Tiểu luận Biện chứng cái đẹp trong ngũ luân qua quan hệ vợ chồng
MỞ ĐẦU
Người Việt Nam rất trọng cái đẹp: “Đói cho sạch, rách cho thơm” (Tục ngữ). Bởi vậy khi Nho giáo Khổng Tử thâm nhập vào Việt Nam 1070 - thời Lí Thánh Tông), đạo ngũ luân - một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo đã được người dân Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận, và nhanh chóng trở thành chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam.
Ngũ luân bao gồm 5 quan hệ: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. (Quân quần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung, trung hoà. Các quan hệ ngũ luân được coi là tốt đẹp khi nó có hai chiều bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau: Quân minh thần trung (cha sáng suốt, tôi trung thành); phụ từ tử hiếu (cha hiền từ, con hiếu thảo); phu nghĩa, phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng), huynh lương, đệ đễ (anh tốt, em kính nhường), bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau). Đạo đức truyền thống của người Việt Nam là trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn, càng toả sáng hơn, tốt đẹp hơn khi nó kế thừa ngũ luân trong Nho giáo khổng Tử. Vẻ đẹp ấy được in dấu trong kho tàng điển tích, ca cao, tục ngữ mà biết bao thế hệ con cháu Việt Nam sưu tầm và truyền tụng.
Trước hết, chúng ta bàn đến quan hệ đầu tiên trong ngũ luân: đó là đạo vua - tôi. Đây coi là đạo đức đầu tiên, quan trọng nhất của một trạng quân tử. Người Việt Nam phong kiến, tôn thờ minh quân là phụ mẫu của muôn dân. Người ta sẵn sàng hi sinh cả bản thân để tỏ lòng trung hiếu với bề trên. Đó là vẻ đẹp của tiết tháo, của ý chí nam nhi mà người quân tử luôn luôn tâm niệm.
Bề tôi trung thành đối với quân chủ của mình chỉ có trách nhiệm nghĩa vụ chứ không hề đòi hỏi quyền lợi. Bởi vậy mà Giới Tử Thôi (Trung Quốc) trong cơn loạn lạc đã sẵn sàng cắt thịt đùi mình nấu với rau cho Thái Tử ăn để rồi khi Thái Tử lên ngôi, ông lại một mình lầm lũi cõng mẹ vào rừng kiếm sống. Ở Lê Lai (Việt Nam) đã sẵn sàng hi sinh, giả trang Lê Lợi mở đường máu để quân chủ thoát khỏi vòng bao vây của quân thù. Với những bề tôi trung thành ấy được phục vụ và hi sinh cho quân chủ của mình là một vinh dự, là sự thăng hoa của tiết tháo. Vậy phải chăng vì thế mà NguyểnTãi luôn tâm niệm:
Bui có một lòng trung với hiếu.
Mài chẳng khuyết nhuộm chẳng đen.
Ngày nay, quan hệ vua - tôi của người Việt Nam được hiểu là quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên. Trải qua bao thăng trầm, biến đổi những chuẩn mực đạo đức của lễ giáo phong kiến xưa đã thay đổi rất nhiều. Người ta không thể thực hiện nghĩa vụ cấp trên mà không đòi hỏi quyền lợi. Quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên được dân chủ hoá tối đa. Tuy nhiên, người Việt Nam với truyền thống trọng tình, trọng nghĩa vẫn đề cao nghĩa tình của người mang ơn và kẻ hàm ơn. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp truyền thống muôn đời không phai của con người Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện chứng cái đẹp trong ngũ luân qua quan hệ vợ chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biện chứng cái đẹp trong ngũ luân qua quan hệ vợ chồng
Người Việt Nam rất trọng cái đẹp: “Đói cho sạch, rách cho thơm” (Tục ngữ). Bởi vậy khi Nho giáo Khổng Tử thâm nhập vào Việt Nam 1070 - thời Lí Thánh Tông), đạo ngũ luân - một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo đã được người dân Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận, và nhanh chóng trở thành chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam.
Ngũ luân bao gồm 5 quan hệ: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. (Quân quần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung, trung hoà. Các quan hệ ngũ luân được coi là tốt đẹp khi nó có hai chiều bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau: Quân minh thần trung (cha sáng suốt, tôi trung thành); phụ từ tử hiếu (cha hiền từ, con hiếu thảo); phu nghĩa, phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng), huynh lương, đệ đễ (anh tốt, em kính nhường), bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau). Đạo đức truyền thống của người Việt Nam là trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn, càng toả sáng hơn, tốt đẹp hơn khi nó kế thừa ngũ luân trong Nho giáo khổng Tử. Vẻ đẹp ấy được in dấu trong kho tàng điển tích, ca cao, tục ngữ mà biết bao thế hệ con cháu Việt Nam sưu tầm và truyền tụng.
Trước hết, chúng ta bàn đến quan hệ đầu tiên trong ngũ luân: đó là đạo vua - tôi. Đây coi là đạo đức đầu tiên, quan trọng nhất của một trạng quân tử. Người Việt Nam phong kiến, tôn thờ minh quân là phụ mẫu của muôn dân. Người ta sẵn sàng hi sinh cả bản thân để tỏ lòng trung hiếu với bề trên. Đó là vẻ đẹp của tiết tháo, của ý chí nam nhi mà người quân tử luôn luôn tâm niệm.
Bề tôi trung thành đối với quân chủ của mình chỉ có trách nhiệm nghĩa vụ chứ không hề đòi hỏi quyền lợi. Bởi vậy mà Giới Tử Thôi (Trung Quốc) trong cơn loạn lạc đã sẵn sàng cắt thịt đùi mình nấu với rau cho Thái Tử ăn để rồi khi Thái Tử lên ngôi, ông lại một mình lầm lũi cõng mẹ vào rừng kiếm sống. Ở Lê Lai (Việt Nam) đã sẵn sàng hi sinh, giả trang Lê Lợi mở đường máu để quân chủ thoát khỏi vòng bao vây của quân thù. Với những bề tôi trung thành ấy được phục vụ và hi sinh cho quân chủ của mình là một vinh dự, là sự thăng hoa của tiết tháo. Vậy phải chăng vì thế mà NguyểnTãi luôn tâm niệm:
Bui có một lòng trung với hiếu.
Mài chẳng khuyết nhuộm chẳng đen.
Ngày nay, quan hệ vua - tôi của người Việt Nam được hiểu là quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên. Trải qua bao thăng trầm, biến đổi những chuẩn mực đạo đức của lễ giáo phong kiến xưa đã thay đổi rất nhiều. Người ta không thể thực hiện nghĩa vụ cấp trên mà không đòi hỏi quyền lợi. Quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên được dân chủ hoá tối đa. Tuy nhiên, người Việt Nam với truyền thống trọng tình, trọng nghĩa vẫn đề cao nghĩa tình của người mang ơn và kẻ hàm ơn. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp truyền thống muôn đời không phai của con người Việt Nam.
Mối quan hệ thứ hai được đề cập đến trong ngũ luân là quan hệ Cha - Con. Đây là vẻ đẹp đạo đức truyền thống của người Việt Nam, được in dấu và toả sáng trong kho tàng tục ngữ, ca dao.
- Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Đói lòng ăn bột chà là
Để cơm cho mẹ mẹ già yếu răng.
- Gío đưa cây cửu li hương
Xa cha xa mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn
Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm.
(Tuyển tập tục ngữ - ca dao Việt Nam)
Người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác vẫn truyền nhau điển tích Chử Đồng Tử nhường cái khố duy nhất cho cha để giáo dục, răn dạy nhau dạo hiếu với cha mẹ. Cha mẹ là người có công sinh thành, dưỡng dục, vì vậy mỗi con người dù đi đâu, làm gì vẫn phải luôn tâm niệm một lòng kính hiếu, biết ơn. Truyền thống tốt đẹp ấy, cho đến ngày nay vẫn toả sáng trong những câu hát bài thơ. Ta có thể nhắc đến “Huyền thoại mẹ” của Trịnh Công Sơn với niềm biết ơn chân thành. bài thơ “Mẹ” của nhà thơ Thế Hùng với nỗi xót xa, day dứt khôn nguôi:
Chẳng dám đi qua
Sợ nhìn mẹ và đau
Mà xót xa
Mẹ ơi
Con thương mẹ
Nắng xế chiều rồi con đâu còn bé.
Sợ một ngày kia
Ân hận
Quá muộn rồi
(Thơ tình Thế Hùng - Nxb Thanh Niên)
Những lời thơ xúc động ấy phải chăng là sự kết tinh của truyền thống đạo đức, của nghĩa tình, của lòng biết ơn sâu nặng? Đó chính là vẻ đẹp, là tính thẩm mỹ đậm chất nhân văn trong tâm hồn con người Việt Nam.
Đứng ở vị trí thứ ba trong đạo ngũ luân là quan hệ vợ chồng. Đạo vợ chồng ở đây được bàn đến ở hai khía cạnh là: Tình và nghĩa. Quan hệ vợ chồng không chỉ là yêu thương, gắn bó mà còn phải biết sẻ chia, biết chấp nhận và biết hi sinh vì nhau. Tình nghĩa vợ chồng, từ cổ chí kim luôn là một mảng đề tài phong phú, hấp dẫn. Ông cha ta đã thêu dệt những câu chuyện tình phong phú, lãng mạn để mà ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của tình nghĩa phu thê. Đó là câu chuyện của vợ chồng nho sĩ Hàn Phùng (thời vua Tống - đời Chiến quốc) yêu thương nhau rất mực, nhưng bị chia rẽ bởi vị vua độc ác vì si mê người vợ đã bức tử người chồng. Người vợ thương nhớ chồng đã tự sát để được cùng chồng đoàn viên. Họ chết đi biến thành cây Văn Tử mọc bao trùm cả hai ngôi mộ. Hai con chim uyên ương đậu hai bên thắm thiết gọi nhau, như lời ước nguyện:
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh như cây liền cành.
Đó là câu chuyện về mối duyên tình trắc trở của vợ chồng Ngưu Lang - Chức Nữ, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày rằm tháng bẩy. Họ gặp nhau và luôn khóc ròng rã khiến dưới trần gian mưa rơi rả rích. Nước mưa vừa mặn vừa ngọt như dư vị của mối tình chung thuỷ mà trái ngang.
Tục truyền tháng bảy mưa ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền
Một là duyên hai thời là nợ.
Sợi xích thang ai gỡ cho ra.
(Dân ca).
Hay, người dân Việt Nam còn tuyền tụng nhau về sự tích hòn đá vọng phu ở Lạng Sơn. Đó chính là nàng Tô Thị ôm con chờ chồng đi lính phương xa, mòn mỏi đến hoá đá.
Những mối tình son sắt, thủy chung ấy đã trở thành những điển tích, những biểu tượng tình nghĩa vợ chồng. Người bình dân Việt Nam còn có cả một hệ thống những bài ca dao dân ca vừa tình tứ, vừa sâu nặng để họ thổ lộ, giãi bày tình cảm với nhau.
- Vợ chồng đầu gối má kề
Lòng nào mà bỏ mà về cho đang
Hồ về, chân lại đá ngầm
Về sao cho dứt cho đang mà về.
- Đôi ta lấm tấm hoa nhài
Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời.
Muốn cho gần chợ ta chơi.
Gần sông tắm mát gần nơi đi về.
- Rủ nhau lên núi đốt than
Anh đi Tam Điệp em mang nón trình
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.
- Chồng ta áo rách ta thương.
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
(Tuyển tập Tục ngữ - ca dao Việt Nam)
Tình nghĩa đã gạt bỏ mọi lo toan, tính toán, mọi khó khăn cuộc sống, tạo sức mạnh nâng cánh cho mối quan hệ vợ chồng thăng hoa. Cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của nghĩa tình truyền thống người Việt Nam đã thẩm thấu vào những mối tình, khiến cho những người bình dân kia không chỉ yêu mà còn thương nhau, gắn bó với nhau hơn. Người bình dân Việt Nam không chỉ gửi gắm tình cảm, ước mơ về một cuộc sống vợ chống thuỷ chung, đầm ấm vào ca dao, vào truyện cổ tích mà còn phác hoạ nó trên tranh vẽ. Như bức “Hứng dừa”, “Đám cưới chột”... Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của tình cảm vợ chồng trong đời sống tâm hồn của người bình dân.
Cuộc sống của con người Việt Nam hiện đại đã khác xưa rất nhiều. Nền kinh tế thị trường cùng cơ chế mở cửa đã tạo cơ hội cho văn hoá lai căng nhanh chóng xâm nhập.
Tình nghĩa vợ chồng không còn được xem trọng như xưa. Người ta yêu nhau, kết hôn, rồi li dị nhau nhanh chóng, bất cần luân thường đạo lý. Tuy nhiên, đó chỉ là một hạn chế nhỏ. Người Việt Nam với truyền thống nghĩa tình vẫn đề cao vẻ đẹp của tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt. Bằng chứng là người ta vẫn bắt gặp những bài thơ, bài hát chứa chan tình nghĩa yêu thương của người chồng, người vợ.
Nhạc sĩ Trần Tiến với “Tôi phải lòng vợ tôi” dí dỏm, vui cười mà sao dạt dào yêu thương. Nhà thơ Xuân Quỳnh với rất nhiều nưhngx bài thơ với thứ ngôn ngữ đặc trưng của một người đàn bà luôn khát khao được yêu, được hạnh phúc và cũng rất mực thuỷ chung, son sắt. Có thể kể đến “Tự hát”, “Sóng”, hay “Thuyền và biển”...
Đến với nhà thơ Thế Hùng, chúng ta bắt gặp nột người đàn ông của gia đình, với tình yêu thương nồng cháy.
+ Khi xa em
Anh tột cùng nỗi khổ
Thiếu một người rất vợ - là em”
(“Vợ ơi”).
Anh đón em
Về căn nhà xinh
Đêm tân hôn
Cô dâu nào cũng đẹp
Cửa hạnh phúc không bao giờ khép.
Trăng Non
Buông
màn
Mây.”
(“Anh đón em”)
Có lẽ đây chính là những bằng chứng hùng hồn chứng tỏ vẻ đẹp của nghĩa vợ chồng vẫn luôn tồn tại trong đời sống con người Việt Nam. Yêu thương, gắn bó, thuỷ chung, nghĩa tình là những nét chung xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Làm nên những mối tình Việt Nam sâu sắc tính nhân văn.
Mối quan hệ thứ tư trong ngũ luân là tình cảm anh em. Người dân Việt Nam từ cổ chí kim vẫn luôn luôn tâm niệm:
- “Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”
- Lọt sàng xuống nia”
- “Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì”
(Kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam)
Tình huynh đệ thắm thiết keo sơn được ví như sao Hôm với sao Mai (Là hoá thân của người anh - sao Mai và người em - Sao Hôm do thương nhớ nhau, mòn mỏi tìm nhau mà hoá thành).
Ngày nay, độc giả vẫn còn được sung sướng đón nhận những bài thơ khúc hát cảm động về tình cảm anh chị em đằm thắm nghĩa tình. Đó là bài hát “Chị tôi” của Trần Tiến, bài thơ “Chị ơi” của Thế Hùng… Qua thời gian, qua những đổi thay thăng trầm, nghĩa tình cao đẹp ấy vẫn sáng ngời.
Qua nhệ bằng hữu là yếu tố cuối cùng được đề cập đến trong Ngũ luân.
Tình bạn là kết quả của mối quan hệ giữa những con người hiểu nhau, tin tưởng nhau, biết lắng nghe và biết chia sẻ cùng nhau. Bởi vậy, sau tình cảm vợ chồng, yêu đương thì tình cảm bạn bè được coi là thứ tình cảm gần gũi, giản dị mà rất mực quan trọng trong đời sống tâm hồn của con người. Vì vậy ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ thời đại nào, tình bạn đẹp vẫn luôn được ngợi ca. Người đời vẫn thường kể cho nhau nghe câu chuyện cảm động về tình bạn giữa. Bá Nha - Tử Kì: đôi bạn gặp nhau một lần duy nhất ở sông Hàn Dương, núi Mã An mà hiểu nhau, thân thiết như tri kỷ, tới mức khi Tử Kì chết đi, Bá Nha đã thôi chơi đàn vì thương nhớ bạn và vì cho rằng không còn ai hiểu tiếng đàn Bá Nha như Tử Kì.
Người dân Việt Nam luôn tự hào vì tình bạn cao đẹp giữa Lưu Bình - Dương Lễ. Lưu Bình thi trượt, gặp khó khăn đến cầu cạnh Dương Lễ. Không những không giúp đỡ, Dương Lễ còn xỉ nhục để kích động lòng tự ái và quyết tâm phục thù trong bạn, rồi sau đó sai vợ theo hầu giúp Lưu Bình thi đỗ.
Những câu chuyện cảm động ấy sẽ mái lưu truyền trong sử sách. Vả, vẻ đẹp của những tình cảm ấy sẽ mãi mãi toả sáng trong trái tim và tâm hồn giữa người Việt Nam.
Nói tóm lại: Ngũ luân trong Nho giáo Khổng Tử với năm nội dung: Vua - tôi; Cha - con ; Vợ - chồng; Anh - em; bạn bè là kết tinh của vẻ đẹp tâm hôn người Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung. Đồng thời ngũ luân cũng chính là thước đo là chuẩn mực đánh giá đạo đức con người. Ngũ luân với bản thân nội dung mà nó chứa đựng đã là một vẻ đẹp, và khi được người Việt Nam kế thừa, phát huy, vẻ đẹp ấy càng được toả sáng hơn ./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Từ điển Tôn giáo - Nxb Từ điển Bách Khoa.
Triết học
Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại - Nxb Giáo dục.
Văn hoá thông tin.
Tứ tư tạp chú của Chu Hy.
Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam - Nxb Thế giới.
7. Thơ tình Thế Hùng - Nxb Thanh niến
8. Bản thảo Mỹ học đại cương - Thế Hùng.
9. Nho giáo xưa và nay của Quang Đạo.
10. Khổng tử Gia giáo - Khương Lâm Trường
11. Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm.
12. Điển tích, điển cố Văn học.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNH (50).doc