Lời mở đầu
Thể chế hành chính nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài chính, nhân sự liên quan đến hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống xã hội của bộ máy hành chính nhà nước.
đề tài gồm 2 phần và 18 trang hoàn chỉnh
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cải cách hành chính quốc gia - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cải cách hành chính quốc gia-nhũng vấn đề lí luận và thực tiễn
1- Những vấn đề lí luận của cải cách hành chính quốc gia:
Thể chế hành chính nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài chính, nhân sự liên quan đến hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống xã hội của bộ máy hành chính nhà nước.Trong quá trình xây dựng và ban hành thể chế hành chính nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu (nguyên tắc) cơ bản sau:1. Đảm bảo về tính hợp hiến, hợp pháp: Điều này có nghĩa là thể chế hành chính phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp và luật, hai văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta (ví dụ như Chính phủ ban hành Nghị định phải có nội dung phù hợp với các quy định trong Hiến pháp và luật có liên quan, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành thể chế hành chính phải phù hợp với văn bản luật của Quốc hội, văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh…).Đảm bảo yêu cầu này cũng là việc tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế trong hoạt động xây dựng, ban hành thể chế hành chính. Có nghĩa là, các cơ quan nhà nước ban hành thể chế hành chính phải theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.2. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành không được trái với chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.3. Đảm bảo tính khả thi, thực tiễn: Thể chế hành chính được ban hành phải có khả năng áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, tránh tình trạng thể chế hành chính được ban hành là để “đánh đổ” đối tượng áp dụng, khó thực hiện hoặc không thể thực hiện.Yêu cầu này cũng là việc phải đảm bảo tính khách quan trong xây dựng ban hành thể chế hành chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, ban hành thể chế hành chính xuẩt phát từ đòi hỏi, yêu cầu và điều kiện của xã hội, của yêu cầu quản lý.4. Đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Hệ thống hành chính nhà nước ta là thống nhất, chặt chẽ dưới sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Do đó, khi xây dựng, ban hành thể chế hành chính phải đảm bảo yêu cầu chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản trong hệ thống thể chế hành chính nhà nước, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” giữa các văn bản.Ngoài các yếu tố trên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay của nước ta, khi tiến hành xây dựng thể chế hành chính cũng cần phải chú ý đến sự phù hợp với thống lệ quốc tế của thể chế hành chính.Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của các quan hệ kinh tế-xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn luôn phải chú trọng tăng cường năng lực bản thân trong hoạt động xây dựng, ban hành thể chế hành chính. Tiếp thu các giá trị tiên tiến của khoa học pháp lý, thu hút sự cộng tác của các nhà khoa học, đồng thời mở rộng, phát huy cao độ tính dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân, các thành phần kinh tế v.v… tham gia vào quá trình xây dựng, hoạch định, ban hành thể chế hành chính, được coi là các giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng thể chế hành chính nhà nước.Xin trân trọng cảm ơn./.
Cải cách hành chính Nhà nước là một trong những nội dung mang tầm chiến lược trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Mục tiêu cải cách hành chính là xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới. Cải cách hành chính được tiến hành đồng bộ trên bốn mặt : cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước và quản lý tài chính công.
Ở Việt Nam, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, cải cách hành chính được tiến hành đồng thời với cải cách kinh tế. Sự phù hợp về cơ chế trước hết là pháp luật và chính sách đã góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, nhiều tiềm năng mới được khơi dậy. Nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân mang tính đột phá từ cơ chế chính sách.
Trong 10 năm qua, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật quan trọng phù hợp với cơ chế mới, làm cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Song song với việc ban hành hệ thống pháp luật, chính sách mới, đã rà soát lại hệ thống văn bản pháp quy, hủy bỏ những văn bản lạc hậu, trùng lặp, bổ sung, sửa đổi thành các văn bản mới. Loại bỏ những thủ tục không còn phù hợp, giảm phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động kinh doanh và quan hệ dân sự. Đơn giản thủ tục đăng ký kinh doanh, bãi bỏ giấy phép kinh doanh, đơn giản thủ tục xuất nhập khẩu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị, cải cách một cách cơ bản thủ tục hải quan, giảm thời gian thẩm định cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, miễn trừ các loại phí và lệ phí không phù hợp
Cải cách hành chính được Đảng và Nhà nước ta xác định là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, cần được tiếp tục mở rộng hơn nữa. Bài viết dưới đây nghiên cứu về những nội dung trọng tâm, nêu những bước cần làm tiếp theo trong công cuộc cải cách hành chính thời gian tới ở nước ta.
Từ nhiều năm nay, vấn đề cải cách hành chính (CCHC) rất được quan tâm, trên các văn bản quản lý của cơ quan nhà nước và các phương tiện thông tin đại chúng đều thường nhắc nhở đến các chuyện "một cửa", xóa bỏ "xin cho", giảm bớt giấy phép và thủ tục phiền hà v.v. Đánh giá chung là chương trình CCHC thực hiện chậm, công việc không dứt điểm, chưa đi vào bề sâu, làm cho chủ trương CCHC chưa thực sự trở thành khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 như mong muốn. Có nguyên nhân trong tổ chức điều hàn(1), song trong khi chuẩn bị tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn nữa trong những năm tới, cũng cần làm rõ hơn về vai trò, thực chất, nội dung của CCHC để chương trình có thể đạt được kết quả xứng đáng. Bài viết này nhằm đi sâu thêm về một số khía cạnh nêu trên của CCHC để tham khảo.
1 - Về vị trí, vai trò của cải cách hành chính trong sự nghiệp phát triển và đổi mới
CCHC ở phương Tây còn gọi là cải cách chính phủ, ở Trung Quốc gọi là cải cách thể chế quản lý hành chính, nội dung không khác nhau bao nhiêu, đều nhắc đến các yêu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cơ cấu hành chính và các cơ cấu xã hội khác, hoặc quan hệ nội bộ của cơ cấu hành chính, điều chỉnh chức năng, tổ chức và nhân sự hành chính. Mục đích của CCHC là nâng cao hiệu suất hoạt động hành chính, thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi của môi trường trong nước và quốc tế.
Đối với nước ta, đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ mới, nhiệm vụ CCHC nặng nề gấp đôi và đã trở thành bức xúc đối với tiến trình phát triển và đổi mới.
Hiện nay, mặc dầu đã có không ít thành tích cải cách, nhưng quản lý hành chính vẫn là khâu chậm trễ và nhiều khi cản trở những cố gắng phát triển, dù là về kinh doanh, đầu tư, sự nghiệp, hay dịch vụ đời sống. Không chỉ khâu thủ tục phiền hà, không dứt điểm làm tốn thời gian giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, mà còn nhiều chỗ chồng chéo về quyền hạn, không phân định rõ về trách nhiệm, không hợp lý về tổ chức, trình tự, thiếu nâng cao về trình độ nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm..., làm cho các hoạt động kinh tế và đời sống bị trì trệ, sửa đi và sửa lại nhiều lần, không kịp thời, kém hiệu quả. Các khâu hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải qua khung cửa bộ máy hành chính nhà nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy, nếu không kịp thời đổi mới hoạt động hành chính thì nhịp độ và chất lượng của sự nghiệp phát triển đều bị ảnh hưởng, phát triển càng nhanh, càng rộng thì ảnh hưởng đó lại càng nghiêm trọng.
Mặt khác, CCHC cũng là "đầu ra" của các cuộc cải cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách chính trị, trong cuộc đổi mới toàn diện đang tiến triển. Thực khó có thể hình dung nổi trong điều kiện thủ tục phiền hà, bộ máy trì trệ, nhân sự bất cập như một số nơi hiện nay lại có thể thực hiện được thông suốt những thay đổi rất căn bản từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần, từ những cơ quan sự nghiệp nhà nước sang các tổ chức sự nghiệp xã hội. Trong thời gian qua, CCHC đã đi sau cải cách kinh tế, đến thời gian tới phải "bứt" lên trước các cuộc cải cách khác thì mới có thể bảo đảm tiến trình đổi mới thực hiện thuận lợi.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 coi CCHC là một khâu đột phá là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Trong giai đoạn sắp đến, với tốc độ và quy mô phát triển yêu cầu càng cao hơn thì CCHC càng trở thành khâu bức xúc và quyết định thành bại của chiến lược phát triển. Với nhận thức về tính cấp thiết đó, CCHC cần được chỉ đạo và điều hành sát sao và dứt điểm đúng với yêu cầu của một nhiệm vụ đột phá, chưa thể coi là một công việc bình thường làm sớm hay muộn cũng không ảnh hưởng gì đến sự nghiệp đổi mới và phát triển.
2 - Về trọng tâm của cải cách hành chính
Chương trình CCHC giai đoạn 2001 - 2010 gồm có 4 nội dung: cải cách thể chế (trước đây gọi là cải cách thủ tục), cải cách tổ chức, đổi mới cán bộ, cải cách tài chính công. Trong thực hiện, Chính phủ thường nhấn mạnh ưu tiên cải cách thủ tục hành chính, còn bộ máy tổ chức được đổi mới tùy theo từng nhiệm kỳ, quản lý cán bộ đổi mới từng bước và cải cách tài chính công thì thực hiện kết hợp cùng với cải cách kinh tế.
Việc nhấn mạnh ưu tiên cải cách thủ tục hành chính là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Ai cũng thấy cách làm việc của các cơ quan nhà nước còn rườm rà, phiền toái, gây tốn kém thời gian và tiền của của Nhà nước, nhân dân và doanh nghiệp. Song chỉ nhấn mạnh cải cách thủ tục lúc này là chưa đủ. Vì thực ra, vấn đề sửa đổi thủ tục đã được chọn làm ưu tiên gần 15 năm nay, từ khi nêu ra và thực hiện chủ trương giảm bớt "giấy phép hành nghề" nửa đầu thập kỷ 90, song đến nay công việc này vẫn còn dang dở. Trong các lý do dẫn đến tình hình trên, có vấn đề chưa tìm hiểu rõ thực chất, trọng tâm của CCHC ở nước ta là gì để không chỉ dừng lại ở bề nổi.
Trước những năm 2000, nội dung CCHC chỉ bao gồm cải cách thủ tục, tổ chức và cán bộ, đến khi bắt đầu chương trình CCHC giai đoạn 2001 - 2010 thì đã đổi cải cách thủ tục thành cải cách thể chế và bổ sung thêm cải cách tài chính công. Việc đặt cải cách thể chế lên hàng đầu cũng đã nói lên trọng tâm của cải cách, song trong tiến trình thực hiện đã chưa làm nổi lên được ý tưởng nhấn mạnh đó. Thực tế hơn mười năm qua cũng cho thấy song song với cải cách thủ tục, cần đồng thời đi sâu vào thực chất của công tác hành chính của nước ta và tiến hành cải cách cả gốc và ngọn cùng một lúc thì mới có thể đạt được kết quả thiết thực và kịp thời đáp ứng yêu cầu bức xúc của phát triển và đổi mới nói chung.
Có thể khẳng định cải cách thể chế (hành chính) là nội dung cốt lõi và thực chất của CCHC của nước ta hiện nay. Thể chế nói chung bao gồm có các quy định chung và các tổ chức để thực hiện các quy định đó. Thể chế hành chính nói riêng được hiểu là một hệ những quy tắc, quy chế ràng buộc các quan hệ giữa cơ cấu hành chính nhà nước với các cơ cấu xã hội khác (tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, nhân dân rộng rãi), kể cả quan hệ trong nội bộ cơ cấu hành chính và các hình thức tổ chức được thiết lập (các thiết chế) để thực thi những quy chế, quy tắc trên, thực hiện quản lý nền hành chính nhà nước. Như vậy, cải cách thể chế hành chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ cấu xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích ứng với những yêu cầu của tình hình mới. Nội dung cụ thể của cải cách thể chế hành chính bao gồm từ điều chỉnh chức năng hệ thống hành chính, đổi mới cơ cấu hệ thống hành chính (phân công, phân cấp), đến đổi mới cơ chế, phương thức hoạt động của hệ thống hành chính (trực tiếp, gián tiếp, quy trình, quy phạm, v.v.). Rõ ràng, đây là nội dung chủ yếu của CCHC. Nếu giải quyết tốt khâu cải cách thể chế thì những nhiệm vụ cải tiến bộ máy, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, viên chức, lành mạnh hóa tài chính công ... chắc chắn sẽ tiến hành thuận lợi. Ngược lại, nếu không có cải cách thể chế thì những thay đổi về bộ máy, nhân sự, tài chính cũng không có cơ sở để thực hiện.
Có thể khẳng định cải cách thể chế (hành chính) là nội dung cốt lõi và thực chất của CCHC của nước ta hiện nay. Cải cách thể chế hành chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ cấu xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích ứng với những yêu cầu của tình hình mới.
Mặt khác, thể chế hành chính phụ thuộc trực tiếp vào thể chế chính trị và có quan hệ hữu cơ với các thể chế kinh tế, pháp lý, văn hóa, xã hội, cho nên cải cách thể chế hành chính cũng nằm trong lĩnh vực cải cách thể chế nói chung, phải tương hợp (nếu không nói là đi sớm hơn một bước) với các cuộc cải cách thể chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, tư pháp..., và chuẩn bị đón trước những bước đổi mới về thể chế chính trị.
Chúng ta chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường mà không thay đổi chế độ xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chúng ta chủ trương phát triển nhanh và bền vững trong điều kiện không có một mô hình có sẵn để tham khảo. Những tình hình đó càng thôi thúc phải hoàn thành cuộc cải cách thể chế hành chính một cách khẩn trương, kịp thời và hoàn chỉnh.
3 - Xác định chức năng của Chính phủ trong tình hình mới
Trong quá trình đổi mới thể chế hành chính, việc quan trọng đầu tiên là điều chỉnh chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, vì những cải cách khác về thủ tục hành chính, bộ máy hành chính, phương thức hoạt động và quản lý, quy trình, quy phạm hành chính, nhân sự hành chính... cũng chỉ nhằm thực thi những chức năng mới của Chính phủ.
Chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của Chính phủ cần có những thay đổi khá cơ bản. Trước đây, Chính phủ muốn cam kết thực hiện một kiểu nhà nước phúc lợi và toàn năng, vừa quản lý tất cả, vừa trực tiếp kinh doanh hầu như mọi lĩnh vực, mọi quy mô to nhỏ, nhưng nguồn lực lại có hạn, phần lớn phải dựa vào một nguồn viện trợ gần như duy nhất từ bên ngoài. Vì vậy, phúc lợi xã hội tuy đồng đều (một cách tương đối), song ở mức thấp và nâng lên rất chậm. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, song tính tích cực của nhân dân không được phát huy, năng suất lao động thấp, không khí hồ hởi của những năm tháng cách mạng bị giảm sút. Nhà nước trực tiếp làm kinh tế hiệu quả có hạn, không đủ nuôi một dân số đang tăng lên nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 của thế kỷ trước đặt ra tình thế nếu không đổi mới thì đời sống nhân dân khó có thể chịu đựng nổi, chưa nói đến tương lai của lý tưởng xã hội chủ nghĩa sẽ ra sao.
Chức năng của Nhà nước và Chính phủ có thể thu hẹp nhưng nhiệm vụ lại phải tăng cường hơn trong việc hình thành các loại thị trường và kiến tạo các điều kiện để cơ chế thị trường có thể vận hành, phát huy hiệu quả, đồng thời thực hiện vai trò phục vụ phúc lợi của nhân dân theo định hướng XHCN tốt hơn.
Bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong một thế giới đang toàn cầu hóa, quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, giữa Nhà nước và xã hội, giữa Nhà nước trung ương và địa phương cần có nhiều thay đổi theo hướng cái gì thị trường có thể làm được và làm tốt hơn, cái gì xã hội có thể lo được và lo tốt hơn, cái gì Nhà nước địa phương có thể làm được và làm tốt hơn thì nên để dành cho thị trường, xã hội, địa phương chia sẻ với Nhà nước, do đó mà chức năng của Nhà nước và Chính phủ đương nhiên phải giảm đi đáng kể. Tuy nhiên, chức năng có hạn chế và giảm bớt, song trong giai đoạn trước mắt vai trò Nhà nước lại phải tăng cường hơn trong nhiệm vụ hình thành các loại thị trường và kiến tạo các điều kiện để cơ chế thị trường có thể vận hành và phát huy hiệu quả, đồng thời, vai trò phục vụ phúc lợi của nhân dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải ngày càng được nhấn mạnh hơn. Như vậy, chức năng có thể thu hẹp nhưng nhiệm vụ Nhà nước và Chính phủ chắc chắn không thể giảm thấp.
Theo tinh thần trên, vai trò của cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước phải được nghiên cứu làm rõ. Trong lĩnh vực kinh tế, Chính phủ cần chuyển dần từ vai trò tác nhân kinh tế chính yếu, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, sang vai trò người thúc đẩy phát triển, người trọng tài kinh tế. Trong lĩnh vực quản lý chính trị, vai trò của Chính phủ chuyển dần từ người cho phép, người gia ân sang người bảo đảm, người tạo điều kiện cho mọi công dân thực hiện các quyền cơ bản theo luật pháp, các quyền tự do dân chủ ngày càng được pháp luật bảo hộ. Trong lĩnh vực xã hội, vai trò của Chính phủ cũng chuyển dần từ người phân phát phúc lợi (đồng đều và hạn chế) sang người đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người, người cung cấp dịch vụ sự nghiệp tối thiểu, đồng thời bảo đảm nguồn dịch vụ khác theo yêu cầu toàn xã hội.
Từ những thay đổi trên, chức năng của Chính phủ có thể điều chỉnh như sau:
Chức năng về kinh tế: Tạo điều kiện để thị trường được kiến tạo và vận hành lành mạnh, hiệu quả; ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; định hướng phát triển theo các mục tiêu lớn trung hạn và dài hạn; cân bằng phát triển kinh tế và chính sách xã hội, bảo đảm phân phối lại công bằng, thực hiện chính sách an sinh xã hội tích cực.
Chức năng về chính trị: Bảo đảm an ninh chính trị và an toàn đời sống, thi hành luật pháp công bằng với mọi người; bảo đảm sự đóng góp công bằng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phòng chống thiên tai và đóng thuế cho Nhà nước; bảo đảm các điều kiện công bằng để mọi công dân có thể sử dụng các quyền cơ bản của con người đã được ghi trong Hiến pháp và luật pháp.
Chức năng về xã hội: Bảo đảm các điều kiện an sinh xã hội, chú ý đến các lớp người bị thiệt thòi trong xã hội; bảo đảm cung cấp các dịch vụ về giáo dục phổ cập và chăm sóc sức khỏe tối thiểu cho mọi người, đồng thời tổ chức mạng lưới dịch vụ chất lượng cao theo yêu cầu và điều kiện có thể; bảo đảm cung cấp các dịch vụ văn hóa có chất lượng; bảo đảm các điều kiện môi trường ngày càng được cải thiện.
Vấn đề vai trò, chức năng của Nhà nước và Chính phủ trong tình hình mới là một vấn đề lớn, không chỉ riêng của công cuộc CCHC mà còn phụ thuộc trực tiếp vào lĩnh vực cải cách thể chế chính trị và thể chế chung. Vì vậy cần được nghiên cứu thấu đáo và quyết định ở cấp cao để làm điểm xuất phát cho nhiều chính sách và nghiên cứu tiếp tục sau này nữa.
4 - Nhiệm vụ tiếp theo của cải cách hành chính
Khi đã xác định lại chức năng của Nhà nước và Chính phủ, có thể đi sâu vào các vấn đề của thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và nhân sự, cán bộ hành chính. Riêng về thể chế, có mấy vấn đề đã được đề cập gần đây cần có thiết kế bước đi phù hợp. Đó là vấn đề phân cấp quản lý, vấn đề mở rộng quyền dân chủ qua đường giảm điều tiết, can thiệp trực tiếp, đổi mới cơ chế và phương thức hoạt động hành chính, hiện đại hóa công việc hành chính bằng kỹ thuật hiện đại (Chính phủ điện tử) và nhất là động viên sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào việc hoạch định chính sách của Nhà nước và giám sát việc thực hiện.
Khi đi sâu vào những vấn đề trên, không thể tránh khỏi đề cập đến vấn đề đổi mới thể chế chính trị mà tiêu biểu là mối quan hệ trong hệ thống chính trị giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ". Một mặt, thể chế chính trị đó là nền tảng để thiết kế lại thể chế hành chính, mặt khác thể chế hành chính cũng là một phần và là phần biểu hiện quan trọng của thể chế chính trị. Vì vậy, khi nghiên cứu cải cách thể chế hành chính cần tính toán sao cho tương hợp với đường nét chủ yếu của nhiệm vụ đổi mới thể chế chính trị mà trong nghiên cứu ban đầu đã phải làm rõ ngay để tránh cho khỏi bị khập khiễng trong các bước nghiên cứu tiếp theo. Tốt nhất là quá trình nghiên cứu CCHC nên kết hợp ngay với bước đầu nghiên cứu về thể chế chính trị.
Trong mối quan hệ của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", đứng trên góc độ CCHC thì quan trọng là quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý, ở đây đang có nhiều vấn đề cần quan tâm cả về lý thuyết và thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện nền chính trị nước ta chỉ có một đảng lãnh đạo, Đảng ta là đảng cầm quyền duy nhất trong hơn nửa thế kỷ qua(2).
Ở nước ngoài, trong công việc quản lý đất nước thường phân biệt nhà chính trị và nhà hành chính, một bên là những người ra quyết định trên lập trường đảng phái của mình và bên nữa là những người thừa hành tổ chức thực hiện những quyết định trên theo quy định của pháp luật (thí dụ: trong một bộ thì bộ trưởng là nhà chính trị, còn từ tổng thư ký bộ trở xuống là nhân viên quản lý hành chính; nếu có thay đổi Chính phủ thì chỉ có bộ trưởng phải thay thế, còn tổng thư ký cùng bộ máy thường vẫn ở lại để giữ sự liên tục trong quản lý ). ở nước ta, từ khi cách mạng thành công đến nay, chế độ một đảng lãnh đạo đã được thể chế hóa trong Hiến pháp và vị trí lãnh đạo đó luôn nhận được sự ủng hộ của quảng đại nhân dân nhờ thành công của Đảng trong việc lãnh đạo cướp chính quyền, chiến thắng chiến tranh xâm lược và đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế. Quan hệ chính trị / hành chính ở nước ta trở thành quan hệ lãnh đạo / quản lý, trong quan hệ Đảng và Nhà nước.
Mọi người đều hiểu thống nhất là, lãnh đạo tức là nhìn xa trông rộng, chỉ đường vạch lối, hướng tới mục tiêu cuối cùng, còn quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu đó. Lãnh đạo là đề ra đường lối, chủ trương, nguyên lý, sách lược, còn quản lý là tổ chức thực hiện. Lãnh đạo thuộc lĩnh vực chính trị, còn quản lý thuộc lĩnh vực hành chính. Lãnh đạo dùng biện pháp thuyết phục, động viên, gây ảnh hưởng dựa vào đạo lý là chính, trái lại, quản lý phải sử dụng các biện pháp tổ chức, pháp chế. Lãnh đạo thuộc phạm trù tư tưởng, lý luận và đạo đức, không có tính cưỡng chế, còn quản lý lại thuộc phạm trù luật pháp, pháp quy, có ý nghĩa cưỡng chế rõ rệt.
Như vậy, lãnh đạo và quản lý tuy cùng chung một mục đích cuối cùng nhưng là hai nhiệm vụ khác nhau về tầm nhìn, tính chất, chức năng, nội dung, phương pháp, là hai việc không thể nhầm lẫn, không thể thay thế cho nhau hay bài xích lẫn nhau. Tuy nhiên, trong mấy chục năm qua, do nhiều nguyên nhân, các hoạt động lãnh đạo và quản lý thường bị chồng chéo, trùng lặp, hoặc làm thay không đúng chức năng, làm cho các chủ trương công tác phải qua nhiều tầng nấc thông qua, quyết định, vừa tốn thời gian không cần thiết, lại vừa không rõ trách nhiệm cuối cùng; sự phân công, phân nhiệm, phân quyền không rành mạch và thiếu thể chế hóa, ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả công tác của một bộ máy cồng kềnh mà vẫn cảm thấy như còn thiếu.
Bên cạnh vấn đề lãnh đạo và quản lý, cần làm rõ vai trò làm chủ của nhân dân và các mối quan hệ giữa lãnh đạo và làm chủ, giữa làm chủ và quản lý để đi sâu thêm vào nội dung thể chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", chú trọng tính lý tưởng trong phương thức lãnh đạo, tính pháp chế của hoạt động quản lý và tính dân chủ trong thể chế làm chủ.
Vấn đề lãnh đạo, quản lý và làm chủ còn có nhiều nội dung quan trọng khác, những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác CCHC trong thập niên tới.
Tóm lại, cần có nhận thức sâu hơn về vai trò đột phá của công tác CCHC trong thời gian tới, chú trọng đi vào chiều sâu, lấy cải cách thể chế hành chính làm nội dung cốt lõi và trọng tâm của CCHC hiện nay. Trong cải cách thể chế hành chính, điều quan trọng trước hết là xác định lại hay thiết kế lại chức năng của Nhà nước và Chính phủ, từ đó mở ra hướng đi cho các bước CCHC tiếp theo. Bước tiến sâu hơn về CCHC là tiếp tục đổi mới quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý trong mối quan hệ thể chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" đang cần được nghiên cứu thấu đáo.
Tại Hội nghị triển khai Kế hoạch và ngân sách năm 2007 với 3 nhiệm vụ trọng tâm: phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế cao, cải cách hành chính hiệu quả và ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.“ Sau khi nêu câu hỏi: Cái gì đang làm nền kinh tế chúng ta chậm phát triển, không đạt mức tăng trưởng 8,5%? - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra câu trả lời – Đó chính là thủ tục hành chính rườm rà làm tăng thời gian, tăng chi phí, gây mất lòng dân”.
Vì vậy, năm 2007 này Chính phủ lấy cải cách hành chính làm khâu đột phá để tăng trưởng, phát triển kinh tế, cũng là để cải thiện thêm quyền dân chủ của nhân dân. “Phải làm sao để năm 2007 là năm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí”,
2- Pháp luật cải cách hành chính:
"Tập trung đẩy mạnh cải cách TTHC, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp.
Tiến hành rà soát tất cả các TTHC trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, quy định sai pháp luật, không phù hợp để kiên quyết sửa đổi".
Trích NQ Hội nghị TW 5 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXPhát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng).
hành động
BẢY CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG Bảy chương trình hành động thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, bao gồm: - Chương trình 1: “Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật” do Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chủ trì. - Chương trình 2: “Nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước” giai đoạn I (2003-2005) do Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ chủ trì. - Chương trình 3: “Chương trình tinh giản biên chế” do Bộ Nội vụ chủ trì - Chương trình 4: “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn I (2003-2005)” do Bộ Nội vụ chủ trì. - Chương trình 5: “Chương trình cải cách tiền lương” do Bộ Nội vụ chủ trì. - Chương trình 6: “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công” do Bộ Tài chính chủ trì. - Chương trình 7: “Hiện đại hoá hành chính” do Văn phòng Chính phủ chủ trì.
Cải cách thể chế - Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. - Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức. - Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
Xem chi tiết
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính - Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới. - Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện.
Xem chi tiết
Xem chi tiết
Cải cách tài chính công - Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách. - Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
Xem chi tiết
3- Những nội dung của cải cách hành chính:
Thực ra, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như đề ra nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình nhận thức, tìm tòi liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986. Với mục tiêu “Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Từ mục tiêu chung đó, nhà nước đã xây dựng Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, lần đầu tiên trong quá trình cải cách, Chính phủ có một chương trình có tính chiến lược, dài hạn, xác định rõ 4 lĩnh vực cải cách là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công, định rõ 9 mục tiêu cụ thể cùng 5 giải pháp thực hiện và 7 chương trình hành động nhằm bảo đảm thắng lợi công cuộc cải cách.
Chương trình tổng thể sẽ là công cụ quan trọng để Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương các cấp đẩy mạnh cải cách hành chính. Bởi vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và đẩy mạnh cải cách hành chính là hai giải pháp lớn và lấy cải cách hành chính làm khâu đột phá để tăng trưởng được Chính phủ đưa ra thảo luận trong hội nghị triển khai nhiệm vụ Kế hoạch và Ngân sách năm 2007.
Trong cải cách hành chính vấn đề đối mặt với người dân trong cuộc sống hàng ngày chính là thủ tục hành chính. Từ thủ tục khai sinh cho một cháu bé chào đời đến hộ khẩu, hộ chiếu, cưới xin, thừa kế… biết bao thủ tục đang mang dáng dấp của cơ chế xin cho thời kinh tế bao cấp. Chỉ một chuyện tưởng chừng như hết sức đơn giản là công chứng “sao y bản chính” mà biết bao người phải vất vả ngược xuôi! Điều đáng lo ngại nhất là những thủ tục liên quan đến “sức nặng vật chất“ mua bán chuyển nhượng nhà cửa, đất đai, tài sản …
Nhiều thủ tục và cung cách làm việc của các cơ quan công quyền đang nhũng nhiễu người dân và các doanh nghiệp. Trước tình hình ấy Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp nêu rõ:
Tiến hành ngay việc rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định nội bộ về quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây phiền hà cho việc tiếp nhận và xử lý công việc của người dân và doanh nghiệp; kiên quyết loại bỏ những khâu trung gian, những thủ tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết; Phải thiết lập cho được cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên, độc lập, khách quan trong nội bộ, khắc phục tình trạng khép kín, thiếu công khai, minh bạch dễ phát sinh tiêu cực trong việc giải quyết các thủ tục hành chính với người dân và DN.
Song song với biện pháp trên, phải công bố công khai các số điện thoại đường dây nóng, địa chỉ hộp thư điện tử của cơ quan, đơn vị, tổ chức mình để tiếp nhận các góp ý về quy trình, thủ tục; các thông tin, vướng mắc của cá nhân, tổ chức đối với những việc làm sai trái, sách nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà của cán bộ, công chức, viên chức. Phân công trách nhiệm cụ thể trong việc theo dõi, ghi nhận đầy đủ các thông tin, góp ý, xây dựng quy chế thẩm tra, xác minh, xử lý kịp thời và công bố công khai kết quả xử lý.
"Tập trung đẩy mạnh cải cách TTHC, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp.
Tiến hành rà soát tất cả các TTHC trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, quy định sai pháp luật, không phù hợp để kiên quyết sửa đổi".
Trích NQ Hội nghị TW 5 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Theo tin từ Bộ Nội vụ, trong quý 1-2007, 11 bộ, ngành đã tập trung rà soát thủ tục hành chính, làm rõ những thủ tục cần thực hiện và thủ tục cần loại bỏ theo hướng tạo thuận lợi nhất cho dân, doanh nghiệp.
Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ hoàn toàn 33 giấy phép; bãi bỏ, thay thế 9 giấy phép khác.
Về thủ tục thành lập doanh nghiệp, giải thể, phá sản doanh nghiệp, qua rà soát cho thấy nhiều thủ tục đã được cải cách.
Bộ Xây dựng tập trung rà soát thủ tục hành chính về xây dựng cơ bản, giấy phép xây dựng, sở hữu nhà, thanh tra xây dựng; thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng đã được phân cấp mạnh cho địa phương, hồ sơ đã đơn giản hóa và thời gian xét cấp giấy phép xây dựng được quy định cụ thể.
Bộ Công an đã chú ý giảm các thủ tục, điều kiện đăng ký thường trú. Việc thông báo lưu trú cũng được thuận lợi hơn, công dân có thể đến trực tiếp hoặc thông báo qua điện thoại.
Theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Nội vụ, từ đầu năm đến nay, cải cách hành chính (CCHC) đã được đẩy mạnh hơn, hướng vào các trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và phân cấp. Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, cải cách thủ tục hành chính (TTHC) đã có bước chuyển biến rõ rệt. Mới nhất và sôi động nhất hiện nay là việc đăng ký, quản lý hộ khẩu; cấp CMND. Đây là những lĩnh vực liên quan nhiều, trực tiếp với công dân. Cơ quan có trách nhiệm trong việc này là Bộ Công an, đã có nhiều cải tiến quy trình, đơn giản hoá các yêu cầu về thủ tục giải quyết hồ sơ tạo thuận lợi, giảm thời gian cho người dân. Riêng việc đăng ký và quản lý hộ khẩu, Luật Cư trú và Nghị định 107/CP ngày 25.6.2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú đã đơn giản hoá và quy định rõ các thủ tục, điều kiện đăng ký hộ khẩu, đã làm thay đổi trong nhận thức và xử lý vấn đề hộ khẩu của công dân từ phía các cơ quan Nhà nước.
Công tác cấp CMND cũng là nét nổi bật của cải cách TTHC trong thời gian qua. Thực tế triển khai việc này, công an một số địa phương đã cử Tổ cấp CMND xuống cơ sở, làm ngoài giờ vào thứ 7, Chủ nhật. Bộ Công an đang nghiên cứu phân cấp cho Công an cấp huyện được cấp CMND. Thực hiện sự phân cấp này có thể giảm được 1/3 thời gian. Công an TP. Hồ Chí Minh cũng đang nghiên cứu thí điểm thực hiện liên thông giữa đăng ký hộ khẩu và cấp CMND, người dân có thể làm luôn thủ tục cấp CMND khi làm đăng ký hộ khẩu, mà không mất thời gian đi lại và khai thêm tờ khai như hiện nay. Thủ tục cấp đăng ký phương tiện giao thông cũng được rút gọn, đơn giản hoá, giảm được nhiều phiền hà cho người dân.
4- Phương hướng,định hướng,giải pháp:
Cải cách hành chính mà trước hết là cải cách thủ tục đang là yêu cầu bức bách. Nhưng cải cách theo mô hình nào để đạt hiệu quả và nên nghiệm của ai?
Một chuyên gia hàng đầu của VNCI giới thiệu phương pháp “máy xén chính sách” trong việc cải cách hành chính, nghĩa là loại bỏ những chính sách không c
òn phù hợp hoặc chồng chéo nhau.
Chúng ta cũng đã từng rà soát xóa bỏ những văn bản quy định không còn phù hợp nhưng chỉ mới tiến hành trong từng lĩnh vực cụ thể mà thiếu sự phối hợp đồng bộ và kiên quyết nên chẳng đến đâu. Chẳng hạn như khi triển khai Luật Doanh nghiệp, tổ thi hành Luật Doanh nghiệp đã rà soát đề nghị Chính phủ bỏ hàng loạt “giấy phép con”. Các nhà đầu tư trong nước phấn khởi bỏ vốn ra làm ăn.
Hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời. Tiếc là do thiếu sự phối hợp đồng bộ và không kiên quyết nên không ít bộ, ngành có liên quan và nhiều địa phương khôi phục lại “giấy phép con” khiến giới doanh nhân kêu trời.
Chính vì vậy, tại cuộc hội thảo này, các chuyên gia kinh tế trong nước cho rằng nếu VN áp dụng phương pháp “máy xén chính sách” thành công chắc chắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giảm đáng kể chi phí và rủi ro. Và như vậy sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thu hút đầu tư từ bên ngoài nhiều hơn, tạo được nhiều việc làm cho người lao động.
Giải pháp để cải cách thủ tục hành chính hiệu quả
09/12/2007
Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 136/2004/QĐ-TTg về Chương trình tổng thể cải cách hànà nước 10 năm (2001-2010). Cải cách nền hành chính quốc gia gắn liền với nhiệm vụ cải cách về thể chế; Cải cỏch về tổ chức bộ máy; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức...
Một trong những nhiệm vụ của cải cách thể chế là cải cách về thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá các loại giấy tờ; rút ngắn thời gian giải quyết; tránh sự phiền hà, nhũng nhiễu của đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tiếp nhận và giải quyết công việc cho công dân, tổ chức. Trong những năm qua, cải cách thủ tục hành chính được thực hiện ở tất cả các khâu có liên quan. Quy chế “một cửa, một dấu” được áp dụng hầu hết trong các lĩnh vực: Đất đai, xây dựng, nhà ở, cấp phép kinh doanh, đầu tư... bước đầu có hiệu quả. Nhiều nơi, thủ tục hành chính còn được giải quyết theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin như: Quy trình thông quan điện tử áp dụng ở các cơ quan hải quan, cảng biển; Áp dụng tiêu chuẩn ISO vào công tác quản lý; Xây dựng cơ chế “một cửa mẫu” ở một số cơ quan hành chính. Các cơ quan hành chính nhà nước bố trí cán bộ làm việc vào thứ bảy hàng tuần để giải quyết yêu cầu của công dân, tổ chức. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện thủ tục hành chính vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Mặc dù các văn bản pháp luật quy định rất rõ quy trình giải quyết các thủ tục hành chính, các loại giấy tờ cần đáp ứng trong hồ sơ, thời gian giải quyết, lệ phí... nhưng việc thực hiện không hoàn toàn tuân thủ pháp luật. Điều này lý giải tại sao những nỗ lực trong thời gian qua của Chính phủ, cũng như các Bộ, ngành và địa phương chưa đạt kết quả như mong muốn. Trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho công dân, tổ chức còn tồn tại nhiều bất cập. Không phải cơ quan nào cũng các loại tài liệu, giấy tờ cần phải có trong bộ hồ sơ để giải quyết thủ tục hành chính cho công dân, tổ chức. Khi công dân, tổ chức cần tìm hiểu thủ tục hành chính thì không phải ở đâu, lúc nào cũng nhận được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng của cơ quan có thẩm quyền
Đặc biệt, một yếu tố quan trọng để các quy định về thủ tục hành chính thực hiện có hiệu quả là người trực tiếp áp dụng các quy định để giải quyết thủ tục hành chính cho công dân phải có trách nhiệm cao. Nhưng hiện nay, tính quan liêu, hách dịch, cửa quyền vẫn chưa được khắc phục triệt để. Mặc dù mức phí, lệ phí giải quyết thủ tục hành chính được niêm yết công khai, nhưng trên thực tế, để các cơ quan giải quyết nhanh thì công dân, tổ chức phải mất một khoản tiền gấp nhiều lần số phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước. Có trường hợp, công dân, tổ chức làm thủ tục hành chính, do không biết có “lệ” nên phải đi lại nhiều lần. Để khắc phục những bất cập trên, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, cần công khai, minh bạch các loại thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, tổ chức tiếp cận, tìm hiểu thông tin, chuẩn bị đầy đủ giấy tờ cần thiết trong hồ sơ. Trước hết, cần niêm yết đầy đủ những giấy tờ cần có khi giải quyết thủ tục hành chính và quy trình giải quyết thủ tục hành chính tại nơi tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa” để công dân, tổ chức biết. Mẫu hoá các loại giấy tờ, thủ tục hành chính và đưa lên Website của Chính phủ, Bộ, ban ngành, UBND cấp tỉnh, Sở, ban, ngành, quận, huyện để công dân, tổ chức dễ dàng tiếp cận. Xây dựng và triển khai đồng bộ quy trình tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua phương tiện điện tử. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung về thủ tục hành chính, đăng tải văn bản pháp luật về thủ tục hành chính, các loại giấy tờ, quy trình tiếp nhận và giải quyết từng loại thủ tục hành chính. Đối với những thủ tục hành chính do nhiều cơ quan giải quyết, thì mỗi cơ quan, ngoài việc thực hiện các yêu cầu chung, cần hướng dẫn cho công dân, tổ chức đến liên hệ với cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, xây dựng quy chế phối hợp trong việc giải quyết loại thủ tục hành chính theo hướng một cơ quan chịu trách nhiệm chính để thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng. Nên thống nhất để một cơ quan giải quyết thủ tục hành chính về đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Khi lựa chọn cán bộ trực tiếp tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính cần phải định ra tiêu chí về kiến thức chuyên môn, kỹ năng giải quyết công việc và cả đạo đức nghề nghiệp... Xây dựng quy chế giám sát cán bộ làm việc ở bộ phận “một cửa”, trong đó cần làm rõ các vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ; những việc được làm, không được làm trong khi tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính; trách nhiệm hướng dẫn thực hiện thủ tục hành chính cho công dân, tổ chức; thái độ ứng xử khi tiếp xúc với công dân, tổ chức. Quy chế này cần được minh bạch tại nơi tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính để công dân, tổ chức và đội ngũ cán bộ có trách nhiệm giải quyết thực hiện. Ngoài ra, cũng cần xây dựng hòm thư tiếp nhận ý kiến phản ánh của công dân, tổ chức về quá trình thực hiện thủ tục hành chính tại bộ phận Ban chỉ đạo cải cách hành chính để làm căn cứ đánh giá quá trình triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính ở từng cấp; Kịp thời biểu dương những địa phương làm tốt và có biện pháp xử lý thích đáng đối với những cán bộ nhũng nhiễu, hạch sách, cửa quyền. Thực hiện những giải pháp trên để xây dựng một nền hành chính thực sự hiệu quả, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
NĂM GIẢI PHÁP THỰC HIỆN - Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành. - Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị. - Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ từ Trung ương tới địa phương. - Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực. - Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA12.docx