Tiểu luận Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới

LỜI NÓI ĐẦU Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA .và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt em xin chân thành cảm ơn ! Mục lục LỜI NÓI ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1 1 Đặt vấn đề 2 2 Một số vấn đề chung về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế 3 2.1 Khái niệm hội nhập kinh tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3 2.2 Tại sao phải hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . 3 2.3 Nội dung của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . 4 2.3.1 Nguyên tắc của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . 4 2.3.2 Nội dung của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . 4 2.4 Thuận lợi, khó khăn và thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5 3 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và trên thế giới 8 3.1 Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . 8 3.1.1 Quan điểm: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8 3.1.2 Mục tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8 3.2 Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9 3.3 Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam . . . . . . . . . . . . . 9 3.3.1 Con đường hội nhập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9 3.3.2 Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á . . . 10 3.3.3 Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13 3.3.4 Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) . . . . . . . . . . . . . . . . 13 3.3.5 Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) . . . . . . 15 3.3.6 Hợp tác kinh tế quốc tế năm 2011 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22 KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 CÁC BƯỚC ĐI CỦA NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀO NỀN KINH TẾ KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI

pdf26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2172 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. 5 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới - Tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Khó khăn,thách thức 1. Cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụtiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập. 4. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực. 5. Để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trươn, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. 6. Hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, 6 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản. . . 7 Chương 3 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và trên thế giới 3.1 Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế khu vực và thế giới 3.1.1 Quan điểm: Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại, đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN; thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: - Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảovệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. - Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng. . . - Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. 3.1.2 Mục tiêu Bộ Chính Trịnh: " Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng 8 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 ". 3.2 Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội nhập. - Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật. . . - Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. . . tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 3.3 Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 3.3.1 Con đường hội nhập Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ quá nóng “ về mức độ %, thời hạn mở của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ. Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng 9 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết. Trước đó từ cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đến năm 2007 chúng ta đã chính thức gia nhập WTO sau khi bộ trưởng Trương Đình Tuyển đàm phán thành công vào năm 2006. 3.3.2 Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á Quá trình gia nhập Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc kí nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày1/1/1996 và sẽ kết thúc vào ngày 1/1/2006. Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm cao. Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN. Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN /AFTA/CEPT Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc...Cơ chế KHH tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ. Tuy nhiên cũng có một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu. 10 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phương án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được lựa chọn đối với Việt Nam là Việt Nam sẽ thực hiện AFTA trong khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những ngành có lợi thế . Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức độ khác nhau cho phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình độ phát triển nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế sản xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh. Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức riêng của nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi đó nếu hàng hoá của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, mặc dù ta là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Khi được hưởng thuế quan ưu đãi, kể cả sau khi đã nộp thuế nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan vẫn thấp hơn giá thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì người tiêu dùng với mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo Thái Lan để ăn. Và gạo của ta lúc đó chỉ còn là thị phần của những người có thu nhập thấp hoặc để xuất khẩu. Dấu ấn Việt Nam sau 15 năm gia nhập ASEAN Trong suốt chặng đường 15 năm qua, Việt Nam đã tham gia tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN cũng như trong việc xác định tương lai phát triển, phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác, nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Hiệp hội. Với mong muốn cùng chung tay xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng, Việt Nam và các thành viên khác của ASEAN đã vượt qua những khác biệt và tồn tại do lịch sử để lại, đẩy mạnh hợp tác toàn diện trên tinh thần hữu nghị và đoàn kết. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 được coi là bước khởi đầu quan trọng đối với tiến trình mở rộng và phát triển của ASEAN. Ngay sau khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Myanmar và Campuchia vào ASEAN, qua đó góp phần hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam Á, mở ra một trang mới của đoàn kết, hữu nghị và hợp tác ở khu vực. Có thể khẳng định rằng, sự hình thành ASEAN-10 là một trong những mốc phát triển quan trọng của Hiệp hội, tạo nền tảng thiết yếu cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương như ngày nay. Dấu ấn Việt Nam thể hiện khá đậm nét trong việc tổ chức những hoạt động quan trọng cũng như trong việc xây dựng các quyết sách lớn của ASEAN. Chỉ 3 năm sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã để lại trong lòng bạn bè ASEAN và quốc tế 11 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới những ấn tượng sâu sắc với việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 (Hà Nội, tháng 12/1998). Kết quả của Cấp cao ASEAN-6, nhất là việc thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020, đã giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997-1998. Tiếp đó, Việt Nam cũng đã đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN nhiệm kỳ 7/2000-7/2001, với kết quả ghi đậm dấu ấn Việt Nam là Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (7/2001), thể hiện nỗ lực thúc đẩy hợp tác và tăng cường liên kết khu vực, đảm bảo sự phát triển cân bằng và bền vững của Hiệp hội. Việt Nam cũng có nhiều đóng góp cụ thể quan trọng trong bốn lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN về chính trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và quan hệ đối ngoại. Đó là kết quả của sự tham gia tích cực và chủ động của các Bộ, ngành liên quan của ta, kể cả việc đăng cai tổ chức nhiều hoạt động quan trọng của ASEAN cũng như việc thúc đẩy các sáng kiến có giá trị. Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ASEAN chuyển sang giai đoạn mới, đó là hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với 3 trụ cột Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-xã hội, và hoạt động trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN. Vai trò tích cực và sự đóng góp quan trọng của Việt Nam được thể hiện rõ trong quá trình hình thành ý tưởng, hoạch định chính sách, xây dựng và triển khai các văn kiện cơ bản của ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng như Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II năm 2003, Chương trình hành động Vientian (VAP) năm 2004, Hiến chương ASEAN năm 2007, Lộ trình xây dựng Cộng đồng cùng với các Kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng, và Kế hoạch công tác IAI về Thu hẹp khoảng cách phát triển năm 2009. Năm 2010, Việt Nam lần thứ hai đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN kể từ khi gia nhập ASEAN. Với chủ đề xuyên suốt của năm Chủ tịch ASEAN 2010 là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”, Việt Nam đang nỗ lực hết mình trong vai trò điều phối, thúc đẩy các hành động và biện pháp hợp tác cụ thể nhằm triển khai hiệu quả Lộ trình xây dựng Cộng đồng và Hiến chương ASEAN, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên Đối tác, củng cố và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong các tiến trình hợp tác khu vực và trong bối cảnh một cấu trúc khu vực đang định hình. Thành công của Hội nghị Cấp cao ASEAN 16 (Hà Nội, tháng 4/2010) và của các Hội nghị cấp Bộ trưởng mà gần đây nhất là Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 43 và các Hội nghị liên quan (Hà Nội, tháng 7/2010) là minh chứng sinh động cho các nỗ lực của Việt Nam trong việc đẩy mạnh hành động hướng tới mục tiêu Cộng đồng ASEAN. 12 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới 3.3.3 Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kĩ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện cônh khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức. 3.3.4 Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) Trên lĩnh vực kinh tế thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát triển và mở rộng trong những năm gần đây, sau khi Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990. Sau 20 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 11/1990, quan hệ Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã có những bước phát triển nhanh chóng và vững chắc. Ngày nay, EU là đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. EU: đối tác thương mại hàng đầu Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh cho rằng, sau 20 năm thiết lập quan hệ, thương mại song phương là lĩnh vực đạt tiến bộ nổi bật. EU nhanh chóng trở thành đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều tăng nhanh từ 1,5 tỷ USD năm 1995 lên mức kỷ lục 16,2 tỷ USD vào năm 2008, vượt mức định hướng 15 tỷ USD đặt ra cho năm 2010 trong Đề án tổng thể về phát triển quan hệ Việt Nam – EU đến năm 2010 và định hướng cho năm 2015, nghĩa là đã hoàn thành kế hoạch định hướng trước 2 năm. Năm 2009, dù kinh tế thế giới khủng hoảng, nhưng kim ngạch thương mại giữa hai bên vẫn đạt 15,2 tỷ USD. 9 tháng năm 2010, Việt Nam xuất khẩu 7,8 tỷ USD vào EU, tăng 13% so với cùng kỳ trong khi nhập khẩu từ EU đạt 5 tỷ USD, tăng 26,2. EU là thị trường lớn cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như may mặc, hải sản, giầy dép, cà phê, đồ gỗ. Hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ EU là máy móc thiết bị, tân dược, sắt thép các loại, sản phẩm hóa chất, dụng cụ quang học và phương tiện vận tải. Xét cán cân thương mại song phương, Việt Nam luôn là bên xuất siêu. EU - Nhà đầu tư lớn Tính đến ngày 20/10/2010, với 1.036 dự án, tổng vốn đăng ký xấp xỉ 16 tỷ USD, EU đang là một trong các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. 13 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào ngành công nghiệp và xây dựng (chiếm 52% số dự án và khoảng 59% tổng số vốn đầu tư), trong đó công nghiệp nặng khoảng 40% số dự án, tổng vốn đầu tư 6 tỷ USD, tiếp theo là khai thác dầu khí với gần 20 dự án và 2,4 tỷ USD vốn đầu tư. Do có ưu thế về công nghệ, các nhà đầu tư EU đã góp phần tích cực trong việc tạo ra một số ngành mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao. Hiện, các tập đoàn lớn của EU đều đã có mặt tại Việt Nam và đang hoạt động hiệu quả như Shell (Anh), Siemens (Đức), Alcatel (Pháp), BP (Anh), Total Elf Fina (Pháp), Daimler (Đức). . . Thời gian gần đây, dù vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao nhưng đầu tư từ EU đã có xu hướng quan tâm hơn tới các ngành dịch vụ như viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ. . . Bên cạnh thương mại và đầu tư, EU còn là đối tác quan trọng và là một trong những nhà tài trợ lớn nhất về hỗ trợ phát triển cho Việt Nam với các lĩnh vực chủ yếu như y tế, giáo dục, văn hóa, bảo vệ môi trường, chuyển đổi nền kinh tế, cải cách hành chính và xóa đói giảm nghèo. Từ năm 1993 đến năm 2009, tổng cam kết ODA của Ủy ban châu Âu và các nước thành viên EU dành cho Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ USD, trong đó giải ngân được gần 5 tỷ USD. Năm 2010, tổng ODA cam kết của EU là 1,05 tỷ USD. Triển vọng hợp tác Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh: Hiệp định đối tác, hợp tác toàn diện (PCA) vừa được ký kết vào ngày 4/10/2010, tạo ra một khuôn khổ mới, dài hạn và toàn diện cho quan hệ Việt Nam – EU. PCA sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hai bên có thể khai thác được tốt hơn lợi thế so sánh và bổ sung lẫn nhau. Nhiều lĩnh vực EU có thế mạnh như cơ khí, chế tạo, giao thông vận tải, hoá chất, dược phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao trong khi Việt Nam có nhu cầu lớn nhưng khả năng đáp ứng trong nước còn hạn chế. Đồng thời, nhiều mặt hàng Việt Nam có lợi thế, có thể đáp ứng nhu cầu nhập khẩu lớn của EU như cao su nguyên nhiên liệu, thủ công mỹ nghệ, giày dép, may mặc, thuỷ hải sản, cà phê, chè, hạt tiêu. . . Đặc biệt, PCA đã tạo tiền đề để có thể đi đến một Hiệp định tự do thương mại song phương (FTA) và hiện nay hai bên đang tham vấn để sớm chính thức tiến hành đàm phán hiệp định này. Việc đàm phán và ký kết FTA sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh tế, thương mại cho cả hai bên. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn khi vào thị trường EU; đồng thời tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam cũng tăng lên đối với các nhà đầu tư EU. Đại sứ Sean Doyle cho rằng, việc Việt Nam và EU hướng tới đàm phán FTA với phạm vi đàm phán toàn diện nhằm tác động đến quy mô, dòng chảy thương mại giữa hai bên, là yếu tố bắt buộc mang tính tiêu chuẩn. EU vẫn tiếp tục là đối tác hết sức quan trọng, là thị trường then chốt của Việt Nam trong những năm tới đây và ngày càng trở nên quan trọng hơn sau khi Hiệp định này được ký kết. 14 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới 3.3.5 Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) Tại sao Việt Nam phải gia nhập tổ chức WTO - Xuất phát từ mục tiêu của WTO là thúc đẩy tự do hoá thương mại, "luật chơi " cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan (hạn ngạch, cấp phép xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường, tạo " sân chơi " bình đẳng cho các doanh nghiệp, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. . . ), Việt Nam gia nhập WTO đạt được lợi ích lớn nhất là thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam được mở rộng. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sẽ được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn bị vướng nhiều rào cản về thuế quan và hạn ngạch như hiện nay. - Gia nhập WTO, Việt Nam đạt được bình đẳng thương mại. Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại khu vực và song phương, nhưng hàng hoá Việt Nam vẫn bị đối xử không công bằng (Mỹ áp dụng biện pháp trừng phạt về vấn đề cá da trơn và tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ. EC áp thuế bán phá giá đối với sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam. Pê-ru đang tiến hành điều tra bán phá giá đối với sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam. . . ). Nếu không được luật lệ của WTO bảo vệ thì Mỹ và các nước khác có thể lại kiện Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam như hàng dệt may. Việt Nam gia nhập WTO để sử dụng luật lệ và cơ chế hoạt động của tổ chức này nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng nói chung, của doanh nghiệp và người lao động Việt Nam nói riêng. - Luật lệ của WTO, về lý thuyết, sẽ tạo thuận lớn cho Việt Nam mở rộng thâm nhập thị trường các nước, tranh thủ vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tham gia thiết lập các "luật chơi" mới, xử lý các tranh chấp thương mại, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. - Với Việt Nam, WTO là một phương tiện để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế nước ta còn phụ thuộc đáng kể vào nền kinh tế thế giới vào vốn nước ngoài (cả ODA và FDI) chiếm khoảng 30% tổng của cải xã hội; kim ngạch xuất khẩu chiếm trên dưới 60% trị giá GDP. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tranh thủ nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển, kích cầu tiêu dùng trong nước. - Nếu Việt Nam không sớm gia nhập WTO sẽ bỏ lỡ cơ hội quan trọng vì càng để chậm sẽ càng khó khăn hơn do các quy định và điều kiện gia nhập WTO sẽ ngày càng chặt chẽ, yêu cầu ngày càng cao hơn và thương mại Việt Nam trên thị trường thế giới sẽ chịu nhiều thua thiệt, thị phần của Việt Nam trên thị trường thế giới khó mở rộng, cơ hội làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam khó khăn hơn. - Gia nhập WTO sẽ góp phần nâng cao uy tín thương mại quốc tế của Việt Nam. Các nước thành viên WTO sẽ nhìn nhận Việt Nam đủ năng lực, và các điều kiện tham gia " sân chơi " chung phù hợp xu thể toàn cầu hoá. Quá trình đàm phán Chúng ta đã đàm phán 11 năm với hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa phương (14 phiên), song phương (28 đối tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước chậm nhất (13 phiên). 15 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Đây là số lượng nhiều nhất trong đàm phán của Việt Nam với các tổ chức quốc tế (với ASEAN chúng ta mất 2 năm, Hiệp đinh thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chúng ta mất 4 năm). Sở dĩ chúng ta đàm phán dài như thế chỉ với mục đích sớm gia nhập WTO. Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn: 1. Đây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 2. Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu tư. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có năm 19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5 tỷ USD. So với các nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ: Thí dụ: so với Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ bằng 1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so với Philippines, chúng ta bằng 2/3. Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở lên, nhập khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ. Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không được hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu được. Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu gia nhập WTO, chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta mới dỡ bỏ được rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên WTO. 3. Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật. 4. Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật và pháp lệnh. Chúng ta sẽ quyết tâm làm bằng được. Quốc hội sẽ dành ưu tiên để trong các phiên họp dành thời gian xây dựng các luật, coi đây là việc trọng tâm của Quốc hội (năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm 2006 sửa và xây mới 10 luật). Trong toàn bộ các luật và pháp lệnh mà chúng ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới là 25 luật và pháp lệnh, thì chúng ta đã làm xong 24 luật và pháp lệnh. Còn một văn bản luật, chúng ta đang trong quá trình soạn thảo, dự kiến phiên tháng 10-2006 sẽ hoàn thành. Vậy, Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO. 16 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Để đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi 100 luật. Như vậy số văn bản phục vụ đàm phán gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số văn bản phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Điều đó thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ban công tác, các thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam qua việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời gian vừa qua. Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của Thế giới và nó sẽ ổn định. Chính vì điều đó mà đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với năm 2004, sáu tháng đầu năm 2006 tiếp tục tăng.Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore. . . nhất là dự án lớn bắt đầu vào Việt Nam, kể cả công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo thống kê của WTO, trên thế giới có khoảng 70 nghìn công ty đa quốc gia, chiếm 1/3 thương mại toàn cầu. Các nước đều muốn các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước mình, vì họ có công nghệ, vốn, thị trường toàn cầu. Không phải họ đầu tư vào một nước là họ vào thị trường nội địa của nước đó, mà họ còn tính cả thị trường khu vực, toàn cầu. Nơi nào có lợi thế hơn sẽ đầu tư vào và xuất khẩu đi các nước khác ở khu vực. 5. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu. Xu hướng trong WTO, lần đầu trong hội nghị Hồng Công vừa qua đã đề cập công tác bình đẳng và cân bằng thương mại giữa các thành viên của WTO. Yêu cầu các nước phát triển mở cửa thị trường hàng nông sản, bỏ trợ cấp xuất khẩu để tạo cho thương mại toàn cầu phát triển bền vững và tạo điều kiện cho thương mại phát triển công bằng và không bị bóp méo. 6. Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong WTO là dễ thực thi hơn. Thí dụ, một nước A áp thuế chống bán phá giá với một nước thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD, khi WTO giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá không đúng, yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức 100 triệu USD. Do vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ thực hiện hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án. Gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi. Chúng ta càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ có điều mức độ chúng ta sẽ được giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây, năm 1990 chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu 2,4 tỷ USD, nay chỉ trong một tháng, chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến mức xuất khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng chúng ta đạt kim ngạch xuất 17 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khẩu gần 10 tỷ USD. Như thế, mức độ chúng ta tham gia thị trường thế giới càng tăng, thì các tranh chấp quốc tế về thương mại cũng tăng. Gia nhập WTO không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có điều chúng ta không bị phân biệt đối xử nữa. Đàm phán song phương Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song phương. Đa phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Đi đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô về đa phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định của WTO khi chúng ta gia nhập. Chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không đúng với quy định của WTO: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa hóa. . . Các trợ cấp mà WTO cho phép chúng ta vẫn thực hiện: trợ cấp liên quan xúc tiến thương mại; đầu tư, du lịch, nâng cao chất lượng hàng hóa, cước phí vận tải. . .Một vấn đề quan trọng của vòng đàm phán Doha đó là vấn đề trợ cấp hàng nông sản. Việt Nam là nước rất đặc biệt, đất chật, người đông. Khi đàm phán với Australia thì thấy một hộ của họ có đến 200 ha. Còn bình quân đất canh tác Việt Nam chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, Việt Nam lại có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới. Đây là một sự thật: gạo (có lúc xếp thứ 2 thế giới, có lúc thứ 3 thế giới); cà phê (đứng thứ 2 thế giới); tiêu(số 1 thế giới); điều(số 2 thế giới); chè (xếp thứ 8 thế giới), hải sản, thủy sản cũng được xếp 8, 9 thế giới. Đây là trường hợp rất đặc biệt của thế giới. Cho nên, trong đàm phán song phương, nhiều nước Mỹ latinh yêu cầu đàm phán là vì thế. Họ cho rằng, Việt Nam có mặt hàng nông sản tràn ngập thị trường thế giới, làm cho các nước Mỹ latinh gặp khó khăn, nhất là cà phê. Trước đây, giá cà phê rất cao, bây giờ chỉ còn hơn 1.000 USD/tấn, trong đó có sự tham gia của Việt Nam và nhiều nước khác. Giá trị của một cốc cà phê không đổi. Chỉ có lợi nhuận chuyển từ người trồng cà phê sang người chế biến và tiêu thụ cà phê. Chính vì thế, Việt Nam phải làm thế nào tăng giá trị vào hàng xuất khẩu của mình. Muốn vậy, chế biến chiếm vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta bán 1kg cà phê, tại hội nghị Hồng Công, báo chí viết giá 1kg cà phê là 1USD. Nhưng khi chế biến 1 kg cà phê để bán cho người tiêu dùng cho vào cốc cà phê, thì giá sẽ lên tới 600 USD. Tất nhiên còn nhân công, vốn. . . Chúng ta thấy tại sao cà phê Trung Nguyên phát triển, vì họ tham gia vào chế biến, phân phối tiêu thụ, cho nên lợi nhuận siêu ngạch nằm trong đó. Đó là phần quan trọng. Việt Nam khi đàm phán đa phương, chúng tôi lại phải đàm phán cả vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam canh tác lạc hậu, nhưng lại xuất khẩu được nhiều. Đây là một xu hướng mà tất cả các nước vừa qua đều phải bỏ trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập đối với hàng nông sản. Chúng ta cũng phải chấp nhận xu hướng này. Nhưng, 10% đối với hộp xanh (trợ cấp trong nước) thì Việt Nam vẫn được hưởng đầy đủ. Nhưng, đối với Trung Quốc (vì Trung Quốc phát triển hơn Việt Nam) nên mức cam kết của Trung Quốc là 8%. Mức 10%, lâu nay chúng ta sử dụng rất ít. Chúng ta bỏ trợ cấp xuất khẩu, nhưng chúng ta chuyển tiếp vào cho người nông dân, người sản xuất và chế biến nông sản, không trợ cấp vào xuất khẩu nữa. 10% đối với ngành nông nghiệp Việt Nam vào khoảng 11 tỷ 18 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới USD. Nên nếu 10% chúng ta có 1,1 tỷ USD/năm, để phục vụ hỗ trợ cho nông dân trong nước, mức đó bảo đảm nền nông nghiệp ổn định phát triển trong tương lai. Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện. Còn đối với trợ cấp trong các lĩnh vực khác liên quan dệt may, chúng ta có Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ. Khi những người dịch lại cho các cơ quan nước ngoài, phiên dịch không chuẩn. Trong Quyết định số 55, chúng ta nói hỗ trợ các doanh nghiệp để sản xuất hàng dệt và may để xuất khẩu. Nhưng, từ hỗ trợ không có nghĩa là cho không (nhiều người dịch là subsidize - cho không) dẫn đến có sự hiểu lầm. Chúng ta chỉ hỗ trợ vay vốn, Nhà nước chỉ hỗ trợ chênh lệch giữa lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi, tổng những cái đố chỉ có 5 triệu USD. Khi đàm phán với Hoa Kỳ, phía họ nói Việt Nam trợ cấp 4 tỷ USD cho ngành dệt may. Khi chúng ta chứng minh đầy đủ số liệu, đoàn Hoa Kỳ mới cho là đúng. Thứ nhất, vấn đề cấp phép, Việt Nam cấp phép cho tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực dệt may. Thứ hai, chênh lệch, Việt Nam chỉ ưu đãi về lãi suất, trong thời gian qua chỉ có năm triệu USD, như vậy không phải lớn. Nhưng, để thực hiện đàm phán với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ Quyết định 55. Hoa Kỳ sẽ bỏ hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam. Khi bỏ hạn ngạch dệt may của Hoa Kỳ, thì EU và Canada đã bỏ hạn ngạch cho chúng ta từ năm 2005. Khi gia nhập WTO, toàn bộ dệt may không bị hạn ngạch nữa. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta cũng phải bỏ một số quy định cấm: nhập khẩu thuốc lá điếu, ô-tô đã qua sử dụng, linh kiện liên quan máy tính. Trên thực tế, cấm nhập ô-tô đã qua sử dụng đã bỏ rồi, vấn đề hiện nay là thuế, làm thế nào bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Tài chính đang tiếp tục làm để xử lý vấn đề thuế, vì đây cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta một mặt cần bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đồng thời cũng cần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Phải cân đối hai lợi ích này, chứ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của người sản xuất, mà không chú ý đến lợi ích của người tiêu dùng. Đàm phán song phương cơ bản chúng ta đã kết thúc với 28 đối tác. Trong đàm phán song phương, Việt Nam đưa ra bản chào số 4, chào đến 99% số biểu thuế. Thí dụ, đàm phán với Hoa Kỳ, tổng số dòng thuế là 9.400 dòng thuế. Còn với các nước, tùy thuộc, có nước 3.000, có nước 5.000, có nước chỉ là 200 dòng thuế. Tùy theo yêu cầu của các nước, biểu 4 chúng ta đã chào mức thuế tương đương với 18% số hàng công nghiệp, nông nghiệp. Từ đó, chúng ta đi đến đàm phán. Trên cơ sở đó chúng ta cơ bản đã kết thúc. 19 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Mức thuế trung bình hàng nhập khẩu, hàng nông sản và hàng công nghiệp khoảng xấp xỉ 14%. So với Trung Quốc, khi gia nhập, cam kết mức trung bình 10,4%. Kinh tế Việt Nam mức phát triển thấp hơn Trung Quốc. Cho nên, mức chúng ta cam kết chênh với Trung Quốc là hợp lý. Trong đàm phán, Oxfarm (một tổ chức phi chính phủ) hỏi, như vậy thì ngành nông nghiệp của Việt Nam liệu có tồn tại và phát triển được không? Hàng hóa sẽ tràn ngập vào thị trường Việt Nam có phải không? Xem chi tiết từng hàng, báo cáo Chính phủ thông báo lại cho các doanh nghiệp. Nhìn tổng thể thấy hàng hóa không tràn ngập, sẽ có nhập khẩu tăng. Chúng ta đã trải qua thử thách trong thị trường mậu dịch tự do ASEAN, mức thuế có lộ trình xuống 0-5%, chúng ta thực hiện lộ trình sát AFTA rồi, nhưng tới bây giờ thị trường có tràn ngập hàng hóa của ASEAN đâu. Gia nhập WTO, thuế chúng ta đang từ mức 18%, giảm xuống 4% nữa, còn khoảng 14%. Như vậy, không có chuyện đó, và xuống đến mức đó thì chúng ta thôi. Trong đàm phán gia nhập WTO, một trong những nguyên tắc khó khăn nhất chúng ta phải vượt qua là để các nước hiểu thực tế Việt Nam và công nhận Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Ở Việt Nam có một nghịch lý, thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 1.000 USD/năm, trong lúc WTO quy định những nước kém phát triển là nước có thu nhập dưới 1.000 USD. Nhưng, Việt Nam không được xếp vào nước kém phát triển, vì khi Liên hợp quốc công nhận Việt Nam là nước đang phát triển có cộng thêm các tiêu chí về y tế, văn hóa, giáo dục, nên mới xếp Việt Nam là nước đang phát triển. Về kinh tế thu nhập chúng ta thấp. Cho nên, chúng ta phải thương lượng để được công nhận ở trình độ thấp. Hai là, nền kinh tế của chúng ta có thời kỳ chuyển đổi, nên có lộ trình giảm thuế, lộ trình chuyển đổi thị trường. Lộ trình giảm thuế lấy mức thuế hiện hành bắt đầu giảm trong vòng 3-5 năm sẽ xuống mức 14%. Tất nhiên, từng mặt hàng có mức cắt giảm khác nhau: xe máy phân khối lớn theo lộ trình chúng ta cắt xuống còn 45% (hiện nay 60%); ô-tô tùy loại mức cắt giảm xuống còn 52% hoặc 47% hoặc 50%. Chúng ta áp mức thuế bảo hộ cho ngành ô-tô, xe máy khá cao. Cho nên trên thực tế mức đó không phù hợp lắm, nếu chỉ bảo vệ cho người sản xuất, thì người tiêu dùng Việt Nam hiện nay chịu mức giá ô-tô cao nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta phải giảm thuế, một mặt phải bảo vệ người sản xuất, mặt khác phải cân đối lại lợi ích của người tiêu dùng. Hơn nữa, thực tế các tập đoàn đa quốc gia phân vùng, phân khu vực thành thị trường, cho nên đó cũng là điều kiện. Một số ngành sản xuất trong nước của Việt Nam hiện nay cũng đã phát triển. Cho nên, những ngành đó trong thời gian qua đã thay thế được phần lớn các mặt hàng lâu nay vẫn nhập khẩu. Khi chúng ta mở cửa thị trường, các nhà sản xuất trong nước có sản phẩm rồi. Muốn hay không họ phải giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như thế, chúng ta sẽ có điều kiện đó. Thí dụ, phân đạm chúng ta đã có nhà máy phân đạm, nếu thuế có cao thì nhà máy phân đạm trong nước đã có khả năng cung cấp cho thị trường. Toàn bộ ngành bia, có mở nữa cũng coi như toàn bộ các công ty bia của Việt Nam vẫn cạnh tranh được; hoặc vật liệu xây dựng, xi-măng, thép (chủ yếu thép xây dựng, bắt đầu có đầu tư thép cao cấp), điều kiện kinh tế của Việt Nam bây giờ đã khác xa so với cách đây 15 năm. 20 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Đối với nông nghiệp, các nước thành viên cũ, mức thuế nông nghiệp khoảng 22%. Nhưng xu hướng các nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều hơn để gia nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải mất vài chục năm đấu tranh từ GATT để có thành quả như bây giờ. Các nước mới gia nhập nhiều hay ít đều phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm thuế. Nhưng, tổng thuế với nông nghiệp, Việt Nam có lợi thế là có nhiều mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu. Đã xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế giới. Chúng ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bò, thịt lợn là các mặt hàng từ chăn nuôi đơn lẻ, chưa có theo hình thức trang trại. Cho nên, trong đàm phán rất khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò Việt Nam phần lớn là bò cóc, mỗi hộ nuôi 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh tranh không cao. Giống bò của Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu, phần trợ cấp của Nhà nước trong lĩnh vực này hầu như không có. Các nước cũng thấy được khó khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5% so với mức thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tôi cũng nói thẳng đàn bò cóc Việt Nam chết, không tồn tại. Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển, mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ không phải mở theo bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng, các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm phán với Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bò và thịt lợn, thuế nông nghiệp. Chúng tôi phải chấp nhận điều kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với Australia và New Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều chỉnh. Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước đều hưởng mức thuế như nhau. Cuối cùng Ban Thư ký sẽ tổng hợp lại. Đàm phán song phương là những cuộc đàm phán căng thẳng. Tất cả các đối tác yêu cầu đàm phán đông vì các lý do: họ cho rằng Việt Nam là một thị trường tương lai hứa hẹn, vì Việt Nam có số dân đông thứ 13 thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ hơn 30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực. Đây là điều các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Có thể nói, thương mại Việt Nam những năm qua tăng liên tục nhưng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chưa phải là lớn lắm. Thí dụ, năm 2005 kim ngạch cả xuất, nhập khẩu mới đạt hơn 60 tỷ USD. Nếu riêng xuất khẩu mới khoảng hơn 30 tỷ USD, chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Đàm phán các nước thống nhất như vậy, nhưng nhìn vào tương lai, nhiều nước đòi hỏi được đàm phán. Khi chúng ta đàm phán với Trung Quốc, chúng ta tưởng giữa Việt Nam - Trung Quốc đã có Hiệp định tự do thương mại trong ASEAN, nên không cần đàm phán nữa, nhưng với Trung Quốc vẫn phải đàm phán 10 phiên, rất nhiều phiên căng thẳng, đàm phán suốt đêm, nhiều vấn đề căng: mở du lịch, ngân hàng phụ, mở vận tải đường bộ, nhưng sau đó, chúng ta thấy khi đàm phán phải dựa vào quy định của WTO. Chúng ta thấy về vấn đề đường bộ, trong WTO chưa phát triển, hầu như chưa nước nào cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp nhận. 21 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Đặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa dạng hơn. Đàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Vì vậy, để có được PNTR, Hoa Kỳ yêu cầu chúng ta phải có đủ BTA, gia nhập WTO. Hiện nay, chúng ta làm xong cả hai nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam thực hiện đầy đủ BTA, đồng thời kết thúc đàm phán về gia nhập WTO. Đó là điều kiện để trình PNTR, chúng ta đang tích cực vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Việt Nam mới được hưởng thuế phổ thông, chưa được hưởng thuế ưu đãi GST. Hoa Kỳ dành cho 72-74 nước được hưởng GST không có Việt Nam, cho nên, gia nhập WTO là cơ hội cho chúng ta trong một số vấn đề mà chúng em nêu. Kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ có người nói chưa hài lòng, có người nói được nhiều, có người nói được ít. Chúng ta thống nhất đây là đàm phán mà hai bên đều giành thắng lợi. Trên thực chất, các nhà đàm phán luôn như thể no bụng đói con mắt, thường đòi những điều kiện cam kết rất cao, nhưng nhà doanh nghiệp không cần cái đó. Nhà doanh nghiệp miễn có lợi là làm. Cam kết có cao mấy mà không có lợi thì vẫn không vào. Đó là sự khác nhau giữa nhà đàm phán và doanh nghiệp. Thí dụ đòi mở ngân hàng như thế chúng ta đã cho chi nhánh 100% vốn, nhưng ngân hàng Mỹ vì chiến lược phát triển của họ nên rút, không ở Việt Nam. Giữa cam kết của nhà đàm phán với doanh nghiệp có khoảng cách. Nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ mà giành được PNTR, quỹ OPEC, quỹ hỗ trợ ngân hàng EXIMBANK mới hoạt động mạnh. Khi đó quan hệ đầu tư của các nhà đầu tư lớn, xuất khẩu của Hoa Kỳ mạnh hơn. Kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới. 3.3.6 Hợp tác kinh tế quốc tế năm 2011 Việt Nam luôn mong muốn tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. 22 KẾT LUẬN Việt Nam hội nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư. . . làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn, thử thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe doạ đến sự tồn tại của một số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hoá của một quốc gia. . . Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình. Trái lại, chúng ta " hoà nhập chứ không hoà tan ", các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập hơn nữa. Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tốt trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước. 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Website báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam 2. Website 3. Văn kiện Đại hội Đảng VII , VIII, IX. 4. Nguyễn Luyện: " Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới " (Tạp chí xây dựng số 6 - 2000). 5. Lênin: " Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản toàn tập – tập 27 " 6. Nguyễn Thanh Mai: " Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt Nam trước thiên niên kỉ mới " (Thương mại số 7 - 2000). 7. Phạm Bình Mân: " Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thánh thức " (Tạp chí công nghệ Việt Nam số 3 - 2001). 8. Phạm Thị Tuý: " Toàn cầu hoá và những tác động " (Nghiên cứu kinh tế số 290 – tháng 7/2002). 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_dlcm_3667.pdf