Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính – tiền tệ.Nó là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư.Do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ(GNP). Trên thị trường tiền tệ (TTTT), dòng lưu chuyển vốn ngắn hạn từ người này sang người khác phụ thuộc vào yếu tố lãi suất. Diễn biến của nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế ,có tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam và đời sống của người dân.Lãi suất không chỉ tác động tới hành vi kinh tế của người gửi tiền trên thị trường tiền gửi, của các doanh nghiệp đi vay vốn trên thị trường tín dụng, của các NHTM trên thị trường nội tệ liên ngân hàng mà còn là tín hiệu để NHTW dựa vào đó sẽ công bố các loại lãi suất chính thức bám sát lãi suất trên TTTT.Do đó,lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên báo chí. Trước bối cảnh như vậy, NHNN có những bước cải cách quan trọng về lãi suất,dần điều chỉnh lãi suất theo yêu cầu của thị trường, tiếp tục đổi mới hơn nữa chế độ kiểm soát lãi suất để hoàn thiện, đổi mới nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này,em xin chọn đề tài : “ Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây “.Đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về lãi suất.
Chương 2: Biến động của lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế biến động lãi suất trong thời gian tới.
Do còn hạn chế về hiểu biết trong lĩnh vực tài chính kinh tế nên bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót.kính mong thầy cô góp ý giúp đỡ để em hoàn thành bài tiểu luận này.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2622 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính – tiền tệ.Nó là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư.Do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ(GNP). Trên thị trường tiền tệ (TTTT), dòng lưu chuyển vốn ngắn hạn từ người này sang người khác phụ thuộc vào yếu tố lãi suất. Diễn biến của nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế ,có tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam và đời sống của người dân.Lãi suất không chỉ tác động tới hành vi kinh tế của người gửi tiền trên thị trường tiền gửi, của các doanh nghiệp đi vay vốn trên thị trường tín dụng, của các NHTM trên thị trường nội tệ liên ngân hàng mà còn là tín hiệu để NHTW dựa vào đó sẽ công bố các loại lãi suất chính thức bám sát lãi suất trên TTTT.Do đó,lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên báo chí. Trước bối cảnh như vậy, NHNN có những bước cải cách quan trọng về lãi suất,dần điều chỉnh lãi suất theo yêu cầu của thị trường, tiếp tục đổi mới hơn nữa chế độ kiểm soát lãi suất để hoàn thiện, đổi mới nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này,em xin chọn đề tài : “ Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây “.Đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về lãi suất.
Chương 2: Biến động của lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế biến động lãi suất trong thời gian tới.
Do còn hạn chế về hiểu biết trong lĩnh vực tài chính kinh tế nên bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót.kính mong thầy cô góp ý giúp đỡ để em hoàn thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1.1.Khái niệm về lãi suất.
Một trong những nhận thức cơ bản và quan trọng nhất của kinh tế học đó là “giá trị thời gian của tiền”. Điều này được dựa trên quan điểm có ý nghĩa chung là 1 đồng tiền thanh toán cho bạn sau 1 năm có ít giá trị đối với bạn so với 1 đồng tiền ngày hôm nay. Chính vì vậy để được sở hữu tiền ắt cần phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định.Người ta gọi chi phí này là lãi suất.
Theo quan điểm của John Maynard Keynes, lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản.
Trong khi Frederic S.Mishkin đã đưa ra khái niệm về lãi suất hoàn vốn – một loại lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Theo đó với từng loại công cụ nợ trên thị trường mà lãi suất được phân chia thành 4 loại: lãi suất vay đơn, lãi suất vay trả cố định, lãi suất trái khoán coupon và lãi suất trái khoán chiết khấu.
Lãi suất có thể được coi là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, hay nói khác đi, chi phí cơ hội của việc giữ tiền là khoản lợi tức mất đi khi người ta giữ tiền thay vì việc giữ các trái khoán.
Như vậy, xét về bản chất, “Lãi suất (Interest rate) là tỷ lệ % giữa tiền lãi (hay chi phí phải trả) trên một số lượng tiền nhất định để có được quyền sở hữu và quyền sử dụng tiền ấy trong khoảng thời gian đã thỏa thuận”.
1.2.Phân loại lãi suất
1.2.1. Theo giá trị thực của lãi suất
Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) là lãi suất chưa được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay về một số vốn nào đó và thường được niêm yết trên thị trường.
Lãi suất thực tế (real interest rate) là lãi suất đã được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền.
Quan hệ của 2 lại lãi suất này được thể hiện như sau :
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỉ lệ lạm phát
1.2.2. Theo cơ chế điều hành của nhà nước.
Lãi suất sàn là lãi suất tối thiểu do NHTW quy định, áp dụng đối với lãi suất tiền gửi của khách hàng tại các NHTM.
Lãi suất trần là lãi suất cho vay tối đa do NHTW quy định, áp dụng đối với lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng.
Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTW công bố, làm cơ sở cho các NHTM xác định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau như ở Nhật Bản là lãi suất cho vay thấp nhất; ở Mỹ dựa trên lãi suất cho vay áp dụng đối với khách hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số NHTM đứng đầu.
1.2.3.Theo nghiệp vụ tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tiền gửi ngân hàng : là lãi suất phải trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào loại tiền gửi, loại hình gửi, thời hạn và quy mô của tiền gửi.
Lãi suất cho vay: là lãi suất qui định tỉ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.Về nguyên tắc,trong điều kiện bình thường,lãi suất cho vay không được nhỏ hơn lãi suất huy động để đảm bảo cho tổ chức kinh doanh tín dụng có lãi.
Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khâu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mênh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khác hàng. Lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không phải trả sau như lãi suất tín dụng thông thường.
Lãi suất tái chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỉ lệ phân trăm trên mênh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng : là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành trên quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trưởng mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương.
1.2.4. Các loại lãi suất tín dụng khác.
Lãi suất LIBOR và PIBOR là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London và Paris,là lãi suất tiền gửi bằng đôla hay ngoại tệ khác mà theo đó các ngân hàng lớn làm căn cứ để đi vay và cho vay trên thị trường tiền tệ Châu Âu.LIBOR phản ánh điều kiện thị trường nên được các ngân hàng sử dụng rộng rãi làm cơ sở để ấn định lãi suất các món vay.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
1.3.1. Tác động của cung – cầu tiền tệ.
Lãi suất là biểu hiện của giá cả của tiền tệ, được xác định bởi hoạt động của cơ chế cung và cầu vốn.
Cung của vốn có được chủ yếu từ các khoản tiết kiệm của dân chúng và lượng vốn đã được cung cấp phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất quá thấp, dân chúng sẽ quyết định không cho vay các khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng khả dụng. Khi lãi suất tăng lượng tiết kiệm dân chúng sẵn sang cho vay tang lên làm cho khối lượng cung sẽ lớn hơn.
Cầu vốn là nhu cầu vay vốn có khả năng thanh toán của các doanh nghiệp và cá nhân, thông thường cầu vốn phụ thuộc vào kỳ vọng tăng trưởng kinh tế, mức độ ổn định của tiền tệ và tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu về vốn đều tác động đến lãi suất.Chẳng hạn, tăng tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng cung vốn, và nếu cầu vốn không tăng tương ứng để cân bằng được cung cầu sẽ làm cho lãi suất giảm đi. Ngược lại sự tăng lên của cung về vốn không tương ứng sự tăng lên của cầu về vốn sẽ làm cho lãi suất tăng lên. Mặt khác, lãi suất cũng tác động đến cung và tiết chế cầu, lãi suất tăng làm cung tăng, hạn chế cầu, lãi suất giảm sẽ có tác dụng hạn chế cung và kích cầu.
1.3.2. Lạm phát .
Lạm phát ảnh hưởng đến lãi suất theo hướng tỉ lệ thuận: Khi tỉ lệ lạm phát tăng cao thì lãi suất danh nghĩa cao tương ứng và ngược lại, khi tỉ lệ lạm phát giảm thì lãi suất cũng giảm theo. Nếu tỉ lệ lạm phát tăng cao, người cất giữ tiền mặt sẽ thu được một lãi suất thực âm (giá trị thực tế của tiền mặt bị xói mòn). Ngược lại khi lạm phát thấp, đồng nội tệ ổn định, với chính sách lãi suất hợp lý sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.Như vậy, về mặt lý thuyết và thực tiễn, lạm phát và lãi suất thông thường là biến động cùng chiều và chính sách lãi suất tích cực là phải đảm bảo nguyên tắc lãi suất lớn hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực dương.
1.3.3. Chính sách của Nhà nước.
Cân đối thu, chi ngân sách: Ngân sách nhà nước vừa là người cung tiền gửi, vừa là người cầu tiền cho vay đối với ngân hàng. Do đó sự thay đổi trong mối tương quan giữa thu và chi ngân sách là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Nó tác động đến lãi suất theo hai hướng:
Thâm hụt (bội chi) ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất tăng.Khi ngân sách bội chi, Chính phủ sẽ vay dân chúng bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu để bù đắp. Như vậy, một lượng tiền tiết kiệm trong dân cư được dung để mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ nay chuyển sang dạng tiền gửi vì vậy cung tiền gửi tăng lên dẫn đến việc giảm lãi suất.
Định hướng điều hành chính sách tiền tệ: Việc mở rộng hay thu hẹp lượng tiền cung ứng của NHTW tác động tức thời đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Nếu NHTW thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng – cung tiền tăng thì lãi suất sẽ có xu hướng giảm và ngược lại.
Các công cụ của chính sách tiền tệ và nghiệp vụ NHTW đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau, và có ảnh hưởng tới lãi suất thị trường:
Dự trữ bắt buộc: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao thì lãi suất cho vay cũng cao, ngược lại nếu tỉ lệ dự trữ bắt buộc thấp thì lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thấp.
Nghiệp vụ thị trường mở: Nếu NHTW tung tiền mua các giấy tờ ngắn hạn hoặc trái phiếu sẽ khiến lãi suất hạ. Nếu NHTW bán ra các giấy tờ có giá ngắn hạn hoặc trái phiếu để thu tiền thì lãi suất sẽ tăng.
Tỉ giá hối đoái: Nếu tỉ giá hối đoái tăng lên có nghĩa là nội tệ mất giá khiến cho lạm phát tăng theo, nên lãi suất tăng. Ngược lại, tỉ giá hối đoái thấp làm cho lãi suất hạ.
Lãi suất tái chiết khấu: NHTW mở rộng cánh cửa tái chiết khấu làm cho lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm xuống. Ngược lại, khi NHTW hạn chế việc tái chiết khấu sẽ khiến cho lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên.
Chính sách quản lý ngoại hối, tỷ giá: Trong một nền kinh tế mở, chính sách quản lý ngoại hối tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán, lượng ngoại tệ ròng của NHTW, thực hiện việc bơm tiền hay hút tiền trong lưu thông thông qua hành động mua, bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến cung tiền và lãi suất. Còn tỷ giá đóng vai trò là đại lượng cân bằng động giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, như vậy, sự ổn định của tỷ giá là yếu tố tránh biến động về lãi suất. Nếu tỷ giá tăng, sẽ làm cho lãi suất nội tệ tăng theo để bảo vệ giá trị đồng nội tệ và tránh sự suy giảm của vốn huy động bằng nội tệ. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, lãi suất nội tệ sẽ có xu hướng giảm theo, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế.
1.3.4. Tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, vốn hoạt động của các doanh nghiệp không phải dựa vào vốn vay ngân hàng là chủ yếu thì tỷ suất lợi nhuận bình quân là một trong những nhân tố chi phối sự biến động của tín dụng ngân hàng. Nếu lãi suất vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì tín dụng được mở rộng, còn ngược lại, thì nhu cầu tín dụng bị thu hẹp.
Về phương diện kinh tế vĩ mô, nếu lãi suất cho vay cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì có nguy cơ thu hẹp đầu tư, sản xuất kinh doanh bị đình đốn, kinh tế sẽ suy thoái và đó không phải là mục tiêu của chính sách tiền tệ cần hướng tới. Mặt khác, khi tỷ suất lợi nhuận bình quân nhỏ hơn lãi suất cho vay, thì lãi suất huy động cũng có thể cao, lúc đó, mọi nhà sản xuất kinh doanh đều tìm cách kiếm lợi nhuận qua việc gửi tiền vào ngân hàng hơn là đầu tư. Điều này càng nguy hại cho nền kinh tế.
1.3.5. Một số nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố nói trên tác động đến lãi suất, còn có các nhân tố khác cũng có thể tác động đến lãi suất như: thâm hụt cán cân vãng lai, tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số giá chứng khoán, tình hình chính trị, thiên tai, dịch bệnh, biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới.
CHƯƠNG II : BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1.Vai trò của lãi suất tín dụng
Lãi suất tín dụng là phương tiện kích thích lợi ích vật chất và thu hút mọi người với nhau trong nền kinh tế.
Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích sự phát triển kinh tế. Với vai trò là giá quyền sử dụng vốn vay,một mức cho vay phù hợp sẽ kích thích nhu cầu đầu tư vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.Việc phân biệt các mức lãi suất cho vay theo ngành,theo vùng hoặc theo từng khách hàng có thể tạo nên một chính sách lãi suất linh hoạt có khả năng khai thác triệt để thế mạnh của từng đối tượng sử dụng vốn,từ đó tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay.
Lãi suất tín dụng là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Lãi suất là công cụ ưu tiên với mọi nền kinh tế
2.2. Chính sách lãi suất của NHNN và biến động của lãi suất tín dụng những năm gần đây
2.2.1. Năm 2009
Năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục lan rộng, đẩy kinh tế thế giới lún sâu vào suy thoái, đã tác động nhanh, trực tiếp đến nền kinh tế nước ta trên các lĩnh vực xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, du lịch, đầu tư nước ngoài… Do đó, hệ thống ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức. Trước tình hình đó, để góp phần chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế ở mức hợp lý, bền vững bảo đảm an sinh xã hội, NHNN đã điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với mục tiêu kích cầu, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống.
Theo Quyết định 131 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay để sản xuất - kinh doanh, nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hoá, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
Trong quyết định này có đề cập đến nguyên tắc hỗ trợ lãi suất là các các ngân hàng thương mại cho vay các nhu cầu vốn lưu động để hoạt động sản xuất – kinh doanh theo cơ chế tín dụng thông thường và thực hiện hỗ trợ lãi suất theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của NHNN; không được từ chối hỗ trợ lãi suất, nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất; định kỳ báo cáo NHNN để kiểm tra, giám sát tình hình hỗ trợ lãi suất.
Theo đó,thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ 1/2/2009 - 31/12/2009. Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoảng thời gian quy định nêu trên; khi thu lãi cho vay, các ngân hàng thương mại giảm trừ số tiền lãi phải trả cho khách hàng vay.
Lãi suất huy động tiền gửi VNĐ năm 2009
Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Các điều chỉnh tăng được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12.3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm.Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, hiện mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ, ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm.
Từ tháng 8 đến tháng 10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%.
Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%. Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn.
2.2.2 Năm 2010
Cuối tháng 3/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam công bố lãi suất cơ bản vẫn giữ ở mức 8% trong tháng 4/2010 như từ tháng 12/2009 do từ 26/2/2010.NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN.
Nguồn: NHNN
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%.
Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10.
Cho đến ngày 15/10/2010, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%.Trước tình trạng leo thang khó có điểm dừng của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính. Mặt bằng lãi suất huy động trung bình một số thời điểm năm 2010 như sau:
Nguồn: NHNN
Bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12% và điều hành tỷ giá ở mức hợp lý. Tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Để thực hiện nhiệm vụ này, NHNN đã tích cực hỗ trợ vốn cho các NHTM thông qua hoạt động của thị trường mở và thị trường liên ngân hàng nên mặt bằng lãi suất cho vay VND có xu hướng giảm dần (giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành nghề kinh doanh có mức giảm lớn hơn (giảm 2 - 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa... Tuy nhiên, trước những diễn biến không thuận lợi của kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất đã tăng cao trở lại trong hai tháng cuối năm, giao động trong khoảng 13,5 – 18,5%.Tóm lại,tình hình biến động lãi suất của năm 2010 như sau:
Diễn biến của lãi suất đi theo đúng kịch bản của năm 2009: lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát.
Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt các tháng cuối năm.
Không còn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn, thậm chí những tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn.
TCTD tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp nhằm hợp lý hóa các chi phí phụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng thông qua các chương trình khuyến mại, các loại phí...
2.2.3 Năm 2011
Trước tinh hình kinh tế thế giới hiện đang diễn biến phức tạp, lạm phát tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao,thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 12%/năm lên 13%/năm; Điều chỉnh tăng 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng kể từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 5/2011. Nhằm đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa lãi suất huy động bằng USD ở trong nước và ngoài nước, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN ngày 09/4/2011 quy định lãi suất vốn huy động tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng. Theo đó, lãi suất huy động tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức là người cư trú, tổ chức là người không cư trú (trừ tổ chức tín dụng) là 1,0%/năm, lãi suất huy động tối đa bằng đô la Mỹ của cá nhân là người cư trú, cá nhân là người không cư trú là 3,0%/năm, bao gồm cả khoản chi khuyến mãi dưới mọi hình thức.
Các mức lãi suất chính sách từ 1/10/2010 đến 31/3/2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
So với cuối năm 2010, quý I/2011vốn huy động ước tính tăng 5,6%, trong khi tín dụng đối với nền kinh tế (cho vay) tăng 3,67%.
Cụ thể, tính đến ngày 16/3, tổng phương tiện thanh toán ước tăng 2,07% so với cuối năm 2010, vốn huy động ước tăng 1,56%, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 3,67% (tín dụng bằng VND tăng 1,43%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 12,06%). Đánh giá về tình hình lãi suất, theo NHNN, lãi suất huy động vốn VND ít biến động so với cuối năm 2010, phổ biến ở mức 13,5 - 14%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay tăng khoảng 1-1,5%/năm và hiện ở mức bình quân là 16,23%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14 -16%/năm, lĩnh vực phi sản xuất là 18 - 22%/năm. Riêng lãi suất huy động USD bình quân là 4,65%/năm, cho vay là 6,83%.Lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng trong những ngày giáp Tết Nguyên đán Tân Mão từ 14% -17%/năm, đến đầu tháng 2 giảm và ổn định ở mức 10,5 - 13%/năm.
Tuy nhiên, trong những ngày cuối quý I/2011, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng và hiện giao dịch ở mức khoảng 16 - 18%/năm, chủ yếu kỳ hạn dưới 1 tháng; lãi suất 1 tuần ở mức 18 - 20%/năm.Trong tháng 4/2011, lãi suất huy động VND ít biến động so với cuối tháng 3/2011. Hiện nay, lãi suất huy động không kỳ hạn phổ biến ở mức 3-4%/năm, cá biệt có một số Ngân hàng thương mại quy mô nhỏ áp dụng mức lãi suất 6-9%/năm, nhìn chung các ngân hàng đều áp dụng mức lãi suất huy động vốn tối đa 14%/năm, lãi suất huy động bình quân 13,41%/năm. Lãi suất cho vay VND tăng khoảng 1%/năm so với cuối tháng 3/2011. Hiện nay, lãi suất cho vay VND bình quân ở mức 17%/năm, trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến 16-17,5%; lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 14-16%/năm; lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất (kinh doanh bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng) 18-22%/năm. Lãi suất huy động USD giảm khoảng 2%/năm so với cuối tháng 3/2011. Trong nửa đầu tháng 4/2011, lãi suất huy động USD có xu hướng giảm do việc kiểm soát chặt tín dụng và thị trường ngoại tệ tự do. Sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN ngày 09/4/2011, các Ngân hàng thương mại đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động USD xuống mức tối đa 3%/năm. Hiện tại, lãi suất huy động USD bình quân là 2,66%/năm, lãi suất cho vay USD bình quân khoảng 6,83%/năm.
2.3.Tác động của lãi suất đến nền kinh tế Việt Nam
2.3.1.Tác động của lãi suất đối với tiêu dùng và đầu tư, sản lượng quốc gia và tỷ lệ thất nghiệp
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến chi tiêu dùng và đầu tư của hộ gia đình và tổ chức kinh tế, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp.
Chẳng hạn, khi lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm xuống, chi phí cơ hội của việc giữ tiền để tiêu dùng trở nên nhỏ. Người dân ít có xu hướng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng và sẽ tìm kiếm các hình thức đầu tư tài sản khác an toàn hơn như đầu tư vào kênh chứng khoán, vàng, bất động sản làm cho giá cả tài sản tài chính (chứng khoán) tăng lên. Điều này lại khiến cho thu nhập của những người có tài sản tài chính được gia tăng. Lãi suất giảm là một tín hiệu trên thị trường tiền tệ làm tác động tới kỳ vọng và lòng tin của người dân đối với nền kinh tế. Tiền có nhiều trong tay người, chi phí để có tiền trở nên thấp xuống, mọi người dễ có tiền hơn, khuynh hướng chi tiêu sẽ tăng lên. Người dân có xu hướng mua nhiều hơn những loại mặt hàng thiết yếu (như phương tiện đi lại, nghe nhìn, nhà ở) vì chi phí tín dụng để mua sắm các hàng hóa đó đang rẻ đi.Nhu cầu về hàng hóa sẽ thúc đẩy giá cả lẫn hoạt động sản xuất phát triển nhanh hơn. Đối với các tổ chức kinh tế, chi phí vốn vay giảm cũng làm cho xu hướng doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận hơn, có thể đầu tư nhiều thêm các dự án mới cũng như mạnh dạn vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Kết quả là các khoản chi tiêu cho đầu tư, tiêu dùng tăng lên.
Ngược lại khi lãi suất tăng cao, làm cho tiền trở nên khan hiếm, chi phí để có được tiền tăng lên làm cho người dân thích gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng và nắm giữ nhiều tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Người dân không có xu hướng tham gia nhiều trên thị trường chứng khoán đã làm giá cả tài sản tài chính giảm xuống, thu nhập của những người có tài sản tài chính từ đó cũng bị giảm đi, tạo sức ép giảm tiêu dùng đối với các hộ gia đình. Các doanh nghiệp e dè trong hoạt động vay vốn để gia tăng vào đầu tư sản xuất vì chi phí vốn đắt đỏ, thậm chí là thu hẹp đầu tư các dự án mới, khó khăn cho việc thuê thêm nhân công. Trong khi các điều kiện khác không thay đổi, lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến tăng giá đồng nội tệ. Giá hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài sẽ giảm đi tương đối, người dân có xu hướng sẽ chuyển đổi tiêu dùng nhiều hơn hàng hóa sản xuất ở nước ngoài, từ đó cũng gây ra ảnh hưởng trực tiếp đối với việc thu hẹp hoạt động sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, tỷ giá tăng cũng sẽ tác động tới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.Tất cả đều làm cho các khoản tiêu dùng cho đầu tư và chi tiêu giảm xuống.
Sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế như đã trình bày sẽ dẫn đến sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của toàn bộ nền kinh tế và làm thay đổi tổng cầu. Chẳng hạn như khi lãi suất trên thị trường giảm, thông qua đó làm cho các khoản tiêu dùng cơ bản của hộ gia đình và chi tiêu dùng của khu vực Chính phủ tăng lên; khuynh hướng đầu tư dự định và khuynh hướng xuất khẩu dự định cũng tăng (do đồng nội tệ có xu hướng giảm giá). Khi đó tổng cầu và sản lượng quốc gia sẽ tăng, tạo ra triển vọng công ăn việc làm. Nền kinh tế tiến gần hơn tới toàn dụng.Ngược lại, khi lãi suất tăng lên, sẽ làm cho sản lượng tụt xuống và nền kinh tế rơi vào suy thoái.
Chính vì lãi suất có ảnh hưởng sâu rộng tới hành vi của toàn bộ các đối tượng trong nền kinh tế - từ các hộ gia đình, tổ chức kinh tế cho đến Chính phủ nên các NHTW sẽ điều hành trực tiếp tới lãi suất trên thị trường tiền tệ hoặc điều hành một cách gián tiếp thông qua các loại lãi suất chính thức của NHTW nhằm đạt mục tiêu ổn định. Cơ chế dẫn truyền từ lãi suất chính thức tới tăng trưởng kinh tế cùng với những phân tích ở trên có thể được tóm gọn trong sơ đồ sau đây:
Nói tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, các NHTW sử dụng lãi suất là một động lực khuyến khích tiết kiệm, từ đó gia tăng nguồn vốn đầu tư trong nước cho sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
2.2.2Tác động của lãi suất đối với lạm phát và mục tiêu ổn định giá cả
Xem xét mô hình IS – LM (Investment/Saving – Liquidity preference/Money supply) – để thấy rõ vai trò của lãi suất trong việc điều chỉnh tổng cầu, từ đó điều chỉnh tỷ lệ lạm phát. Trong đó đường IS là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và sản lượng sao cho tổng chi tiêu kế hoạch bằng với thu nhập khi cung ứng tiền và nhu cầu tiền thả lỏng, đường LM là đường cân bằng thị trường tiền tệ, là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và sản lượng sao cho cầu tiền thực tế bằng với cung tiền thực tế với chính sách cố định về cung ứng tiền.
Trong phần nghiên cứu này cũng sử dụng mô hình AD –AS. Trong đó tổng cầu AD = C + I + G + NX với C là chi tiêu của hộ gia đình, I là tổng đầu tư của các doanh nghiệp, G là chi tiêu của Chính phủ và NX là xuất khẩu ròng. Tổng cung biểu thị khả năng sản xuất của một đất nước trong một giai đoạn nhất định.Trong dài hạn, đường tổng cung là thẳng đứng còn trong ngắn hạn đường tổng cung dốc lên.
Hình 1.1.Mô hình IS - LM
Để giữ cho tài sản nợ và có có hiệu quả không đổi, hệ thống ngân hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế cố định. Nhưng vì “lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát” nên nếu muốn cho lãi suất thực tế không đổi, lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát. Khi lãi suất danh nghĩa tăng, làm cho đường IS dịch qua phía trái thành IS’. Vào giai đoạn đầu, nhu cầu về các loại tài sản khác, tiền tăng làm giảm tổng cầu.Sản lượng về mặt lý thuyết sẽ phải tụt xuống mức Y1 (r1).Nhưng sau đó, khi nhu cầu về tiền danh nghĩa giảm,xuất hiện thừa cung trên thị trường tiền tệ. Cơ chế cân bằng tự nhiên sẽ ép đường LM cũngphải dịch qua bên trái. Sự dịch qua trái của LM kết thúc khi thừa cung về tiền được san lấp.Cân bằng giữa đường LM’ và IS’ là điểm B. Lúc này lãi suất danh nghĩa có hạ hơn do giá cảđã hạ vì cung trên thị trường giảm. Lãi suất giảm xuống r2, nhưng điều đáng nói là sản lượng tụtxuống Y2 do hỗn hợp ISLM đã biến động về lãi suất.
Khi các ngân hàng và hệ thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa theo lạm phát, hậu quả mà nền kinh tế phải gánh lấy là suy thoái và thất nghiệp gia tăng. Ta biết rằng lãi suất càng tăng, đầu tư thực tế càng giảm do đó về mặt lâu dài, sự cân bằng trên thị trường hàng hóa và tiền tệ sẽ kéo cả lạm phát và lãi suất xuống khi không có sự can thiệp củaNHTW. Theo đó tiềm năng sản xuất bị lãng phí.Số việc làm giảm và đời sống nhân dân thêm khó khăn.
Lãi suất đã và đang là một công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTW ở mỗi quốc gia nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, hướng đến kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng giảm lãi suất luôn phải đối mặt với nhiều thách thức bởi lẽ một sự thay đổi trong điều hành chính sách lãi suất của NHTW sẽ ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong nền kinh tế như sức cạnh tranh về giá của hàng hóa, sản phẩm trên thị trường; biến động của thị trường chứng khoán, thị trường vàng, ngoại tệ, bất động sản và tình hình chung của nền kinh tế.
2.2.3.Tác động của lãi suất đối với tỷ giá hối đoái
Lãi suất là công cụ được các NHTW sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ.Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi cao hơn. Điều này làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường hay tăng cầu đối với đồng nội tệ, từ đó đồng nội tệ sẽ tăng giá.Ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nước ngoài, đồng nội tệ sẽ giảm giá. Lý thuyết này chỉ đúng với các nền kinh tế mở, nơi có đồng tiền tự do chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung – cầu vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi hoặc vượt quá tỷ suất lợi nhuận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái là do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này là do tình hình cán cân thanh toán dư thừa hay thâm hụt quyết định. Nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó biến động lãi suất không nhất thiết đưa tỷ giá biến động theo hay lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ gián tiếp mà không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp.Tuy nhiên hiện nay lãi suất vẫn có những ý nghĩa của nó và được kết hợp xử lý đồng bộ cùng với tỷ giá, phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kì nhất định.
2.2.4.Tác động của lãi suất đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thị trường tài chính và hệ thống NHTM.
Đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp:Lãi suất cho vay phản ánh giá cả của đồng vốn đi vay.Chi phí lãi vay sẽ hình thành nên chi phí vốn và là chi phí đầu vào của quá trình SXKD. Khi lãi suất cho vay của NHTM tăng sẽ đẩy chi phí đầu vào và giá thành sản phẩm tăng lên, làm suy giảm lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, gây ra tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản trong hoạt động SXKD. Đồng thời lãi suất vay vốn tăng lên cũng đồng nghĩa với việc cắt giảm quy mô, thu hẹp phạm vi sản xuất trong hoạt động của doanh nghiệp mình. Lãi suất cho vay cao thông thường là một tín hiệu rõ ràng trong việc hạn chế tín dụng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi lãi suất cho vay của NHTM giảm xuống sẽ có tác động ngược trở lại.
Hơn nữa, lãi suất là một yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, vì khi doanh nghiệp vay vốn từ các tổ chức tín dụng sẽ phải cam kết hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy muốn đảm bảo có nguồn vốn để trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự và không ngừng nâng cao kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cũng như xem xét kỹ lưỡng việc đầu tư liệu có mang lại lợi nhuận hay không. Điều này giúp các doanh nghiệp sử dụng triệt để các nguồn lực của mình để gia tăng sản xuất, nâng cao lợi nhuận.
Đối với thị trường tài chính, lãi suất là một công cụ tạo dựng sự phát triển theo chiều sâu của thị trường tài chính. Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai thái cực: một là những người có nguồn vốn nhàn rỗi và hai là những người cần vốn. Một mức lãi suất hợp lý và đem lại lợi tức ở mức chấp nhận, sẽ giúp cho luồng chu chuyển vốn giữa những người có vốn sang người không có vốn trở nên dễ dàng hơn. Mức lãi suất đó phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người cho vay và người đi vay, cụ thể: tỷ lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. Lãi suất tự bản thân nó có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu. Sự chu chuyển vốn này sẽ giúp cho nền kinh tế đạt được mức toàn dụng trong việc sử dụng các nguồn lực về vốn để tăng trưởng và phát triển.
Đối với hoạt động của hệ thống NHTM, lãi suất có vai trò đòn bảy kinh tế cực kỳ lợi hại, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Trong hoạt động của mình, các NHTM sẽ phải tính toán mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.Chính vì vậy lãi suất đóng vai trò là nhân tố bù đắp chi phí, nhân tố đảm bảo tính thanh khoản giúp ngân hàng hoạt động một cách có hiệu quả. Trên TTTT, lãi suất được coi là công cụ cạnh tranh giữa các ngân hàng. NHTM coi lãi suất là một yếu tố hàng đầu để thu hút tối đa các khoản tiền gửi cũng như đẩy mạnh cho vay. Tuy nhiên sự cạnh tranh trong việc tăng giảm lãi suất giữa các NHTM luôn được các NHTW theo dõi sát sao và được điều chỉnh thông qua chính sách tiền tệ - tín dụng của NHTW bằng các biện pháp điều hành trực tiếp hoặc gián tiếp.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Về công cụ điều hành chính sách lãi suất
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất mục tiêu – lãi suất cơ bản, từ đó hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở để chủ động điều tiết lãi suất thị trường và hành vi của các thành viên trên thị trường tiền tệ.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả điều hành của lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu cũng như nâng cao chất lượng nghiệp vụ tái cấp vốn, nghiệp vụ chiết khấu của NHNN đối với các NHTM.
Thứ ba, khi hệ thống thanh toán và thị trường tiền tệ phát triển, xem xét áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cho vay qua đêm là lãi suất trần và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại NHNN có thể là lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ là lãi suất điều tiết thị trường chủ yếu của NHNN, hình thành trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
Thứ tư, về nghiệp vụ thị trường mở, đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kỳ hạn trong một phiên.
Thứ năm, cần có những điều chỉnh đối với phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc của NHNN.
Thứ sáu, phối kết hợp nghiệp vụ Swap với các công cụ chính sách lãi suất khác nhằm hỗ trợ kịp thời vốn VND cho các NHTM
3.2. Về mục tiêu điều hành chính sách lãi suất
Thứ nhất, chính sách điều hành lãi suất theo hướng thắt chặt tiền tệ trong mặt bằng lãi suất cao như hiện nay cần phải được xem xét và điều hành thận trọng do có thể dẫn đến việc không giảm tỷ lệ lạm phát mà còn gia tăng áp lực lạm phát cao.
Thứ hai,trong xác định mục tiêu điều hành của chính sách lãi suất cần nâng cao tính độc lập của NHNNđối với các quyết định của Chính phủ.
3.3. Về việc phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, chú trọng phát triển thị trường liên ngân hàng (nội, ngoại tệ) theo hướng linh hoạt để các NHTM quy mô nhỏ tham gia tích cực, có hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu vốn của mình, góp phần minh bạch hóa lãi suất và ổn định lãi suất trên thị trường tiền gửi
Thứ hai, tập trung phát triển thị trường thứ cấp cho các giấy tờ có giá, NHNN cần tăng cường tuyên truyền, đào tạo các NHTM, các khách hàng của NHTM để họ thấy được lợi ích tham gia thị trường mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (repo).
3.4. Về việc tăng cường khả năng phản ứng của chính sách lãi suất đối với biến động thị trường.
Thứ nhất, việc ra quyết định về chính sách lãi suất nên theo cách tiếp cận khuynh hướng vĩ mô tổng thể và có hành động sớm hơn dựa trên những dữ liệu phản ánh khuynh hướng, thay vì dựa trên những thông tin vi mô và chậm tới khi cảm nhận thấy sức ép mới thay đổi.
Thứ hai, cần thay đổi chiến thuật truyền thông điệp vào nền kinh tế.Tránh hiện tượng che dấu thông tin hoặc đưa thông tin thiếu chính xác.
Cách thay đổi là nên có thông tin định kỳ với báo chí nói rõ những phân tích và xem xét của ngân hàng trung ương về hiện trạng nền kinh tế và dự báo những thay đổi trong chính sách lãi suất có thể trong tương lai.
Thứ ba, để thực hiện một hướng chính sách lãi suất nên chia nhỏ thành nhiều bước lãi suất nhằm truyền tín hiệu tới thị trường một cách từ từ, mềm mại; thay vì đưa ra những mức thay đổi lớn và đột ngột.Chẳng hạn việc nâng hay hạ lãi suất nên chia nhỏ thành nhiều lần trong một khoảng thời gia thay vì chỉ một hoặc hai lần với biên độ lớn cũng trong khoảng thời gian đó.hành động này phải phù hợp với định hướng mà các thông điệp được đưa ra cho công chúng và giới kinh doanh.Nó có thể giúp làm cho chính sách mềm mại, nhịp nhàng với sự biến đổi của nền kinh tế và thị trường.
KẾT LUẬN
Nhìn vào mặt bằng lãi suất ở Việt Nam hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, lãi suất ở Việt Nam là loại lãi suất cao nhất thế giới. Đó là một sự thắc mắc dường như ít ai quan tâm giải thích. Các chủ trương chính sách vĩ mô nhằm can thiệp ngắn hạn vào nền kinh tế bằng cách điều chỉnh lãi suất hay tỷ giá để giảm thất nghiệp trước mắt, hay xa hơn là tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia…về lâu dài tác động ra sao đến các chính sách có tầm nhìn dài hạn hơn, như ổn định kinh tế vĩ mô hoặc chống lạm phát là điều cần phải cân nhắc hết sức thận trọng.Nó phải thay đổi tùy theo thị trường,tùy theo giai đoạn phát triển và yêu cầu phát triển kinh tế đặt ra trong mỗi thời kì của từng quốc gia. Qua đề tài này, các giải pháp thiên về xu hướng tự do hóa lãi suất có điều tiết và dần dần tiến tới tự do hóa lãi suất hoàn toàn trong tươg lai nhưng cần phải có một lộ trình hợp lý đồng thời phải tiến hành một cách đồng bộ các công cụ điều tiết từ đó làm cơ sở xây dựng nên những mô hình dự báo tương đối chính xác cho các biến động của thị trường. Những tiền đề thành công khi tự do hóa lãi suất ở các quốc gia khác chính là cơ sở để giúp chúng ta tin tưởng rằng vẫn có những giải pháp thích hợp để giải quyết bài toán điều hành lãi suất tại những đất nước đang phát triển như Việt Nam. Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài, các giải pháp đưa ra đều có tính chất định tính và định hướng chung. Do đó, rất mong nhận được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Tài liệu tham khảo
Biến động lãi suất và tín dụng ngân hàng năm 2010-TS Vũ Đình Ánh
Báo cáo thường niên các năm 2005 - 2010 của NHNN Việt Nam
Sách Lý thuyết tài chính tiền tệ -Trường Đại học Phương Đông
www.ktpt.edu.vn “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và khuyến nghị chính sách cho năm 2011” – TS. Lê Quốc Hội.
www.sbv.gov.vn : Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
www.vneconomy.com.vn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bi7871n 2737897ng li su7845t v tc 2737897ng c7911a namp243.doc