Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên quá trình xuất khẩu này vẫn nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra, thì ngoài sự trợ giúp của nhà nước, các doang nghiệp dệt may Việt nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện mình hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt may Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản, dể xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước.
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩu hàng dệt may Việt Nam chiếm 0,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, cụ thể là : năm 1996 đạt 405,8 triêu USD, năm 1997 đạt 436,1 triệu USD, năm 1998 lên đến 578,7 triệu USD và năm 1999 là 658,7 triệu USD.
Qua các số liệu trên ta thấy giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU luôn tăng lên nhanh chóng nhưng thị phần chiếm lĩnh được lại quá nhỏ bé. Một phần là do hàng dệt may phải chịu mức hạn ngạch quá thấp và EU lại không coi Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường nên hàng Việt Nam còn chịu sự phân biệt đối xử so với hàng của các nước khác khi EU xem xét áp dụng các biện pháp chống phá giá. Mặt khác là còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng các công ty may vẫn chưa sản xuất vì họ đòi hỏi rất cao về chất lượng, mẫu mã trong khi đó yêu cầu về trang thiết bị để sản xuất chủng loại hàng này hầu như không đáp ứng được, trình độ công nhân lành nghề chưa cao sản xuất không đúng theo các chỉ số tiêu chuẩn đề ra cũng như khả năng sử dụng và vận hành máy móc có hiệu quả.
Chính vì vậy mà chất lượng còn non kém và không thâm nhập được sâu hơn vào thị trường này. Đây thực sự là vấn đề nan giải đối với các công ty may trong việc mở rộng tiếp cận sâu hơn thị trường này.
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU
Đơn vị: triệu USD
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
161
250
285
350
420
450
620
700
750
(Nguồn: Tổng công ty Vinatex)
Kim ngạch xuất khẩu sang từng nước trong Liên minh Châu Âu
Mặc dù là cùng thuộc khối EU song từng thành viên trong khối lại có những tập quán, quan niệm riêng vì thế điều này gây tác động lớn trong việc tiêu dùng hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng. Nếu như ở Đức họ quan tâm đến giá cả thì ở Pháp họ không chỉ quan tâm đến giá mà còn quan tâm đến kiểu dáng, thời trang của sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của họ quan tâm đến nhãn mác. Người Anh thì lại đặc biệt quan tâm đến chất lượng, đây là yếu tố để quyết định giá cả... Chính vì vậy, mặc dù hàng Việt Nam sản xuất là như nhau song mức độ xuất khẩu sang từng nước trong khối lại có mức chênh lệch lớn. Cụ thể là hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40% năng lực của mình tại thị trường EU trong đó các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40-50%), Pháp (12-14%), Hà Lan (10-13%), Anh (7-9%), Italia (6-7%), Bỉ (4-5%)...
Như vậy với các số liệu trên chứng tỏ rằng nhu cầu tiêu dùng của thị trường này là lớn song do những khó khăng gặp phải của các công ty dệt may về giá cả, chất lượng, mẫu mã nên khả năng đáp ứng chưa cao. Do chất lượng chưa được ổn định, đôi khi không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp EU, như hàng vẫn còn những tạp chất, các vết bẩn trên sản phẩm hàng dệt, ngoài ra còn nhiều hoạt động xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam không đảm bảo đúng các quy định trong hợp đồng về quy cách kỹ thuật, số lượng, thời gian vận chuyển. Do vậy cũng làm giảm đáng kể mức lưu chuyển hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Bảng 7: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước trong EU
Đơn vị: triệu USD
Quốc gia NK
Năm 1997
Năm 1998
6 tháng/1999
Đức
Pháp
Anh
Hà Lan
Bỉ
Italia
Tây Ban Nha
Thuỵ điển
Đan mạch
áo
Phần Lan
Bồ đào nha
165
32
32
43
18
27
14
11
6
236,288
68,433
47,152
51,107
24,358
30,274
25,03
12,674
10,913
3,3046,2
0,639
144,2908
43,2813
25,969416,2176
22,7243
11,9178
13,856
6,9008
2,2133
3,0624
1,3174
0,1573
(Nguồn : Tổng cục Hải quan)
f) Chủng loại hàng may mặc được tập trung xuất khẩu.
Trong các chủng loại hàng may mặc x.uất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ dàng, các mã hàng nóng như: áo jacket, áo sơmi, áo váy... Cụ thể tỷ trọng xuất khẩu sang EU là: jacket (51,7%), áo sơmi (11%), quần âu (5%), áo len và áo dệt kim (3,9%), quần áo (3,5%), T Shirt và Polo Shirt (3,4%), quần dệt kim (2,7%), bộ quần áo bảo hộ lao động (2,1%), áo khoác nam (1,8%) và áo sơmi nữ (1,4%)-Nguồn: Bộ thương mại .
Trong đó đặc biệt loại được xuất khẩu chủ yếu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU là mặt hàng áo jacket 2 hoặc 3 lớp. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu chiếc, tăng gần 5 triệu chiếc (hay 72%) so với năm 1993, chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU.
g) Hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng 80%), vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thông qua các thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường là nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này đã tạo nên sự bất cập đối với các công ty dệt may Việt Nam, bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt động sản xuất của mình về mẫu mã, chủng loại. Đặc biệt là gía cả được trả rất thấp, điều đó làm khả năng kinh doanh lợi nhuận không cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có thì chất lượng thấp, khả năng sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy nó sẽ luôn tạo nên một vòng luẩn quẩn cho các công ty dệt may Việt Nam.
h. Cạnh tranh với một số nước trong khu vực trên thị trường EU
Với tư cách là một nhà xuất khẩu mới còn non trẻ hơn nữa lại chưa phải là thành viên của WTO nên bị hạn chế hạn ngạch theo các hiệp định song phương, chịu mức thuế suất nhập khẩu cao... Vì thế thị phần của Việt Nam ở thị trường EU còn rất nhiều bất cập và nhỏ bé chỉ chiếm 0,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may của EU
Các quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực sản xuất lại được ưu đãi về hạn ngạch đã chiếm tỷ trọgn khá lớn vào các thị trường quan trọng như: Trung Quốc, Hồng Kông, Macao chi phối 11,6% giá trị hàng dệt may nhập khẩu của EU, các nước Đông á có 6% thị trường nhập khẩu hàng dệt may ở EU và Đông Nam á chiếm 4,1% ở EU.
III-Thành công, hạn chế và nguyên nhân của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
1. Thành công
a) Kim ngạch xuất khẩu luôn tăng.
Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam với EU có hiệu lực (1/1/1993) kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã tăng từ 250 triệu USD năm 1993 lên gần 700 triệu USD năm 1999 và dự kiến năm 2000 đạt khoảng 700 triệu USD, tăng 16% và chiếm 36,8% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Các mặt hàng đa dạng hơn và chất lượng được đảm bảo hơn.
Từ trước đến nay, dường như EU không có thông lệ đàm phán giữa chừng vì Hiệp định cũ đến năm 2001 mới hết hạn, nhưng việc EU ưu tiên trong đàm phán mở rộng thị trường với Việt Nam trong thời điểm hiện nay cho thấy EU đánh giá cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Thay Hiệp định mới, các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu được nhiều hơn như T Shirt, Polo Shirt, áo len, áo khoác nữ, quần thể thao... với hạn ngạch cho năm 2000 của từng mặt hàng tăng từ 13-70% so với hạn ngạch năm 1999.
Tăng uy tín, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường.
Việc EU tăng khoảng 30% hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2000-2002 cũng chứng tỏ uy tín của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường này là đáng kể. Vì vậy từ đây khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào từng nước trong thị trường này ngày càng nhiều và hiệu quả hơn, cụ thể các nước này đánh giá cao quan hệ làm ăn, ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp may Việt Nam và độ tin cậy cao về việc giao hàng đúng thời hạn, đúng chất lượng, mẫu mã. Do vậy hàng dệt may Việt Nam đã dần chiếm tỷ trọng nhập khẩu vào EU nhiều hơn, mở rộng thêm thị trường hơn như đang và sẽ thâm nhập vào thị trường Ailen và Hilạp.
Hệ thống máy móc thiết bị từng bước được cải tiến quy mô được mở rộng.
Ngành dệt may đến nay đã đổi mới được 95% máy móc, thiết bị nên chất lượng sản phẩm và giá cả đã có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trong khu vực. Cụ thể là năm 1998 ngành dệt may đã có 36/69 được thực hiện xong về đổi mới trang thiết bị đầu tư, 26 dự án khác đang triển khai trong năm 1998 và 1999.
Các doanh nghiệp may cũng đi đầu trong việc mua lại thiết bị đã qua sử dụng của các doanh nghiệp đã bị phá sản trong khu vực, và con số này lên đến 3,5 triệu USD. Thực chất đây là những máy móc đã qua sử dụng nhưng chất lượng còn 80% mà giá chỉ bằng 35% giá của máy mới. Vì thế hiện nay ngành dệt may đã có hệ thống kéo sợi, dệt may khép kín, có thiết bị điều khiển tự động, lắp đặt hệ thống nghiên cứu, pha màu, nhuộm vải điều khiển bằng máy tính...làm tăng năng suất và giảm bớt thao tác của người lao động.
Hiện quy mô của ngành đã được mở rộng với 750 doanh nghiệp trong đó có 149 doanh nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư nước ngoài và đã có 277 doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang thị trường EU và đã có trên 60 máy may công nghiệp.
Góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế.
Mặc dù giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu song đây là nguồn thu nhập ngoại tệ to lớn cho đất nước góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tê, tăng khả năng nhập máy móc, thiết bị, công nghệ... để phát triển kinh tế.
Sử dụng nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm và đóng góp vào ngân sách Nhà nước
ý nghĩa về mặt xã hội của ngành dệt may là rất lớn, vì hơn 40 nghìn lao động được thu hút vào lĩnh vực này làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho ngươì công nhân.
Bên cạnh đó ngành còn chịu các nghĩa vụ với Nhà nước như đóng góp các nguồn thuế thu nhập, thuế xuất khẩu, nhập khẩu...
2. Hạn chế
Quy mô xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU quá nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU.
Do bị hạn chế bởi hạn ngạch và chịu thuế suất nhập khẩu cao, hơn nữa là những đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng...nên tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU chỉ chiếm 43% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may và chiếm 0,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may của EU.
Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU còn nhiều bất cập, hình thức xuất khẩu giản đơn.
Đó là so với ngành may thì công nghệp dệt của Việt Nam còn rất hạn chế bởi hệ thống máy móc thiết bị chưa hiện đại và đồng bộ nên chưa đủ khả năng phục vụ chính ngành may trong nước.
Nguyên liệu chủ yếu vẫn phải nhập ngoại, vì thế kim ngạch xuất
khẩu cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Có tới 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may để chi trả cho mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài và EU chiếm phần không nhỏ.
Một vấn đề chú ý là giá trị gia công sang EU chiếm 74%, hơn nữa hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và phụ thuộc về nguyên vật liệu. Đặc biệt hình thức xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU là qua trung gian, vì thế Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này.
Khả năng tiếp thị và trình độ marketing của các doanh nghiệp trên thị trường EU còn yếu.
Cụ thể ở đây là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh nghiệp Việt Nam không muốn tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm nhiệm vụ marketing quốc tế, vì thế Việt Nam sẽ mất dần đi tính chủ động trên thị trường quốc tế, cũng như nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, giá cả và các thông tin khác.
Gía cả, chất lượng hàng hoá chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng
Do thị hiếu người tiêu dùng luôn đòi hỏi khắt khe hàng dệt may phải đạt tiêu chuẩn Châu Âu nên có những mặt hàng yêu câù trang thiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề và có tay nghề nhưng các doanh nghiệp nước ta chưa đáp ứng được. Bên cạnh đó phải chịu thuế nhập khẩu cao và nhập khẩu nguyên liệu vải vóc nên giá cả cho một sản phẩm dệt may khó có thể cạnh tranh với các nước phát triển khác.
Mộu mã vẫn chưa được cải tiến mà vẫn làm theo kiểu copy hay cóp nhặt các mẫu mã đã được sử dụng nên không còn giá trị về mốt. Vì thế sản phẩm may mặc xuất khẩu của Việt Nam còn quá nghèo nàn về mốt nên chênh lệch giá thành với giá sản phẩm là không cao.
3. Nguyên nhân
a) Khách quan
Do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Châu á
Bắt đầu từ Thái Lan vào tháng 3/1997 đã gây nên sự mất giá của các đồng tiền trong khu vực và giá nhân công ở khu vực giảm xuống, tỷ giá hối đoái cũng giảm theo làm cho mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam có giá cao, khiến sự cạnh tranh của hàng dệt may nói riêng vốn lại càng giảm xuống và kết quả là thị trường tiêu thu nước ta gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác là làm các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mất đi cơ hội kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài, bởi các đối tác trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các nước các công ty trong khu vực Đông Nam á. Vì thế khi xảy ra khủng hoảng tài chính, các nước này gặp nhiều khó khăn nên buộc họ phải rút vốn về để ổn định hoạt động kinh doanh trong nước.
Cơ chế quản lý kinh tế nói chung, quản lý xuất khẩu nói riêng còn nhiều bất cập
Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp, đó là: quy định thiếu nhất quán, thủ tục phiền hà, đặc biệt là thủ tục miễn giảm thuế quan và thủ tục hoàn thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm, tên doanh nghiệp, nơi sản xuất lên sản phẩm của mình cũng phải xin giấy phép của Bộ văn hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in. Hàng dệt may xuất khẩu của ta chủ yếu là theo hạn ngạch nhưng cơ chế phân bổ hạn ngạch hiện nay còn bất hợp lý dẫn tới tình trạng một số doanh nghiệp thừa trong khi một số khác lại thiếu hạn ngạch nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc cân đối thị trường do hiện tượng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp.
* Quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam với EU còn chưa bình đẳng như các nước trong khu vực
Mặc dù EU đã cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập, nhưng những điều kiện về xuất xứ hàng hoá mà EU áp dụng đối với Việt Nam rất chặt chẽ nên tỷ lệ hàng Việt Nam được giảm thuế nhập khẩu theo GSP thực tế là rất thấp.
b) Chủ quan
Doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa có tên tuổi danh tiếng trên thị trường EU
Các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được hình ảnh và tên hiệu riêng của mình trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Có 90% doanh nghiệp may mặc hiện nay vẫn chấp nhận thiệt thòi khi thực hiện các hợp đồng gia công là để dựa vào những hãng nổi tiếng để từng bước đưa nhãn hiệu sản phẩm của mình vào thị trường EU. Hơn nữa với đặc trưng quy mô vừa và nhỏ, các doanh nghiệp dệt may nói riêng không đủ tài chính, thông tin để chấp nhận rủi ro cao khi tự mình bước ra thị trường thế giới.
Chủ yếu thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu, và nhập khẩu nguyên liệu
Thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu tuy lợi ích kinh tế thấp nhưng nó liên quan đến vấn đề xã hội là giải quyết việc làm rất hữu hiệu. Mặt khác việc thực hiện các hợp đồng gia công này cũng là do năng lực về sản xuất và quản lý còn yếu kém, chưa có chiến lược xuất khẩu rõ ràng, vì thế tạo nên sự lúng túng bị động trong sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
Khả năng huy động và sử dụng vốn còn hạn chế
Đ iều này do khả năng tích luỹ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa cao do phương thức hoạt động xuất khẩu kinh doanh hàng may mặc là hình thức xuất khẩu uỷ thác và gia công nên chỉ nhận được tỷ lệ hoa hồng và chút chi phí gia công trong khi phải chịu chi phí cho hao phí lao động, hao mòn máy móc, chi phí quản lý, chi phí vận tải, bảo quản, thủ tục hải quan, thuế doanh thu, thuế lợi tức và lãi ngân hàng.
Chi phí sản xuất lớn, giá cao, chất lượng còn thấp
Điều này do máy móc thiết bị của ngành dệt nước ta đã quá cũ kỹ, lạc hậu, hơn nữa phải nhập khẩu 80% nguyên liệu nhằm đáp ứng thông số kỹ thuật của các bên đặt hàng xuất khẩu. Chưa có mối quan hệ kinh tế ổn định giữa ngành dệt và may. Thực tế chưa có sự gắn kết giữa các khâu và thiếu sự hợp tác vì mục tiêu chung.
Do trình độ tay nghề của lực lượng lao động ngành chưa cao, chưa được đào tạo chuyên môn sâu, đặc biệt thiếu hẳn đội ngũ thiết kế sản phẩm, trình độ học vấn ban đầu của người lao động thấp, khả năng sáng tạo hạn chế. Tất cả điều này làm cho chất lượng sản phẩm phần nào bị hạn chế.
Sản xuất phụ liệu trong nước chưa được chú ý phát triển đúng mức nên ngành dệt và ngành may đang gặp khó khăn do phải tập trung nhiều nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, dẫn đến tăng giá sản phẩm may và làm suy yếu sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Do phải cạnh tranh với các nước đang phát triển khác, cụ thể là các nước này đã có những viện tạo mẫu, mã sản phẩm, máy móc thiết bị hiện đại hơn, được hưởng ưu đãi về hạn ngạch, có truyền thống xuất khẩu và kinh nghiệm kinh doanh lâu năm hơn Việt Nam trên thị trường EU.
Mặc dù nước ta chi phí nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào song như ở Trung Quốc thì lợi thế này lại còn tốt hơn nước ta về nguồn lao động và giá. Ví dụ: lương công nhân ngành dệt may nước ta là 79 USD/ tháng (bình quân). Trong khi đó ở Trung Quốc lương trả cho công nhân may chỉ 49 USD/tháng.
Trên cơ sở nhận xét đánh giá về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, việc đưa ra một hệ thống các giải pháp để thúc đẩy hoạt động này là rất cần thiết.
Chương iii các giải pháp và kiến nghị đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường eu
i/ triển vọng phát triển hàng dệt may việt nam sang thị trường eu
1. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.
a) Các nhân tố chung:
* Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế.
Khi tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan để cho hàng hoá được tự do lưu chuyển giữa các nước thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh vì hàng rào thuế quan và phi thuế quan đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, xu thế này đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới và tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Một trong những mục đích của khu vực hoá và toàn cầu hoá là đạt tới tự do hoá thương mại và đầu tư để cho hàng hoá và vốn tự do lưu chuyển giữa các nước thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu phát triển .
Ngày nay xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang phát triển mạnh mẽ không ngừng tạo ra những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế thế giới và thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thương mại với nhau, thêm vào đó xu hướng tự do hoá thương mại đang lan rộng thì hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại giữa các nước càng có môi trường thuận lợi để phát triển.
* Sự phát triển của diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM)
Trong diễn đàn này các nước EU đưa ra cam kết về thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam.
Về thương mại các nước EU cam kết nâng mức hạn ngạch cho xuất khẩu của các nước ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn quota.
Sự phát triển của diễn đàn này sẽ làm quan hệ giữa Việt Nam - EU ngày càng tốt đẹp hơn. Trên cơ sở của diễn đàn này, tại kỳ họp 2 của uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - EU, mở cửa nhiều hơn cho hàng dệt may và một số hàng khác của Việt Nam. Do vậy có thể nói rằng sự phát triển của ASEAN góp phần không nhỏ làm tăng khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU.
b) Những nhân tố phát sinh từ phía liên minh Châu Âu.
* Hình thành thị trường EU thống nhất (1/1/1993).
Việc hình thành thị trường này mở ra một cơ hội tốt cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng vào thị trường EU.
Với một thị trường rộng lớn trên 370 triệu người tiêu dùng và có nhu cầu đa dạng, phong phú thì đây thực sự là một thị trường tiềm năng đối với hàng dệt may của Việt Nam.
* Sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu.
Sự ra đời này sẽ tác động tích cực đến quan hệ thương mại giữa hai bên bởi vì EU đang cơ cấu lại nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng. Nền kinh tế EU có thặng dư cán cân thương mại, cho nên Việt Nam có điều kiện để tăng xuất khẩu hàng nói chung và dệt may nói riêng sang khu vực này trong khi việc xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực đang gặp khó khăn.
Việc các hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng đồng EURO sẽ giúp ta khai thác được lợi thế của một đồng ngoại tệ mạnh là đồng EURO.
* Chương trình mở rộng hàng hoá của EU.
Theo EU, chương trình áp dụng là ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhằm khuyến khích các nước đang phát triển thực hiện tốt hơn công nghiệp hoá, đa dạng hoá xuất khẩu và tăng thu nhập.
Hiện nay hàng dệt may là nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU nhưng lại bị đánh thuế rất cao (GSP = 85% MFN).
Song kể từ năm 2005 Việt Nam sẽ không được hưởng ưu đãi về thuế quan nữa. Vì vậy nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng không có chính sách cụ thể để cải tiến, đa dạng hoá, nâng cấp chất lượng hàng xuất khẩu và chiến lược thâm nhập thị trường EU một cách thấu đáo ngay từ bây giờ thì đến năm 2005 dệt may Việt Nam sẽ khó có thể đứng vững và có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
c) Những nhân tố phát sinh từ phía Việt Nam.
* Quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập.
ở đây nó thể hiện các dạng quốc tế hoá về thương mại, về vốn và sản xuất và về hình thức dưới dạng tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
Việc chuyển hướng này giúp Tổng công ty dệt may Việt nam nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng và thâm nhập sâu thị trường v.v... ngày càng được tốt hơn.
* Quá trình chuển dịch cơ cấu kinh tế "hướng về xuất khẩu".
Đây là sự chuyển dịch với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm và nhiều loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Sự chuyển dịch này sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển, cho việc tăng nhanh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, phục vụ tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể cải thiện được chất lượng, mẫu mã, cải tiến sản xuất, đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, nhằm khắc phục được những nhược điểm vốn có, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu khắt khe của thị trường EU.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010.
Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau môi trường quốc tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới. Quy mô xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. EU sẽ trở thành thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam vào những năm tới.
a) Mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam dến 2010.
Ngày 4/9/1998 Chính phủ đã có quyết định 161/QĐ phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010.
Bảng 10. Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2000
2005
2010
1- Sản xuất
- Vải lụa
Tr. mét
800
1330
2000
- SP dệt kim
TR. SP
70
150
210
- SP mẫu (quy chuẩn)
TR. SP
580
780
1200
2- Kim ngạch XK
TR. USD
2000
3000
4000
- Hàng dệt
TR. USD
370
800
1000
- Hàng may
TR. USD
1630
2200
3000
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 -
Bộ Công nghiệp).
Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt nam năm 2000 là hướng ra xuất khẩu, nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, tái sản xuất mở rộng, từng bước xây dựng ngành dệt may Việt Nam trở thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn, chủ lực, chiếm lĩnh thị trường thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, thực hiện triệt để đường lối Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Để đạt được mục tiêu này, từ nay tới năm 2005 ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13% / năm, từ năm 2005 tăng trưởng 14% / năm.
Bên cạnh đó ngành công nghiệp may Việt Nam dự kiến phấn đấu năm 2000 sẽ sản xuất 1 tỷ mét vải các loại trong đó dùng bông Việt Nam khoảng 30 - 50% , xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD, sản phẩm xuất khẩu bằng vải Việt Nam chiếm 40 - 50%, tạo việc làm cho 1,1 triệu người lao động.
Đến năm 2010 là 2 tỷ mét vải các loại, dùng bông Việt Nam khoảng 60 - 70% , xuất khẩu khoảng 4 -5 tỷ USD tăng 2,5 lần so với năm 2000, sản phẩm xuất khẩu bằng vải Việt Nam chiếm 60 - 70%, thoả mãn 30 - 50% nhu cầu bông cho sản xuất và theo dự kiến có thể sản xuất trên 100 ngàn tấn bông xơ, 8 - 10 ngàn tấn tơ tằm phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Đồng thời đảm bảo đến năm 2010 công nghệ sản xuất sẽ tương đương Hồng Kông, Thái Lan, tạo việc làm cho khoảng 2,76 triệu người (gồm lao động dệt, may, sản xuất bông vải và dâu tăm tơ) với mức thu nhậ bình quân trên 100 USD/người/tháng. Mặt khác ngành công nghiệp dệt may Việt Nam sẽ tập trung phát triển ở 3 vùng lớn: Hồ Chí Minh - Huế - Hà Nội.
b) Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.
Trong những năm tới, thị trường EU vẫn là thị trường quan trọng nhất đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Năm 1998, EU đã áp dụng thêm những điều khoản ưu đãi về xã hội và môi trường. Thí dụ, các sản phẩm dệt may vào EU sẽ được giảm thuế nếu chứng tỏ không sử dụng lao động trẻ em hoặc tôn trọng tổ chức công đoàn. Theo thông báo của EU tổ chức này sẽ loại bỏ dần quy định giới hạn số lượng sản phẩm được hưởng ưu đãi, đồng thời huỷ bỏ hầu như hoàn toàn mức thuế 0% và được thay thế bằng thuế khác nhau dành cho từng nhóm hàng có độ nhạy cảm cao. Những mặt hàng này vẫn phải chịu mức giảm thuế 15%. Theo quy định mới hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này.
Tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực may mặc dệt kim là rất lớn. Do EU kiểm soát việc nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam bằng mức Quota nhập khẩu thấp trong khuôn khổ các hiệp định không ưu đãi về hàng dệt may của EU. Nếu các hiệp định hàng dệt may của EU có tính ưu đãi hơn thì việc xuất khẩu hàng may mặc vào EU sẽ còn tăng lên rất nhiều.
Kể từ năm 2005 chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ, tuy không còn các hạn chế định lượng, nhưng đồng thời Việt Nam cũng sẽ không được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Vì vậy đòi hỏi sản phẩm dệt may của Việt nam phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thị trường này.
Bảng 11. Triển vọng các thị trường xuất khẩu may mặc
của Việt Nam trong những năm tới.
(Đ.vị: triệu sản phẩm)
Thị trường xuất khẩu
Năm 2000
Năm 2005
1. SNG
30
34
2. EU
41
70
3. Nhật bản
25
30
4. Mỹ và Bắc Mỹ
80
130
5. Canada
4
6
6. Các nước khác
20
30
Tổng
200
300
Kim ngạch (Tr. USD)
1200
1250
(Nguồn: Tổng công ty may Việt Nam)
ii/ các giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may việt nam sang thị trường eu.
A- Các giải pháp đối với doanh nghiệp
1. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Bất cứ một sản phẩm nào muốn tồn tại và chiến thắng trên thị trường cạnh tranh đều phải đáp ứng được ba điều kiện cần thiết: chất lượng cao, giá thành hạ và giao hàng đúng thời hạn.
Riêng với sản phẩm may mặc, ba yếu tố này càng trở nên càn thiết và quan trọng hơn, nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà giá nhân công ở một số nước châu á đang ngày càng hạ. Để làm được điều này nhằm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng EU, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường này cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
* Đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hiện đại đồng bộ, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Hiện nay có 60% doanh nghiệp dệt may đã và đang sử dụng máy Juki. Để sản xuất phát triển các công ty cần phải bổ sung thêm máy móc, thiết bị hiện đại được chế tạo ở các nước có nền công nghiệp may mặc phát triển như Đức, ý , Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông... cho tất cả các bộ phận may của xí nghiệp từ khâu pha cắt, may đến nhặt chỉ đóng gói để tạo nên năng suất lao động tốt hơn, đảm bảo tiến độ và thời gian.
Ngày nay để sản phẩm có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường EU buộc các doanh nghiệp phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng để đạt hiệu quả cần phải có sự lựa chọn và định hướng phù hợp với điều kiện của từng xí nghiệp và trình độ công nhân. Vì thế việc áp dụng một mô hình sản xuất chuyên môn hoá cao như các nước phát triển là điều không dễ dàng mà cần lựa chọn máy móc, công nghệ phù hợp với công nhân là điều quan trọng nhất.
* Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ, chất lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, chủ động trong sản xuất.
Bất kỳ công ty nào dù có vốn, có trang thiết bị hiện đại mà nguồn lực không đảm bảo yêu cầu quản lý, kinh doanh, lao động sáng tạo thì không thể phát triển được. Do vậy các công ty dệt may Việt Nam cần phải chăm lo đến nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đòi hỏi phải được đào tạo một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy mới có cơ hội tạo được những sản phẩm mới, đáp ứng ngay sự thay đổi thị hiếu, sở thích, kiểu mốt của khách hàng.
Đối tượng được đào tạo và đào tạo lại là mọi thành phần của công ty, từ cấp quản trị tới những công nhân trực tiếp sản xuất của công ty. Việc đào tạo này đòi hỏi phải có chương trình, phương pháp đào tạo thích hợp, có hiệu quả, tránh đào tạo mang tính chất hình thức, vừa tốn kém vừa ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty.
Đối với cấp lãnh đạo, quản lý cần: Tăng cường khả năng đào tạo về nghiệp vụ, khả năng nắm bắt thông tin thị trường. Đào tạo người cán bộ toàn diện về mọi mặt để có khả năng xét đoán tính chất và quyết định công việc, tránh tình trạng bỏ lỡ thời cơ. Nhưng đồng thời lại phải đào tạo đặc biệt đến chuyên môn nhằm hiểu rõ hơn để ra quyết định cho cấp dưới thực hiện đúng tiến độ, đủ khâu sản xuất và bảo đảm về mặt kỹ thuật, bên cạnh đó có thể kiểm tra rà soát một cách dễ dàng. Ngoài ra đội ngũ cán bộ cần có sự đoàn kết gắn bó với công nhân trực tiếp sản xuất để cùng phát huy tốt khả năng phát triển của công ty.
* Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phấn đấu sản xuất nguyên phụ liệu nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt may và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu ổn định cho sự phát triẻn của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt.
Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên liệu phụ nhập ngoại. Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích, sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước (chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu).
2. Tạo nguồn thích hợp và tăng uy tín với thị trường EU, nhằm chuẩn bị cho thời kỳ hậu GSP và hậu hạn ngạch.
Trên thị trường, giá cả có thể rất quan trọng. Nhưng tại EU chất lượng luôn là yếu tố được quan tâm hàng đầu. Người tiêu dùng EU không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà các dịch vụ khách hàng bao gồm cả dịch vụ sau khi bán hàng. Nét độc đáo và đặc biệt của sản phẩm so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh sẽ có sức thu hút lớn đối với người tiêu dùng EU. Do đó, cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị, cải tiến công nghệ, nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm của mình với đối thủ cạnh tranh. Bí quyết ở đây chính là tính sáng tạo.
Các công ty may Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội nghiên cứu thị trường và kế hoạch để nắm được đăc điểm của thị trường: nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và kênh phân phối trên thị trường EU, từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp để cải tiến, nâng cao và đa dạng hoá sản phẩm, tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU, nhằm đạt được mục đích là tăng khả năng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này.
* Để thực hiện được điều đó các công ty may Việt Nam cần áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.
* Đồng thời phải thu thập và nắm bắt, xử lý thông tin kịp thời để có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.
Ngoài ra phải chú trọng tới việc giứ uy tín trong kinh doanh với các bạn hàng EU, không được huỷ bỏ hợp đồng đã ký, thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng về chủng loại hàng hoá, giá cả, thời gian giao hàng. Có như vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới thiết lập được quan hệ tốt với các bạn hàng EU và phát triển nhanh khả năng cạnh tranh của mình để có thể đứng vững trên thị trường này khi hàng dệt may Việt Nam không còn được hưởng GSP và hạn ngạch.
3.Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường EU có hiệu quả thông qua các hình thức:
- Xuất khẩu trực tiếp.
- Thực hiện liên doanh.
- Thực hiện đầu tư trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập vào thị trường EU hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, nhưng với các công ty may Việt Nam thì hình thức này hầu như chưa được áp dụng mà chủ yếu thường thông qua trung gian.
4.Tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba.
* Để đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu:
- Sản phẩm ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may. Thành lập bộ phận chuyên trách nắm nhu cầu của ngành may để đặt hàng cho ngành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý.
- Phát triển hệ thống công ty sản xuất phụ liệu may trong nước với công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp cho xuất khẩu.
- Có chính sách khuyến khích phát triển nguyên phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. ước tính phụ liệu chiếm 15% hoặc 25 - 35% giá thành sản phẩm may. Việc hạ chi phí về phụ liệu đem lại hiệu quả trong việc giảm giá thành sản phẩm may.
- Có chiến lược đồng bộ cho việc phát triển vùng nguyên liệu cho các ngành dệt, tận dụng phế liệu dệt để sản xuất sợi không dệt, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo sức cạnh tranh về giá cả cho sản xuất.
* Tạo lập tên tuổi, khẳng định uy tín trên thị trường EU.
Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẩu mã vải, sản phẩm may.
Tổ chức công tác tiếp thị, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá .
Có kế hoạch hợp tác với các viện mốt, hay thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để nhanh chóng hoà nhập vào thị trường thế giới.
Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài nguyên chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhập khẩu đại diện của các mạng lưới phân phối tại các nước thuộc EU.
Khi chưa có tên tuổi, hình ảnh trên thị trường này thì cách tốt nhất để thâm nhập vào thị trường trong giai đoạn đầu là mua nhãn hiệu, bằng sáng chế của các công ty nước ngoài để làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn .
* Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Để xuất khẩu trực tiếp sản phẩm dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam cần khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới nói chung và EU nói riêng, bằng nhãn hiệu của mình . Đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm .
Việc nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp cần chú trọng.
Thật vậy trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, do xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới và do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ "nội lực" để xuất khẩu trực tiếp.
Do đó các doanh nghiệp vẫn phải thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ các và tích luỹ, đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
5. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn.
- Một là theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩn đủ sức cạnh tranh. Hai là tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại những sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần:
+ Tăng cường vai trò của Tổng công ty dệt may và Hiệp hội dệt may, trong các hoạt động hỗ trợ tài chính làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải quyết được.
+ Phát huy vai trò của Tổng công ty tài chính dệt may. Tạo nguồn vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước.
+ Đối với nghành dệt luôn đòi hỏi đầu tư lớn, vì vậy để thu hút nguồn vốn cần tăng cường các hình thức:Xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100%vốn nước ngoài.Tuy nhiên nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EUcho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường phi hạn ngạch.
- Ngoài ra cần thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ,các tổ chức môi trường thế giới cho sản phẩm công nghiệp xanh và sạch. Hiện các doanh nghiệp đang rấ khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt theo quy định ISO 9000 và ISO 14000.
+ Phát triển ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là một xu hướng hợp lý. Chỉ các doanh nghiệp kéo sợi, dệt,nhuộm hoàn tất là nên tổ chức sản xuất theo quy mô lớn.
B- Kiến nghị đối với nhà nước.
1. Cũng cố mở rộng thị rường xuất khẩu -Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm là rất lớn, thế nhưng cho đến nay hàng dệt may xuất khẩu vào EU mới chỉ chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường này và thường thông qua hoạt động xuất khẩu trung gian. Do đó hiện nay vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên hị trường này.Vì vậy, để các doanh nghiệp dệt may giữ vững vị trívà giữ vững thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhạp thị trường UE một cách suôn sẻ thì cần có sự hỗ trợ của nhà nước một cách thích đáng.
* Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với EU để giảm thuế nhập khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêngvào thị trường này và mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
* Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng của Việt Nam tại thị trường EU. Tổ chức các loại hình dịch vụ sau khi bán hàng, giữ gìn và phát huy uy tín cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
* Tổ chức nghiên cứu thị trường, giá cả, hỗ trợ và tư vấn cho các công ty may xuất khẩu sang hị trường EU hông qua việc hỗ trợ đắc lực như :Ngoài Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, thu thập xử lý thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời, kảo sát thực ế thị trường.Ngoài ra khẩn trương chuẩn bị tham gia hệ thống "Thông tin ngàng dệt may khu vực Châu á - Thái Bình Dương" của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường.
*Nghiên cứu, ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để nhằm phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuyếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may tìm được chỗ đứng vững chắc, và phát riển trên thị trường này. Đồng thời thát chựt và tỏ ra luôn quan tâm đến các mối quan hệ khách hàng, tạo một niềm tin vững chắc và lâu bền song phương.
*Tổ chức hội chợ triển lãm ở Việt Nam và EU nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong công tác tuyên truyền, quảng cáo, khuếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng EU, trao đổi, học tập kinh ngiệm kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Tổ chức cho các doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò, chào hàng, đồng thờ mời các đoàn, các doanh nghiệp của EUvào làm việc tìm hiểu cơ hội kinh doanh, đầu tư sản xuất hàng dệt may Việt Nam.
*Thực hiện kiểm tra chất lượng với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, trước mắt áp dụng một chế độ kiểm tra bắt buộc đối với một số mặt hàng. Bộ Thương mại nên phối hợp với bộ khoa học công nghệ - môi trường và các bộ quản lý nghành xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng ngiêm túc. đồng thời có sự khen thưởng thích đáng, kịp thời với những công ty may xuất khẩu sang EU bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn quy định của nhà nước. Xử phạt ngiêm khắc những công ty kinh doanh xuất khẩu không bảo đảm những tiêu chuẩn quy định.
* Tổ chức hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả. Điều quan trọng là ViệtNam phải có một thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, đồng thời tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế Việt Nam cần phải được tăng lên để hỗ trợ cho đà phát triển sắp tới.
2 Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thương mại và tổ chức quản lý.
* Với xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam vào quá trình này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin luôn đặt ra yêu cầu mới rất cao đối với đội ngũ cán bộ thương mại.
ở Việt Nam những kiến thức về quản lý kinh tế nói chung, quản lý thương mại nói riêng ở tầm vĩ mô về quy mô đang có sự hẫng hụt và có độ chênh lệch lớn so với ngay cả các nước trong khu vực. Chính do sự yếu kém này đã gây thiệt hại cho Việt Nam trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng thương mại và kinh tế với các đối tác giầu kinh nghiệm như EU. Vì vậy chính phủ nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của công ty thương mại.
* Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học nghề dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kỹ thuật theo dây chuyền hiện đại nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh của nghành dệt may Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và hoạt động Marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của nghành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mã và xúc tiến thị trường. Đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho người lao động. Tránh tình trạng những công nhân, kỹ sư có tay nghề cao bị hút sang công ty liên doanh.
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu cụ thể là
+ Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhằm tậndụng lao động, mối quan hệ liên ngành.
+ Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực quy hoạch của Nhà nước về dầu khí, các công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu tằm.
+ Gắn công nghiệp may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ ... nhằm làm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm để nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nước ngoài.
+ Gắn công nghiệp dệt may vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng về giao thông, văn hoá, thông tin, vận chuyển.
3.Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam
Với chính sách này chúng ta có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các công ty dệt may EU vào quá trình sản xuất hàng dệ may xuất khẩu tại Việt Nam. Việt Nam không những nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của mình mà nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dư thừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cải thiện được công nghệ, mà còn học được kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp EU góp phần thúc đẩy tiến trình Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh chóng.
4.Cải tiến thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu
- Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian gây khó khăn cho doanh nghiệp
- Cải tiến và đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu. đồng thời tính phần “xuất khẩu tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu quy định tại giấy phép đầu tư, giảmkhó khăn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đơn giảmthủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu.
- Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu tư vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về.
- Thực hiện hoàn thiện cơ chế quản lý như cho ngnàh dệt may được hưởng chế độ trợ cấp thoả đáng, tổ chức đào tạo cho các đại lý, áp dụng cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường EU của doanh nghiệp tạo nên sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ xã hội hơn...Như vậy sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
5. Tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp
Hiện tại thị trường khu vực và quốc tế cần hoạt động với quy chế: tham gia hội chợ, triển lãm, quy chế về lập chi nhánh, văn phòng tạo nước ngoài với sự đóng góp về chi phí, nhấnự của các đơn vị thành việ, thị trường nội bộ trong tổng công ty may và trong ngnàh với quy chế kéo sợi dùng bông trong nước, dệt vải dùng sợi trong nước, vải phả đưa đến các nhà máy nhuộn hoàn tất, may phải dùng đến các nhà máy nhuộm hoàn tất, mmay phải dùng vải của các doanh nghiệp dệt trong nước, sản phẩm nghiêu cứu phải ứng dụng vào sản xuất, doanh nghiệp sản xuất phải gắn bó với trường đào tạo...Xây dựng bước đầu quy tắc điều hành nộ bộ để giữ vững giá cả, đặc biệt căn lên kế hoạch cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU.
6.Chú trọng và quy hoạch vùng trồng bông
Phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và vùng chế biến, có những chính sách lớn của Nhà nước về cây bông, đầu tư khoa học, kỹ thuật giống bông, phòng sâu bệnh, xây dựng vùng trọng đỉe đa canh củng cố hệ thống khuyến nông, xây doanh nghiệp giá và bảo hiểm giá, nâng cao chất lượng cây bông nhằm khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng, đặc biệt là khai thác vùng đất Tây Nguyên
7.Có chính sách hỗ trợ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
Không nên thu thuế đối với các doanh nghiệp dệt bán sản phẩm cho ngnàh may xuất khẩu, khuyến khích chuyển giao công nghệ từ phía nước ngoài cần có một bộ phận Marketing chuyên làm chức năng nghiên cứu, có nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin của EU. Cần lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp , đẩy nhanh sự gia nhập và WTO.
Trên đây là những giải pháp và kiến nghị để góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU một cách tốt và hiệu quả hơn.
Kết luận:
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên quá trình xuất khẩu này vẫn nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra, thì ngoài sự trợ giúp của nhà nước, các doang nghiệp dệt may Việt nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện mình hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt may Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản, dể xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Kinh Doanh Quốc Tế.
Giáo trình Nghiệp vụ ngoại thương.
Tạp chí: Thương nghiệp, thị trường Việt Nam.
+ Hàng dệt may Việt Nam qua EU thực trạng và vấn đề đặt ra – Tg Từ Thanh Thuỷ Số 11/1999.
+ Các chính sách, giải pháp phát triển hàng dệt may Việt Nam – Ghi lược của viện nghiên cứu Thương mại, Số 7+8/2000 ngoài ra còn các số: 4, 5, 6 năm 2000 và số 5, 7, 10 năm 1999.
Tạp chí nghiên cứu Châu Âu:
+ Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Châu Âu thực trạng và triển vọng –Tg: Trần Lê Giang, Số 5/ 1999.
+ Đặcđiểm thị trường EU –Số 2, 3 /2000.
Báo kinh tế phát triển.
+ Để hàng dệt may Việt nam chiếm lĩnh thị trường thế giới – TS. Võ Phước Tấn. Số 116 /2000
+ Hàng dệt may xuất khẩu Việt nam thực trạng và giải pháp Tg: PGS - PTS. Đặng Đình Đào –Ngô Thị Mĩ Hạnh.
Và các số: 112, 118, 119 /2000. Số 33, 28 /1999.
Báo kinh tế Sài Gòn:
+ Cánh cửa thị trường dệt may Châu Âu mở rộng thêm –Tg. Tấn Đức, Số 3 /2000 và các số 26, 31, 35, 37 /1999.
Tạp chí: Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 3 /2000.
+ Ngành dệt may –xuất khẩu của Việt Nam với các thách thức mới của Tg. Nguyển Thu Thuỷ.
Thời báo Kinh Tế số: 7, 57, 63, 95/1999 và số 35, 136, 130 /2000.
Tạp chí Thương mại số: 5, 9, 11 /2000; số 13, 23, 24/ 1999 và số 20, 21, 16, 18 /1998.
Bảng biểu:
Bảng 1: Kim ngạch xuất nhạp khẩu Việt Nam –EU.
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt nam.
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trương Mĩ.
Bảng 4: Các nước trong khu vực nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 5: Hạn ngạch 28 mã hàng dệt may EU cấp cho Việt Nam.
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.
Bảng 7: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang các nước trong EU.
Bảng 8: Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đến năm 2010.
Bảng 9: Triển vọng các thị trường XK hàng dệt may Việt Nam trong những năm tới.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0645.doc