MỞ ĐẦU
Khi đề cập tới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương, một trong những lý thuyết kinh tế học được quan tâm và suy xét cẩn trọng đó là: "bộ ba bất khả thi" (The impossibe Trinity). Năm 2007, Việt Nam được nhắc đến với tốc độ tăng trưởng rất nóng của nền kinh tế. Đồng thời với sự kiện đó, vấn đề bộ ba bất khả thi cũng được đưa ra xem xét, tranh luận do những động thái điều chỉnh chính sách tiền tệ, tỷ giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Có rất nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau xung quanh vấn đề này.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về lý thuyết bộ ba bất khả thi và thực tế việc vận dụng lý thuyết này ở Việt Nam năm 2007, người thực hiện đã lựa chọn đề tài:
Bộ ba bất khả thi và vận dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2007
Mục tiêu của bài viết là đánh giá xem chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương trong năm 2007 đã hợp lý chưa dưới góc nhìn của lý thuyết "bộ ba bất khả thi". Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, phân tích tài liệu, sách báo và các website.
****
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này, có thể rút ra được những vấn đề sau:
- Thứ nhất: về bộ ba bất khả thi: Không thể có chính sách tiền tệ độc lập trong điều kiện cố định hay coi như cố định tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn được tự do. Hay nói cách khác, không thể giữ được ba góc của một chiếc khăn khỏi bung lên trong một chiều lộng gió chỉ bằng hai hòn đá.
- Thứ 2: năm 2007, NHTW đã tham vọng muốn biến bộ ba bát khả thi thành bộ ba khả thi. Nhìn từ bên ngoài, có thể có đánh giá cho rằng, chúng ta đã áp dụng thành công. Nhưng, xét về dài hạn, đấy là những bước đi chưa chính xác.
- Thứ 3: để tránh bộ ba bất khả thi, chính sách tiền tệ của VIệt Nam nên đi theo hướng: chính sách lạm phát mục tiêu vì thực tế đã cho thấy, con đường này khá phù hợp và mang lại kết quả tốt. tuy nhiên, cũng cần thận trọng và cân nhắc lựa chọn thời điểm cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, (2007) : Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ- NXB Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
2. PGS. TS Nguyễn Văn Tiến, (2008), Giáo trình tài chính tiền tệ ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội
3. PGS., TS. Nguyễn Văn Tiến - Vũ Hoàng Phương Quế, (2005), Chính sách mục tiêu lạm phát - kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Việt Nam
4. Nguyễn Ái Đoàn “Lạm phát - vấn đề kinh tế vĩ mô hàng đầu ở Việt Nam” Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 317 tháng 10/2004
5. TS.Phan Minh Ngọc, (2007), Bộ ba bất khả thi” không thể là “bộ ba khả thi”?, Tạp chí Người đại biểu của nhân dân, tháng 6/2007
6. Huỳnh Thế Du, (2007), Thị trường tiền tệ và “bộ ba bất khả thi”, Thời báo Kinh tế Sài gòn số tháng 6/2007.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bộ ba bất khả thi và vận dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khi đề cập tới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương, một trong những lý thuyết kinh tế học được quan tâm và suy xét cẩn trọng đó là: "bộ ba bất khả thi" (The impossibe Trinity). Năm 2007, Việt Nam được nhắc đến với tốc độ tăng trưởng rất nóng của nền kinh tế. Đồng thời với sự kiện đó, vấn đề bộ ba bất khả thi cũng được đưa ra xem xét, tranh luận do những động thái điều chỉnh chính sách tiền tệ, tỷ giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Có rất nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau xung quanh vấn đề này.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về lý thuyết bộ ba bất khả thi và thực tế việc vận dụng lý thuyết này ở Việt Nam năm 2007, người thực hiện đã lựa chọn đề tài:
Bộ ba bất khả thi và vận dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2007
Mục tiêu của bài viết là đánh giá xem chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương trong năm 2007 đã hợp lý chưa dưới góc nhìn của lý thuyết "bộ ba bất khả thi". Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, phân tích tài liệu, sách báo và các website.
Lý thuyết bộ ba bất khả thi và kinh nghiệm của một số quốc gia:
Lý thuyết bộ ba bất khả thi:
Lý thuyết bộ ba bất khả thi - The Impossible Trinity (hay Inconsistent Trinity hoặc Triangle of Impossibility) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô:
Ổn định tỷ giá
Tự do hóa dòng vốn
Chính sách tiền tệ độc lập
“Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999.
Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Và vào những năm 1980 khi vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc neo giữ tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở.
Một kiểu khác của lý thuyết bộ ba bất khả thi rất được chú ý - với một chính sách ổn định tỷ giá hoàn hảo, với một tài khoản vốn mở (không bị kiểm soát) hoàn hảo, nhưng một quốc gia vẫn hoàn toàn không thể tự chủ chính sách tiền tệ. Những ví dụ lặp lại trên thế giới cho thấy ở những nơi và thời điểm mà tài khoản vốn bắt đầu được tự do , thì cùng lúc xuất hiện một chính sách tỷ giá cứng nhắc hơn và sự tự chủ về chính sách tiền tệ cũng giảm đi.
Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới hiện đại, kiểm soát vốn rất dễ bị lãng quên. Thêm nữa, vấn đề kiểm soát vốn còn thể hiện những thay đổi của quốc gia không đúng thực tế. Do vậy rất khó để một quốc gia có được một hệ thống kiểm soát vốn thật sự hiệu quả. Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện ngày nay, một quốc gia phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể có đồng thời cả hai.
Tại sao lại có " bộ ba bất khả thi"?
Nếu nguồn vốn được tự do lưu chuyển thì khi đó có 2 trường hợp xảy ra: vốn đổ vào quá nhiều hoặc quá ít. Ta xét trường hợp dòng vốn chảy vào trong nước nhiều, khi đó, đồng nội tệ có sức ép lên giá. Để cố định tỷ giá, NHTW buộc phải mua ngoại tệ vào, bơm nội tệ ra. Động thái này sẽ làm cho lạm phát trong nước tăng. Khi đó, nếu chính sách tiền tệ là độc lập, để kiềm chế lạm phát, NHTW lại phải hút bớt tiền trong lưu thông. Như vậy, hành động ban đầu của NHTW và hành động về sau là mâu thuẫn nhau. Do vậy, bộ ba bất khả thi xuất hiện: NHTW không thể đồng thời cố định tỷ giá, thực hiện chính sách tiền tệ độc lập trong khi tự do hóa dòng vốn.
Kinh nghiệm áp dụng bộ ba bất khả thi của Trung Quốc:
Trung Quốc là một quốc gia áp dụng khá thành công bộ ba bất khả thi vẫn chưa tự do hóa dòng vốn. Trong những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, thặng dư thương mại với Mỹ trờ thành vấn đề làm cho Mỹ rất lo ngại, gây sức ép để buộc Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ.
Vấn đề đang làm đau đầu người Trung Quốc đã được giải quyết bằng cách chấm dứt hành động can thiệp tỷ giá (sterilization) của ngân hàng trung ương nước này (là việc nhằm vô hiệu hóa ảnh hưởng của sự can thiệp tỷ giá bằng cách tung ra các loại trái phiếu chính phủ để ngăn cung tiền tăng quá nhanh. Người dân Trung Quốc đang trở nên giàu có hơn và đang lập những kỷ mới về gửi tiết kiệm, trong bối cảnh những tài sản tiết kiệm này không dễ dàng gì đầu tư ra nước ngoài được (do tài khoản vốn của Trung Quốc vẫn bị kiểm soát chặt). Bởi vậy, như là một hậu quả tất yếu, lượng vốn nội địa khổng lồ này đã biến thành các khoản đầu tư làm tăng năng lực sản xuất trong nước đến mức quá lớn so với cầu nội địa. Trong khi đó, phần lớn nhất trong khối lượng dự trữ ngoại hối tăng lên là từ FDI chứ không phải từ thặng dư thương mại. Bởi vậy, đồng nhân dân tệ đã bị đặt dưới áp lực tăng giá và quá trình này có tính tự duy trì, đặc biệt kể từ khi cơ chế cố định tỷ giá NDT/USD được chuyển sang cơ chế cho phép tăng giá đồng nhân dân tệ từ từ so với đồng đôla từ năm 2005. Nắm giữ đồng nhân dân tệ đang có chiều hướng lên giá cũng chính là một cách đầu tư sinh lãi hiệu quả của dân chúng. Nói cách khác, nhìn nhận đồng nhân dân tệ như một hàng hóa, và thặng dư cán cân thanh toán của Trung Quốc chỉ là sự phản ánh cầu lớn hơn cung: “Nếu anh tạo ra tiền trong trạng thái cân bằng thì lượng tiền tạo thêm này sẽ phá vỡ cân bằng đó, và dân chúng sẽ chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn, và khả năng là lạm phát sẽ tăng lên. Nhưng nếu anh in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu tăng lên về tiền của dân chúng thì sẽ không có lạm phát nảy sinh từ việc này”, giáo sư Mundell lập luận. Với hành động sterilization, Ngân hàng trung ương đã ngăn không cho cung tiền tăng lên mạnh để thỏa mãn nhu cầu về tiền của dân chúng, làm tiếp diễn tình trạng bất cân bằng này. Trong trạng thái cân bằng, kết quả của sự bão hòa về cầu đối với đồng nhân dân tệ là nhu cầu hàng hóa trong nước cũng như nhập khẩu sẽ tăng lên, làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc với thế giới, nhất là với Mỹ. Tuy nhiên, trái với thông thường, giá cả nhiều loại hàng hóa đã giảm đi ở Trung Quốc vì các doanh nghiệp đã tăng quy mô sản xuất đón đầu lượng cầu hàng hóa mới tăng lên này mà không phải tăng giá bán do đã hạ được giá thành sản xuất nhờ đạt được kinh tế quy mô (economy of scale), nhờ đó vẫn giữ được biên độ lợi nhuận phù hợp. Vì thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ sẽ giảm đi nên áp lực chiến tranh thương mại với Mỹ cũng vì thế mà giảm đi. Thực tế là mặc dù ngân hàng trung ương của Trung Quốc đã thực hiện sterilization nhưng lượng cung tiền (M2) vẫn tăng 17% so với mức tăng GDP 11%. Dù vậy, lạm phát ở Trung Quốc vẫn ở mức thấp. Hơn nữa, trong những thời điểm suy thoái nhẹ, áp lực giảm phát đã tăng lên ở Trung Quốc. Thêm một khác biệt là tình trạng quá “nóng” của kinh tế Trung Quốc không dẫn đến cầu tăng quá mạnh như với trường hợp của các nền kinh tế khác. Nói chính xác hơn thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với vấn đề là nhu cầu trong nước ở mức yếu. Bởi vậy, khi cầu nội địa tăng lên thì họ dư sức tăng mạnh sản lượng và tức là tăng cung để làm bão hòa toàn bộ lượng cầu mới tăng lên này. Tóm lại, cái gọi là “bộ ba bất khả thi” hoàn toàn có thể là “bộ ba khả thi” trong một số trường hợp. Nền kinh tế Trung Quốc là một minh họa rõ nét cho hiện tượng này.
Thực tế việc vận dụng bộ ba bất khả thi vào thực hiện chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2007:
Nếu quan sát những diễn biến của thị trường tiền tệ trong năm 2007 sẽ thấy hai sự can thiệp trái chiều rất đáng chú ý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một mặt, tung tiền đồng ra để mua vào đôla; nhưng mặt khác, tăng gấp đôi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc để thu hồi lại lượng tiền đã tung ra.
Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước. Khác với những năm trước đây, trong năm 2007, mục tiêu duy trì mức giảm giá đồng tiền một vài phần trăm, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và các dòng vốn khác được khai thông tốt hơn. Đồng Việt Nam không những không giảm mà còn có dấu hiệu tăng giá so với đồng đôla, gây bất lợi cho xuất khẩu. Thêm vào đó, nhập khẩu trong quí 1 lại tăng đột biến (cho dù chủ yếu là nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho sản xuất) đã làm cho thâm hụt cán cân ngoại thương trở nên trầm trọng hơn. Đứng trước áp lực nêu trên, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng ngoại tệ dự trữ phòng khi bất trắc xảy ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tung tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ Đôla, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước. Tăng dự trữ bắt buộc, việc nên làm? Việc gia tăng ngoại tệ cho dự trữ quốc gia là điều cần thiết, nhưng việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế sẽ làm áp lực lạm phát gia tăng, khi mà mới năm tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng trong nước đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái (WB 2007). Điều này làm cho mục tiêu khống chế mức tăng giá trong năm 2007 ở con số 6,5% trở nên khó khăn hơn. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước đang gặp thử thách. Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong thời gian còn lại của năm 2007, chỉ có cách rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế. Tăng dự trữ bắt buộc là giải pháp được lựa chọn. Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10% thì theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỉ đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỉ đôla nêu trên, quay trở lại kho của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, với hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực lạm phát vì tiền chảy vào đã được đem cất trong “két” nên chẳng có điều gì xảy ra cả!
Đánh giá bài học kinh nghiệm:
Đánh giá chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2007:
Để đảm bảo mục tiêu của mình, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện giải pháp tương đối đơn giản là đem cất bớt tiền. Tuy nhiên, việc cất bớt tiền ở thời điểm hiện nay có vẻ không hợp lý lắm. Điều này có thể giải thích bởi những do dưới đây. Thứ nhất, tuy các ngân hàng có vẻ dư thừa nguồn vốn trong những tháng đầu năm 2007, nhưng có lẽ bây giờ là thời điểm nền kinh tế sẽ hấp thụ một lượng vốn lớn khi mà những thuận lợi có được từ việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO bắt đầu được phát huy. Nhiều dự án, công trình đang chờ vốn, nhiều doanh nghiệp đang cần vốn để gia tăng hoạt động kinh doanh. Nếu tăng dự trữ bắt buộc lúc này, không những làm cho chi phí đầu ra của ngân hàng và doanh nghiệp gia tăng mà sự khan hiếm vốn cũng có thể xảy ra và sẽ đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất mới gây bất lợi cho nền kinh tế. Thứ hai, nếu Việt Nam đang thừa tiền như vậy thì liệu có cần triển khai kế hoạch phát hành thêm 1 tỉ Đôla trái phiếu quốc tế trong thời gian tới và trong trường hợp phát hành thì Ngân hàng Nhà nước sẽ làm gì với số tiền này? Phải chăng là tiếp tục đem cất? Liệu có xảy ra sự không ăn ý giữa cơ quan điều hành chính sách tài khóa và cơ quan điều hành chính sách tiền tệ? Thứ ba, mục tiêu đưa tiền vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài là để tạo ra lợi nhuận mà theo Giáo sư Ari Kokko, thuộc trường Kinh tế Stockholm thì suất sinh lợi yêu cầu tối thiểu của các khoản đầu tư phải là 15%. Để có được suất sinh lợi nêu trên, chỉ có cách duy nhất là đem tiền đầu tư tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Trường hợp đem tiền cất vào trong két làm dự trữ hoặc đầu tư vào những loại chứng khoán ít rủi ro sẽ tạo ra suất sinh lợi thấp hơn 15% rất nhiều. Khi đó, khoảng cách giữa chi phí vốn và suất sinh lợi sẽ rất lớn. Như vậy, thoạt nhìn thì thấy rằng việc can thiệp của Ngân hàng Nhà nước rất hay, nhưng phân tích kỹ một chút sẽ thấy những bất ổn từ chính sách này. Đâu là nghịch lý? Khi dòng vốn ra vào (tài khoản vốn) được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ phải bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều. Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản vốn đã được tự do. Hay nói cách khác, không thể giữ được ba góc của một chiếc khăn khỏi bung lên trong một chiều lộng gió chỉ bằng hai hòn đá. Nhìn vào việc vận hành chính sách tiền ở Việt Nam có vẻ như cơ quan điều hành chính sách tiền tệ đang cố chứng minh tính khả thi của bộ ba nêu trên. Dòng vốn ra vào tương đối tự do, lạm phát vẫn được khống chế và tỷ giá thì ổn định. Thực ra đây chính là nghịch lý mà Ngân hàng Nhà nước đã tạo ra. Khi làm như vậy, như đã phân tích ở trên, đồng tiền chảy vào không được đưa vào đầu tư mà lại cất trong két không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế và theo thời gian sẽ không lấy gì trả được cho các nhà đầu tư nước ngoài. Về dài hạn chính sách như vậy sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Và thật sự, năm 2008, chúng ta đã phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề khi lạm phát trở nên mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Bài học kinh nghiệm:
Việt Nam là một nước đang phát triển, việc điều hành công cụ chính sáh tiền tệ cần phải hết sức cẩn trọng. theo đánh giá chủ quan của người viết, trong bối cảnh nền kinh tế còn non yếu và bộc lộ những hạn chế khá lớn và tăng trưởng còn chưa vững chắc, để tránh hiện tượng bộ ba bất khả thi, NH nhà nước nên kiểm soát dòng vốn đồng thời thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát (CSMTLP) cũng phải lưu tâm tới một số vấn đề sau:
Một là, “Lựa chọn CSMTLP phải trên cơ sở sau một thời kỳ kiềm chế lạm phát thành công”. Điều này sẽ giúp tạo ra niềm tin của công chúng vào khả năng của NHTƯ trong việc thực thi các mục tiêu mình đã định ra cũng như tạo tiền đề cở sở cho việc kiểm soát lạm phát về sau. Còn việc sau bao nhiêu năm thì phải phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia cụ thể, khi thấy mình đã hội tụ đầy đủ những yếu tố có thể thực hiện thành công CSMTLP thì chính thức công bố. Bởi vì một khi đã công khai công bố thì phải bằng mọi cách đạt được, nếu không sẽ gây mất niềm tin với công chúng.
Hai là, “Chỉ số CPI và chỉ số lạm phát cơ bản – song song sử dụng”. Mặc dù như đã nói ở trên chỉ số CPI có nhiều ưu điểm nhưng một nhược điểm lớn là nó lại bao gồm cả những yếu tố khiến giá cả biến động trong ngắn hạn mà có thể nhanh chóng mất đi sau đó nên bên cạnh đó các NHTƯ đều sử dụng thêm chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng chỉ số này mới thể hiện bản chất xu hướng biến động của giá cả và giúp NHTƯ có thể nhìn nhận về tình trạng lạm phát chính xác hơn.
Ba là, “CSMTLP phải có tính linh hoạt cao”. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì các biến cố kinh tế, chính trị, xã hội biến đổi không lường, dẫn đến những phản ứng khác nhau của nền kinh tế vào từng thời kỳ, rất cần thiết phải cho NHTƯ những sự linh hoạt nhất định để họ có thể phản ứng lại các biến động này một cách có hiệu quả. Sự linh hoạt này có thể được thể hiện trên nhiều mặt:
- Mục tiêu được đặt trong một khung giá trị hơn là một con số cụ thể.
- Khung mục tiêu được đặt ra một cách từ từ tăng hoặc giảm theo thời gian để tránh gây sốc cho nền kinh tế.
- Mỗi mục tiêu có thời gian thực hiện tương đối dài, trong thời gian đó, vẫn có thể chấp nhận sự lệch ra khỏi mục tiêu một cách tạm thời.
Bốn là, “CSMTLP phải có sự công khai minh bạch và gắn liền với trách nhiệm cao của NHTƯ” Điều này có tác dụng là khi mà các chủ thể khác trong nền kinh tế biết được NHTƯ đang làm gì, CSTT đang ở đâu thì những sự dự tính của họ về các nhân tố có liên quan đến lạm phát sẽ gần hơn với những gì mà NHTƯ mong muốn và tỷ lệ lạm phát trong dài hạn sẽ rơi vào khung mục tiêu đã đặt ra. Các khía cạnh có thể đề cập đến:
- Bên cạnh các kênh thông tin chính thức phải chú ý quan tâm cả đến những kênh không chính thức (các bài tham luận, phát biểu, phát hành báo chí, trang web...)
- Gia tăng cam kết trách nhiệm của NHTƯ trong việc thực thi các mục tiêu đã đặt ra của CSTT.
Năm là, “CSMTLP không được phép xung đột với các chính sách kinh tế vĩ mô khác”. Ngoài CSTT, bất cứ quốc gia nào cũng còn phải thực hiện nhiều các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Việc đặt ra các chính sách chồng chéo và xung đột lẫn nhau tất sẽ gây ra những khó khăn cho các cơ quan chủ quản trong việc thực thi các chính sách này. Vì vậy ngay từ khi hoạch định chúng ta đã phải cố gắng làm sao cho các chính sách này không có xung đột với nhau mới tạo ra những thuận tiện trong quá trình thực hiện sau này.
Sáu là, “dự báo lạm phát - nhân tố góp phần trong thành công của CSMTLP”. Tất nhiên không phải bất cứ quốc gia nào cũng thực hiện dự báo lạm phát, và cũng không phải bắt buộc phải dự báo lạm phát mới đem đến thành công cho CSMTLP, nhưng có thể dự báo trước được những gì có thể xẩy ra cũng không phải là tồi. Nó sẽ góp phần giúp NHTƯ có được cái nhìn tốt hơn và không bị bất ngờ trước những gì mà mình sẽ phải đối mặt và vì thế đưa ra được những biện pháp ứng phó
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này, có thể rút ra được những vấn đề sau:
Thứ nhất: về bộ ba bất khả thi: Không thể có chính sách tiền tệ độc lập trong điều kiện cố định hay coi như cố định tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn được tự do. Hay nói cách khác, không thể giữ được ba góc của một chiếc khăn khỏi bung lên trong một chiều lộng gió chỉ bằng hai hòn đá.
Thứ 2: năm 2007, NHTW đã tham vọng muốn biến bộ ba bát khả thi thành bộ ba khả thi. Nhìn từ bên ngoài, có thể có đánh giá cho rằng, chúng ta đã áp dụng thành công. Nhưng, xét về dài hạn, đấy là những bước đi chưa chính xác.
Thứ 3: để tránh bộ ba bất khả thi, chính sách tiền tệ của VIệt Nam nên đi theo hướng: chính sách lạm phát mục tiêu vì thực tế đã cho thấy, con đường này khá phù hợp và mang lại kết quả tốt. tuy nhiên, cũng cần thận trọng và cân nhắc lựa chọn thời điểm cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, (2007) : Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ- NXB Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
PGS. TS Nguyễn Văn Tiến, (2008), Giáo trình tài chính tiền tệ ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội
PGS., TS. Nguyễn Văn Tiến - Vũ Hoàng Phương Quế, (2005), Chính sách mục tiêu lạm phát - kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Việt Nam
Nguyễn Ái Đoàn “Lạm phát - vấn đề kinh tế vĩ mô hàng đầu ở Việt Nam” Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 317 tháng 10/2004
TS.Phan Minh Ngọc, (2007), Bộ ba bất khả thi” không thể là “bộ ba khả thi”?, Tạp chí Người đại biểu của nhân dân, tháng 6/2007
Huỳnh Thế Du, (2007), Thị trường tiền tệ và “bộ ba bất khả thi”, Thời báo Kinh tế Sài gòn số tháng 6/2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_bo_ba_bat_kha_thi_6048.doc