ở Ba Thục hay người Ai Lao Di thời Tần Hán được.
Chính vì An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên việc An Dương Vương chiếm Văn Lang dựng nước Âu Lạc chỉ là việc nội bộ người Lạc Việt. Điều đó dễ hiểu và thường thấy trong lịch sử. Nhà Chu thay thế nhà Ân, cũng là một trường hợp như thế. Tư Mã Thiên cũng thường nói đến người Việt đánh nhau là việc thường xảy ra. Chiến tranh ở thời kỳ này có tác dụng thúc đẩy hình thành những tổ chức xã hội to lớn hơn, ổn định hơn. Do An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên chúng ta thấy xã hội Văn Lang và Âu Lạc không vo thay đổi gì do văn hoá của một ngoại tộc đến thống trị gây ra.
Đương nhiên cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa, tỉ mỉ hơn nữa mới có thể giải quyết được vấn đề nước Âu Lạc và An Dương Vương. Song ngày nay ai cũng đã thấy rằng luận điểm cho Thục Phán là một nhân vật ngoại tộc đến xâm lược nước Văn Lang là không khoa học, không giải thích được nhiều hiện tượng lịch sử. Cần có kiến giải khác. Dựa vào sách Hán và những suy nghĩ sơ bộ riêng là chính, xin gợi một số ý kiến đưa ra thảo luận.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (97).doc