Tiểu luận Chính sách kinh tế mới và công cuộc đổi mới ở Việt nam

NEP của V.I. Lênin ra đời ở nước Nga năm 1921, đến nay đã 80 năm nhưng nó vần còn có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới sâu sắc toàn diện hiện nay của nước ta. Khó có thể đánh giá hếu được ý nghĩa lịch sử vĩ đại của tư tưởng V.I. Lênin về xây dựng CNXH nói chung, về NEP nói riêng. Ý nghĩa to lớn đó được thể hiện ở những luận điểm chủ yếu sau đây: 1. Chúng ta đều dễ nhận thấy có nhiều trùng hợp về những vấn đề được đặt ra và cách giải quyết chúng giữa NEP và công cuộc đổi mới những năm qua ở nước ta. Trùng hợp không chỉ về các giải pháp tiền hành để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn trùng hợp trên những nguyên tắc và nhiều nội dung hết sức chủ yếu của con đường đi lên CNXH.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1664 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách kinh tế mới và công cuộc đổi mới ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Di sản lý luận mà V.I Lê nin để lại cho nhân loại là vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong những di sản quý báu đó là "chính sách kinh tế mới" (Novaja ekonomicheskaja politika, gọi tắt là NEP). NEP chứa đựng trong đó sự tổng hợp các giải pháp kinh tế - xã hội - chính trị mang tính quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH. NEP không chỉ là con đường xây dựng CNXH ở nước Nga mà tầm vóc lịch sử của nó đã vượt ra khỏi phạm vi nước Nga và mang tính phổ biến trên thế giới. Những năm gần đây, trên thế giới có nhiều biến động dữ dội, nhất là từ sự đổ vỡ chế độ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Việt Nam sau hơn một thập kỷ khủng hoảng kinh tế - xã hội, từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986), đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước. Tinh thần đổi mới của Đại hội VI đã đồng nghĩa với sự giải phóng tiềm năng của con người Việt Nam. Quá trình đổi mới ở Việt Nam là quá trình định hướng đi lên XHCN. Thực chất của quá trình định hướng XHCN là giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, con người hạnh phúc. Quá trình đổi mới càng diễn ra trên quy mô rộng và càng đi vào chiều sâu, thì chúng ta càng nhận ra rằng , trên nhiều vấn đề cơ bản chúng ta dường như đang trở lại với NEP (tất nhiên không phải trở lại nguyên xi như cũ, áp dụng một cách máy móc những điều mà nước Nga đã làm trước đây vào Việt Nam ngày hôm nay). Vấn đề đặt ra là phải nhận thức lại một cách đầy đủ hơn về NEP, từ đó tìm ra những tiềm ẩn, những sức mạnh, những bài học cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu NEP trong tình hình hiện nay là đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa đáp ứng được những đòi hỏi đang đặt ra từ thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ vị trí quan trọng của NEP, có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ khi ra đời đến nay, NEP đã được giới khoa học ở các nước, nhất là các nhà khoa học ở Liên Xô cũ quan tâm nghiên cứu. ở nước ta trước đây cũng có một số nhà khoa học nghiên cứu về NEP, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) việc nghiên cứu NEP được quan tâm nhiều hơn. Nét nổi bật của các công trình nghiên cứu là đã đề cập tới nhiều nội dung của NEP dưới nhiều góc độ của lịch sử, chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhất là dưới góc độ kinh tế chính trị. Với các lý do nêu trên bài chuyên đề “Chính sách kinh tế mới và công cuộc đổi mới ở Việt nam” này muốn làm sáng tỏ về hoàn cảnh lịch sử ra đời của NEP và một số vấn đề của NEP trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tháng 09 năm 2001 --- o0o --- Chương I Chính sách kinh tế mới là bước phát triển tất yếu của công cuộc xây dựng nước nga I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của NEP 1. Các điều kiện khách quan: Trong lịch sử của nước Nga Xô viết từ năm 1921 - 1927, NEP được xuất hiện như một hiện tượng lịch sử - tự nhiên, trong đó được chứa đựng sự thống nhất biện chứng của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Trước hết, chúng ta thấy NEP xuất hiện là do hậu quả của các cuộc chiến tranh. Vừa ra đời, còn non trẻ nhưng nước Nga Xô viết đã phải đối đầu với hai cuộc chiến tranh liên tiếp: Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) và cuộc nội chiến ở nước Nga kéo dài 4 năm (1917-1921). Mặc dù là chiến tranh vệ quốc, song những cuộc chiến tranh đó đã gây ra cho nước Nga Xô viết non trẻ những sự tàn phá nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần. a- Về kinh tế: Các cuộc chiến tranh đã tàn phá một cách ghê gớm nền kinh tế quốc dân, ảnh hưởng đến đời sống vật chất của nhân dân nước Nga. Cuối năm 1920, đất nước Xô - viết chuyển sang giai đoạn hoà bình xây dựng từ những điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ với sự thiệt hại chưa từng có về kinh tế do chiến tranh gây ra. Hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế xã hội của nước Nga Xô viết trở nên nóng bỏng biểu hiện rõ nét ở nhiều mặt sau: * Về công nghiệp: ước tính một phần tư tài sản quốc dân của nước Nga Xô viết bị mất đi, trong đó nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất, tổng sản lượng công nghiệp (tính triệu rúp) năm 1920 bị giảm đi hơn 4 lần so với năm 1917. Lực lượng sản xuất giảm sút, một biểu hiện đáng lo ngại là có quá nửa số công nhân trong các ngành công nghiệp thiếu việc làm, không phấn khởi sản xuất và đã bỏ nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp của mình đi về nông thôn. * Về nông nghiệp: Sự biến động của nền kinh tế nước Nga đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền sản xuất công nghiệp: diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều bị giảm mạnh dẫn đến hậu quả tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921 chỉ còn lại 60% so với năm 1913. Bình quân lương thực trên đầu người trước chiến tranh thế giới là 405 kg/người thì đến năm 1920 giảm xuống chỉ còn lại 246 kg/người. * Về giao thông vận tải: Do chiến tranh, hệ thống giao thông của nước Nga bị tàn phá hết sức nghiêm trọng: 61% số đầu máy và 28% số toa xe của tàu hoả bị tàn phá hư hỏng, 4000 chiếc cầu, nhà ga, kho tàng bị phá huỷ. Năm 1920, khối lượng vận chuyển chỉ còn 20%. * Về tài chính - tín dụng: Nước Nga - Xô viết bị lâm vào tình trạng rối loạn, ngân sách bội chi quá lớn (năm 1918 bội chi 31 tỷ rúp, nhưng đến năm 1920 con số bội chi lên tới 21.937 tỷ rúp). b- Về chính trị - xã hội: Sự sút kém về mặt kinh tế đã dẫn đến tình trạng đời sống của nhân dân lao động nước Nga ngày càng trở nên khó khăn hơn. * Trong thời kỳ nội chiến nước Nga phải thực hiện CSCSTC, tất nhiên đã gây ra những thiệt hại về lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân. Mặc dù như vậy, nhưng những sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất cũng chưa gây nên sự mỏi mệt về tinh thần, bởi vì quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp phần vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng và giữ vững chính quyền của nhân dân, bảo vệ những thành quả cách mạng tháng Mười vĩ đại. * Bên cạnh những hậu quả do chiến tranh gây ra, bản thân nước Nga khi lên chủ nghĩa xã hội với một nền kinh tế tương đối lạc hậu: là sự quyện chặt giữa tư bản độc quyền hiện đại với những tàn tích phong kiến. Biểu hiện của quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chính là nền nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. ở nước Nga lúc này, nông dân chiếm 82,4% dân số, sản phẩm nông nghiệp chiếm 51,4% tổng thu nhập quốc dân. 2. Điều kiện chủ quan. Bên cạnh các điều kiện và nguyên nhân khách quan, về mặt chủ quan, thì thời gian này ngay cả V.I. Lênin trong nhận thức về CNXH cũng đã vấp phải những sai lầm: do đã không nhận thức rõ các quy luật khách quan, nên việc xác định các chủ trương chính sách có phần không phù hợp, nóng vội và đốt cháy giai đoạn. Cụ thể, trong những năm tháng sau cách mạng tháng Mười do hoàn cảnh khách quan mà nước Nga phải áp dụng CSCSTC đã hình thành quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp đi lên CNXH. Từ quan niệm này đã xuất hiện hàng loạt chủ trương, biện pháp không thích hợp như: quốc hữu hoá ngay tất cả các xí nghiệp, xoá bỏ thương nghiệp tư nhân, cấm buôn bán, thực hiện ngay việc sản xuất và phân phối theo kiểu cộng sản chủ nghĩa… dẫn đến cuộc khủng hoản kinh tế - xã hội. Cuộc khủng hoảng này đã đặt vận mệnh của nước Nga Xô - viết non trẻ vào tình trạng "nghìn cân treo đầu sợi tóc". Chúng ta có thể nhận thấy rằng: Những điều kiện khách quan kết hợp với nhân tố chủ quan chính là tiền đề trực tiếp dẫn đến sự ra đời của NEP. NEP chính là phản ánh tiến trình phát triển hợp qui luật của đời sống xã hội. II- Sự ra đời của chính sách kinh tế mới. NEP là một khái niệm không có nghĩa như một vài chính sách kinh tế cụ thể, ở đây nó mang ý nghĩa bao trùm. Đó chính là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước kinh tế còn lạc hậu như nước Nga. Khi dùng khái niệm NEP, V.I. Lênin còn có ý định để phân biệt NEP với CSCSTC. ở đây người muốn nhấn mạnh yếu tố kinh tế trong quan hệ với các yếu tố khác. NEP vừa là giải pháp trước mắt để chống khủng hoảng đồng thời là một nội dung mới có tính chiến lược lâu dài. Từ các biện pháp mang tính mang tính chất trực tiếp đi lên CNXH ở trong CSCSTC đã được thay bằng các biện pháp gián tiếp thông qua những hình thức kinh tế quá độ, từ việc xoá bỏ thương nghiệp chuyển sang khôi phục thương nghiệp và thực hiện trao đổi hàng hoá thông qua lưu thông, sử dụng lại đồng tiền. Việc mở ra và đẩy mạnh sản xuất hàng hoá dưới CNXH, tiến hành trao đổi hàng hoá hai chiều đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp và nhằm cải thiện đời sống của nhân dân. Việc đi lên CNXH thông qua con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước và hợp tác xã là một bước phát triển mới sáng tạo về tư duy lý luận của V.I.Lênin. Vì vậy, khi tiếp cận với các nội dung của NEP, hãy xuất phát từ cách nhìn nhận theo quan điểm hệ thống, có nghĩa là phải nhìn rõ các mối quan hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu đem tách riêng từng nội dung, từng vấn đề ra thì không thể nhận thức được một cách đầy đủ về NEP, thậm chí có thể hiểu sau nội dung của nó. III. nội dung và mục tiêu của chính sách kinh tế mới 1. ổn định kinh tế Bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng, nhân dân nước Nga phấn đấu để thực hiện mục tiêu mà NEP đã nêu ra: Quyết tâm bảo vệ và xây dựng thành công CNXH ở nước Nga. Nhằm làm cho nước Nga trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, nền quốc phòng vững mạnh, đời sống nhân dân được ngày càng ấm no hạnh phúc. Đó là mục tiêu lớn, bao trùm suốt thời kỳ quá độ. Mục tiêu đó lại được thể hiện trong các bước đi cụ thể mà NEP đã vạch ra: + Thực hiện tốt chính sách thu thuế lương thực +Khôi phục, phát triển hàng hoá trong nông nghiệp +Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp + Củng cố mở rộng thương nghiệp XHCN +Củng cố nền tài chính Xô viết và ổn định tiền tệ 2. ổn định chính trị Chính trị là sự biểu hiện tập trung của nền kinh tế với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Chính trị sẽ do cơ sở kinh tế quyết định về nội dung, tính chất, mục tiêu, nguyên tắc… Do tình hình kinh tế - xã hội của nước Nga sau chiến tranh đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn, phù hợp hơn nên V.I.Lênin đã chuyển sang thực hiện NEP. Đặc trưng của nó là chính sách thuế lương thực, ra sức phát triển thương nghiệp và phát huy tính chủ động của tư nhân trong việc xây dựng và quản lý nền sản xuất xã hội, giải quyết khó khăn của đất nước. Xuất phát từ cái cốt lõi là giai cấp vô sản phải giành được chính quyền về tay mình, cho nên, từ đấu tranh kinh tế đến các hình thức đấu tranh khác cũng chỉ tập trung lại và là sự biểu hiện của cuộc đấu tranh chính trị. Bởi chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, trọng tâm chính trị chuyển dần vào lĩnh vực kinh tế, chính trị ở ngay trong kinh tế. V.I. Lênin còn nhấn mạnh:" Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng được lúa mì và than đó có hợp lý hơn sao cho không còn người đói". 3.kích thích vật chất và tinh thần. Nếu trong CSCSTC lợi ích của người lao động, trước hết là lợi ích vật chất, chưa được quan tâm một cách thích đáng. Chủ nghĩa bình quân đã không kích thích được tính năng động của người lao động, chưa khai thác hết tiềm năng của các lực lượng sản xuất. Để khắc phục tình trạng này, trong NEP, V.I. Lênin đã nêu bật vai trò của các loại lợi ích, lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân có vai trò hết sức quan trọng. Chúng là động lực thúc đẩy con người hoạt động: 1. Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy con người hoạt động ở mọi quy mô mọi cấp độ của xã hội. 2. Các quan hệ kinh tế biểu hiện tập trung thành quan hệ lợi ích kinh tế được phản ánh thành nội dung chi phối đời sống chính trị, tư tưởng của xã hội. 3. Lợi ích kinh tế là cơ sở, là nền tảng cho việc hình thành và giải quyết các lợi ích khác nhau của con người. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hoá lợi ích kinh tế (vật chất), biến nó thành cái duy nhất. Mặt khác, nếu không thấy lợi ích kinh tế, hoặc hạ thấp vai trò của nó, sẽ phủ nhận nguyên tắc khuyến khích vật chất, triệt tiêu động lực của con người, triệt tiêu động lực phát triển xã hội. Dưới chế độ xã hội mới, không chỉ có các lợi ích kinh tế đóng vai trò động lực mà các nhân tố kích thích tinh thần trong lao động cũng có một ý nghĩa quan trọng. 4. Kích thích vật chất và tinh thần điều quan trọng là quan tâm và chú ý thoả đáng đến lợi ích cá nhân người lao động. Nếu không thực hiện tối loị ích cá nhân người lao động thì sẽ khó mà thực hiện các lợi ích khác. Lợi ích cá nhân người lao động trở thành lợi ích trực tiếp và xuất phát để thực hiện các lợi ích khác trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. --- o0o--- Chương II chính sách kinh tế mới đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam. I. Đặc điểm của hai dân tộc khi vận dụng nep Thắng lợi của công cuộc đối mới trên đất nước ta mới chỉ là bước đầu. Trước mắt cũng như lâu dài, để thực hiện công cuộc đổi mới thắng lợi hoàn toàn, Đảng ta, nhân dân ta còn phải trải qua nhiều gian khổ, gay go và quyết liệt. Nước Nga - Xô Viết và Việt Nam vốn là hai dân tộc: cách xa về địa lý, dân số, phong tục tập quán, truyển thống văn hoá.v.v.. Nhưng trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, đặc biệt trong công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước - xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cả hai dân tộc, lại có những điểm tương đồng và khác biệt. 1. Những điểm tương đồng 1. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cả nước Việt Nam và nước Nga đều mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài với sự tàn phá hết sức nặng nề. 2. Cả hai nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều nằm trong tình hình kinh tế chưa phát triển. ở nước Nga, theo V.I. Lênin, chủ nghĩa tư bản mới phát triển ở mức trung bình. Còn ở Việt Nam, chủ nghĩa tư bản chỉ mới có mầm mống: một số nhà tư bản dân tộc vốn liếng chưa đáng kể, còn một cơ sở sản xuất nhỏ do bọn tư bản nước ngoài để lại nằm trong tình trạng thiếu thốn, què quặt. 3. Tuy có khác nhau về mức độ, nhưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ở nước Nga - Xô Viết (năm 1921) cũng như khi bước vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam (năm 1986), đời sống nhân dân đều gặp rất nhiều khó khăn, tình hình xã hội thiếu sự ổn định, nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh. 4. ở nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và ở Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Mặc dù ở hai thời điểm lịch sử khác nhau, thời gian cách xa nhau hơn sáu thập kỷ, nhưng trong nhận thức, lý luận cung như trong chỉ đạo thực tiễn của những người cộng sản cả hai nước đều có những điểm sai lầm chủ quan. 2. Những nét khác biệt: Trên cơ sở phân tích những nét khác biệt để làm sáng tỏ sự sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và NEP nói riêng. Do có sự khác biệt, nên việc vận dụng bao giờ cũng phải sáng tạo, không thể vận dụng nguyên xi, máy móc, cứng nhắc, rập khuôn. a. Các đặc điểm bên trong mỗi nước: Mặc dù, nước Nga, như Lênin đã nhận xét khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tuy chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức trung bình, là một nước mà sự phát triển kinh tế kém nhất Châu Âu, song so với Việt Nam, điểm xuất phát đi lên CNXH của nước Nga vẫn cao hơn nhiều. Mặt khác, muốn đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại ở trình độ cơ khí hoá, hoá học hoá, tự động hoá, một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, v.v trước hết phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi về chuyên môn, giỏi về quản lý mới đủ sức để vận hành nền sản xuất đưa lại năng suất lao động cao. Nhưng ở nước Nga trước đây, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, đội ngũ chuyên gia này thiếu nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Lênin đã phải dùng biện pháp thuê chuyên gia các nước tư bản với mức lương rất cao. Song, làm việc cũng rất khó khăn, vì nằm trong sự bao vây của các nước tư bản. Điều quan trọng trên đây lại được khẳng định trong lời nói của Người: Sẵn sàng đổi một tá những người cộng sản tồi để lấy một chuyên gia tư sản giỏi. Còn ở nước ta bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, chúng ta đã có thuận lợi hơn nhiều so với nước Nga trước đây. Mặc dù, trong cuộc chiến tranh kéo dài, nhưng Đảng ta cũng đã dự đoán trước ngày thắng lợi, do đó có sự chuẩn bị trước đội ngũ cán bộ để sau này xây dựng đất nước. Vì vậy đến nay, nước ta đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề khá đông đảo. b. Thế giới và thời đại: Ngoài những nét khác biệt có tính chất bên trong của mỗi nước, chúng ta còn thấy có những nét khác biệt về tình hình thế giới cũng như sự phát triển chung của mỗi thời đại (bên ngoài). Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đên việc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia, dân tộc. Nước Nga- Xô Viết xây dựng CNXH trong một thời điểm mà cả thế giới chưa ai làm. Chủ nghĩa đế quốc lại có âm mưu cấu kết cấu với bọn phản động trong nước hòng bóp chết ngay từ đầu CNXH còn non trẻ. Chẳng những chúng muốn tiêu diệt cách mạng nước Nga mà còn ngăn chặn sự phát triển của CNXH trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam hiện nay, mặc dù hệ thống XHCN trên thế giới đã bước vào một giai đoạn biến đổi sâu sắc (sự sụp đổ của CNXH ở các nước Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô). Về một phương diện nào đó, chúng ta không tránh khỏi sự xao xuyến, nếu như không muốn nói là dao động trong nhận thức, trong tư tưởng, trong niềm tin về CNXH. Không chỉ ở trong một bộ phận của nhân dân, mà ngay cả không it những người cộng sản. Thế nhưng, so với nước Nga - Xô Viết trước đây, dẫu sao những thành tựu của CNXH vẫn còn in đậm trong nhân dân, trong những người cộng sản chân chính. ii. Sự vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam. Sự vận dụng NEP vào công cuộc đổi mới của nước ta được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây: Quá trình đổi mới ở Việt Nam là quá trình định hướng XHCN. Thực chất của quá trình định hướng XHCN là giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, con người hạnh phúc. Có một điều lý thú là khi sự nghiệp đối mới càng phát triển, thì chúng ta càng nhận ra rằng, trên nhiều vấn đề cơ bản, chúng ta dường như đang trở lại với NEP của Lênin. NEP đã có tác dụng chuyển nền kinh tế theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, đặc biệt là quan hệ trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, dùng động lực kinh tế, lợi ích kinh tế , lợi ích người lao động là chủ yếu để phát triển kinh tế. Xây dựng các hình thức quản lý kinh tế mềm dẻo hơn, phát huy tính năng động sáng tạo của cơ sở với việc tiến hành kế hoạch hoá thống nhất nền kinh tế. Xây dựng một hệ thống tài chính, tín dụng và tiền tệ ổn định. Tiến hành đồng bộ các biện pháp, các đòn bẩy nhằm mục tiêu phát triển kinh tế. Xây dựng đội ngũ của cán bộ lãnh đạo kinh tế kiểu mới: biết phân tích kinh tế, thực hiện mục tiêu và hạch toán kinh tế. Từ phát triển kinh tế, tiến hành giải quyết các vấn đề khác của xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội. Thực chất những giá trị phổ biến của NEP đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam có thể nêu lên ở một số điểm như sau: Một là, phải thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, nhưng phải lấy phát triển kinh tế làm trung tâm. Hai là, phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển kinh tế nhiều thành phần. Ba là, phải chú ý tới tính biện chứng của nhiệt tình cách mạng và lợi ích vật chất. Bốn là, phải đổi mới phương pháp lãnh đạo - quản lý kinh tế - xã hội. Ngày nay, Việt Nam đang đổi mới, chúng ta không sao chụp và bê nguyên NEP vào cuộc đời đã phát triển hôm nay, nhưng chúng ta đang tìm thấy ở NEP những tiềm ẩn, những sức mạnh để khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của đất nước, mọi tiềm năng của con người Việt Nam trong quá trình định hướng XHCN. Thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc. Tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, phát huy quyền làm chủ của dân, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại và không ngừng nâng cao uy tín và vị trí của nước ta trên trường quốc tế, v.v --- o0o --- Chương III Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng NEP trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi mới đó là một cuộc cách mạng, mỗi bước đi của nó là một sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận nền tảng cho sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ này, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, NEP và những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP đã được chúng ta nhìn nhận lại và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta. I. NEP với tư cách là cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Khi đề cập đến vấn đề này, trước hết chúng ta cần khẳng định rằng với NEP, V.I.Lênin đã đem lại cho chúng ta tư tưởng về con đường quá độ đặc biệt - quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, từ nền kinh tế tiểu nông, sản xuất hàng hoá nhỏ. Tư tưởng của V.I.Lênin về con đường quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội đó đã trở thành cơ sở lý luận xuất phát và phương pháp luận của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước lạc hậu, trong đó có Việt Nam. Với tư tưởng đó, trong bối cảnh của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội VI của Đảng, chúng ta đã nhận rõ nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng, chủ quan duy ý chí của chủ trương "tiến nhanh, tiến thẳng" lên chủ nghĩa xã hội trong những năm trước đổi mới ở nước ta. Khi đó, với mục đích đúng đắn là nhanh chóng nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp (đúng, vì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông, chúng ta không thể không đặt ra mục đích đó), song biện pháp và bước đi lại quá vội vàng, chúng ta đã quá vội tiến hành hợp tác hoá và xây dựng các hợp tác xã bậc cao, bất chấp quy luật phát triển khách quan của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta, và do vậy, kết quả mang lại đã không được như ý muốn. Chúng ta đã thiếu quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và có lẽ phần nào đã không đánh giá đúng một luận điểm quan trọng của V.I.Lênin trong NEP - luận điểm về tính không khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu quả của việc làm đó không chỉ ở chỗ, sản xuất nông nghiệp không phát triển, mà còn ở chỗ, niềm tin của người nông dân vào con đường làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút do lợi ích kinh tế của họ không được đáp ứng, đời sống của họ ít được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và các lĩnh vực sản xuất khác, tình hình cũng diễn ra một cách tương tự như vậy. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong những năm trước đây và ở các nước xã hội chủ nghĩa khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa những năm qua cho thấy rõ, NEP là mẫu mực về một giải pháp tình thế và đối với nước ta, NEP còn là đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Và kinh nghiệm thực hiện NEP ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn là bài học bổ ích cho chúng ta trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện thời. Thật vậy, những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP nói chung, quan điểm của ông về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nói riêng, vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa lớn lao của nó trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước, nhất là kinh nghiệm thực tiễn của những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong những năm vừa qua, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định lập trường kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP và quan niệm của ông về việc thực hiện NEP trên thực tế là một trong những cơ sở lý luận của đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay. Đường lối đổi mới đó cho phép chúng ta từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiều nông, sản xuất hàng hoá nhỏ và làm rõ thêm những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ đổi mới tư duy mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta ngày càng ý thức rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của NEP trong giai đoạn thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông. Với NEP, chúng ta đã nhận ra rằng nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm đã mắc phải trong việc lãnh đạo và quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới là đã xa rời những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP ở một mức độ nhất định nào đó. Rằng đó là những sai lầm do chủ quan, duy ý chí, bất chấp và coi thường quy luật khách quan. Những sai lầm đó hoàn toàn có thể tránh được, có thể sửa chữa được một khi nắm vững những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP, vận dụng NEP không phải trên câu chữ, mà ở chiều sâu của tư duy lý luận triết học - kinh tế của ông, áp dụng không theo lối "sao chép y nguyên" mà là trên tinh thần, ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm của việc thực hiện NEP để từ đó, tự suy nghĩ về những giải pháp cụ thể cho mỗi giai đoạn, mỗi bước đi phù hợp với bối cảnh lịch sử - cụ thể trong từng giai đoạn, từng bước đi ấy. II. NEP với vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản của NEP và những tư tưởng của V.I.Lênin về việc thực hiện NEP cho thấy, vấn đề vận dụng NEP trong bối cảnh của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, trước hết chúng ta phải tính đến sự khác biệt về bối cảnh lịch sử - cụ thể. Thời kỳ thực hiện NEP ở nước Nga đầu những năm 20 so với việc vận dụng NEP ở nước ra hiện nay là cả một khoảng thời gian khá dài. Song, vấn đề kinh tế - xã hội mà NEP đã giải quyết thành công ở nước Nga khi đó, có thể nói, lại khá gần gũi với những vấn đề mà hiện chúng ta đang phải giải quyết. Đương nhiên, bối cảnh lịch sử - cụ thể ở nước Nga đầu những năm 20 cũng như tình hình quốc tế ở thời kỳ đó không giống với thực tiễn lịch sử ở nước ta hiện nay và bối cảnh quốc tế hiện thời. Trong bối cảnh hiện thực đó, việc vận dụng NEP ở nước ta hiện nay trước hết phải nhằm mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Và để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nhiệm vụ cụ thể trước mắt là giải quyết một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và nông dân trong bối cảnh của nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ, lạc hậu, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm củng cố mối liên minh kinh tế công nông đã được hình thành từ lâu trong tiến trình phát triển cách mạng ở nước ta, tạo điều kiện để nâng cao dần mức sống và chất lượng sống cho quần chúng nhân dân. Vận dụng NEP đòi hỏi phải sử dụng đúng đắn quy luật giá trị, quan hệ hàng - tiền, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán và kinh doanh tư nhân trên cơ sở thiết lập sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ hợp lý. Thêm vào đó, về mặt phương pháp lãnh đạo và quản lý kinh tế, chúng ta cần dứt khoát từ bỏ phương pháp lãnh đạo và quản lý theo lối mệnh lệnh, hành chính, từ bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang phương pháp kinh tế là chủ yếu, lấy hiệu quả kinh tế làm chính, trên cơ sở kết hợp giải quyết một cách có căn cứ lý luận và thực tiễn những vấn đề cấp bách với những vấn đề mang tính chiến lược lâu dài. Về việc áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước và cho phép tồn tại kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện đang còn có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Khi đề cập đến vấn đề này, một số người đã quá nhấn mạnh tính chất đối kháng về chính trị giữa sự phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân với việc xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Những người theo quan niệm này cho rằng sự phát triển các thành phần kinh tế này sẽ dẫn đến sự ra đời giai cấp tư sản, tầng lớp tư sản mới, và do vậy, có nguy cơ dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Thậm chí có người còn cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể cùng tồn tại. Rằng việc phát triển kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, theo họ, sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, đưa đến sự thoái hoá của cán bộ Đảng và Nhà nước, làm tăng thêm sự phân hoá giàu nghèo. Họ lo ngại khi các dự án đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp, chế xuất được triển khai ở nhiều địa phương trên cả nước sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế và chính trị phức tạp. Một số người khác khi đề cập đến vấn đề này đã đưa ra những đánh giá quá cao về kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Họ chỉ nhận thấy ở đó tính chất kinh tế, vai trò kinh tế không thể thiếu của các thành phần kinh tế này trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Vai trò đó được thể hiện ở tỷ trọng đóng góp vốn đầu tư, tỷ trọng trong GDP, ở khả năng tạo ra công ăn việc làm, khai thác tài nguyên... của các thành phần kinh tế này. Từ những kết quả phát triển kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, những người theo quan niệm này cho rằng kinh tế tư bản nhà nước không chỉ là một thành phần kinh tế trong kết cấu kinh tế quá độ , mà còn mang ý nghĩa một chế độ kinh tế thống trị, có tác dụng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Một số người khác tuy cũng khẳng định tính thiết yếu của việc phát triển kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, song lại cho rằng việc phát triển các thành phần kinh tế này chỉ nên coi là tạm thời, là giải pháp tình thế chứ không phải là giải pháp mang ý nghĩa chiến lược lâu dài. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, tất cả những người theo các quan niệm trên, dù là đánh giá thấp hay đánh giá cao vai trò của kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân cũng đều thừa nhận và luôn nhấn mạnh vai trò quyết định, chủ đạo của kinh tế nhà nước, cũng như vai trò hết sức quan trọng của kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Song họ đã không thấy hết, không lường hết những mặt yếu kém, những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra, cũng như những mặt mạnh, những đóng góp tích cực của kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Họ không thấy hết cái được và cái mất do chúng sinh ra và làm sao để cái được ngày càng tăng, cái mất ngày càng giảm. Họ chỉ nhất mạnh cái được về số lượng, chẳng hạn bao nhiêu dự án đầu tư, bao nhiêu vốn, tỷ lệ xuất khẩu..., chứ không phân tích xem dự án đầu tư, nguồn vốn đó sinh lợi như thế nào và triển vọng phát triển của chúng ra sao. Cùng với những quan niệm đó là quan hiệm ủng hộ sự phát triển kinh tế tư bản trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa với một thiên kiến khá rõ - sùng bái tư bản nước ngoài, coi nhẹ việc phát huy sức mạnh và khả năng vốn có của tư bản trong nước. Thái độ phân biệt đối xử không đúng ấy giữa tư bản nước ngoài và tư bản trong nước được phát sinh từ sự lo lắng về chính trị, từ chỗ cho rằng tư bản nước ngoài đến rồi sẽ ra đi, còn tư bản trong nước thì vẫn còn đó, nhất là khi nó có khả năng phát triển thành một giai cấp. Những quan niệm khác nhau ấy về vị trí và vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa đều nảy sinh trong môi trường kinh tế - chính trị hiện thời ở nước ta, từ thực tiễn phát triển nền kinh tế này trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Song, điều đáng quan tâm là ở chỗ, khi thực tiễn đời sống đã đặt ra vấn đề, thì nhận thức của chúng ta cũng cần phải có sự đổi mới để theo kịp và nắm bắt được thực tiễn ấy. Bởi vậy, để có được quan niệm đúng đắn về vị trí, vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết cần làm rõ thành phần kinh tế này là thế nào, nó tồn tại dưới những hình thức nào trong bối cảnh hiện thời ở nước ta. Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở nước ta những năm vừa qua đã chứng minh rằng: trong bối cảnh quốc tế hiện thời, chúng ta không có điều kiện để quá độ thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, cho phép tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn, hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân, cổ phần hoá các xí nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ,.v.v... Điều đó có thể dẫn tới sự phục hồi chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định nào đó. Song, một khi chủ nghĩa tư bản được phục hồi, thì biện pháp hữu hiệu nhất, như V.I.Lênin đã khẳng định, không phải là thủ tiêu nó, mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Đương nhiên, trong điều kiện hiện nay, các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước không còn hoàn toàn giống như các hình thức tư bản Nhà nước thời V.I.Lênin đầu những năm 20, mà đa dạng, phong phú hơn nhiều. Nhưng, dù có đa dạng, phong phú đến đâu đi chăng nữa thì những hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đó, trong điều kiện giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và thực hiện công cuộc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước chiếm vị trí chủ đạo, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn chỉ là những bước quá độ, những nấc thang trung gian để phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhằm mục tiêu đó và trong bối cảnh hiện thời của công cuộc đổi mới, các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta, thiết nghĩ, cần phải được hình thành và phát triển trên cơ sở của mối liên kết, tính chất đan xen giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân được tạo ra bởi sự liên doanh dưới hình thức vốn và đóng góp cổ phần. Các chủ thể kinh tế tham gia vào kinh tế tư bản Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước, các doanh nghiệp tập thể và người lao động. Bởi vậy, nó là cái đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc thu hút vốn, hiện đại hoá công nghệ và năng lực quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Với tư cách đó, thiết nghĩ, kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta hiện nay là yếu tố đóng góp tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thông qua việc tập trung và hợp vốn giữa Nhà nước và tư bản tư nhân dưới hình thức liên doanh, dóng góp cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong bối cảnh mở cửa, giao lưu, hợp tác khu vực và quốc tế ngày càng mở rộng và có chiều sâu, sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động nước ta và góp phần cải thiện đời sống của họ. Chiến lược phát triển lấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực, thiết nghĩ, không thể không phát triển kinh tế tư bản Nhà nước. Về một phương diện nào đó, có thể nói, phát triển kinh tế tư bản Nhà nước là một yếu tố quan trọng trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay, về cơ sở vật chất, nền kinh tế nước ta hiện nay chưa có đủ điều kiện để quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, và do vậy, chúng ta có thể và cần phải sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta, việc tận dụng sản xuất tư bản trong và ngoài nước, nhất là bằng cách hướng nó vào con đường phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, lấy kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện để tăng nhanh lực lượng sản xuất, thiết nghĩ, là con đường hiện thực nhất, có triển vọng nhất. Dưới hình thức kinh tế tư bản Nhà nước, chẳng những chúng ta thu hút được tư bản nước ngoài, mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, hùn vốn liên doanh và qua đó, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa. Sự phát triển đó của kinh tế tư bản tư nhân được hướng theo con đường phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới hình thức thích hợp, thông qua sự kiểm kê, kiểm soát và điều tiết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ bối cảnh trong nước và quốc tế hiện thời, với xu hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế, chúng ta có đủ điều kiện và khả năng để phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa được cấu thành bởi các quan hệ kinh tế và hợp đồng kinh tế giữa một bên là Nhà nước vô sản, đại biểu cho sở hữu toàn dân, cho lợi ích xã hội, với một bên là nhà tư bản, hoàn toàn có thể đem lại cho chúng ta khả năng vừa sử dụng tư bản nước ngoài vừa giữ được độc lập, tự chủ, thực hiện hợp tác bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau. Nói tóm lại, theo tinh thần của những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP nói chung, về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng, từ sản xuất nhỏ quá độ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần thiết phải phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước với tư cách là "những chiếc cầu nhỏ vững chắc" để xuyên qua nó đi lên chủ nghĩa xã hội. Rằng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, nếu không hướng tư bản tư nhân đi theo con đường phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, chẳng những chúng ta không hướng nói đi theo quĩ đạo của chủ nghĩa xã hội, mà đôi khi còn làm cho nó tự phát đi chệch sang quĩ đạo của chủ nghĩa tư bản. Vận dụng những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP và quan niệm của ông về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước, không thể bỏ qua vấn đề này. Và cũng không vì thế mà tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước, xem nó như là cứu cánh duy nhất của nền kinh tế quá độ. Khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng của kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế đó vẫn là kinh tế Nhà nước, lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo và cùng với nó, phát triển kinh tế hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Về vấn đề phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã trong bối cảnh xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ, trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của các thành viên tham gia. Thực tiễn của những năm đổi mới ở nước ta cho thấy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất hàng hoá nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư, chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã. Song, vấn đề là ở chỗ, từ những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP và quan niệm của ông về chế độ hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta phải coi kinh tế hợp tác xã như là một "tế bào" của nền kinh tế thị trường. Khi đó, vấn đề không chỉ là ở chỗ, tìm kiếm những hình thức trung gian, những biện pháp quá độ cho việc khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là ở chỗ, rút ra một kết luận có ý nghĩa lý luận lớn lao. Đó là kết luận về tính thiết yếu của việc thực hiện các hình thức quá độ gián tiếp, những biện pháp trung gian, quá độ đặc biệt đối với một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Rằng khi bối cảnh hiện thực đã thay đổi thì những biện pháp quá độ đó cũng phải thay đổi. Bản thân V.I.Lênin khi nói về việc thi hành NEP và thực hiện chế độ hợp tác xã cũng đã cho rằng, những biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước đại nông nghiệp và các nước tiểu nông nghiệp không thể giống nhau. Rằng, trong mỗi thời đại lịch sử đặc biệt, trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chúng ta phải tìm ra và thực hiện được những biện pháp đặc biệt, phù hợp với thời đại, với hoàn cảnh đó. Thêm vào đó, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, chúng ta cần phải tìm ra "cái mắt xích đặc biệt" và khi đã tìm ra nó thì cần phải "nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích" và chuẩn bị cho bước chuyển vững chắc sang mắt xích kế bên. Để phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế diễn ra một cách thuận lợi, có hiệu quả, chúng ta chủ trương thực hiện Luật hợp tác xã trong các lĩnh vực, các khu vực sản xuất; vận động và giúp đỡ các tiểu thương, tiểu chủ tự nguyện xây dựng các cơ sở kinh tế hợp tác đa dạng, từ thấp đến cao; thành lập tổ chức hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn trong những ngành nghề thích hợp. Phát triển nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và bảo đảm lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường mà chúng ta đang xây dựng và phát triển, khi chúng ta đang cùng nhau tích cực tìm kiếm những con đường hữu hiệu để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước, bên cạnh việc khuyến khích phát triển các hợp tác xã kiểu mới, chúng ta không thể không quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp, đến kinh tế trang trại nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình. Chính sách khoán 10 trước đây không lâu là một ví dụ. Với chính sách đó, chúng ta đã cho phép kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại nhỏ phát triển và nhờ đó, sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã có bước phát triển đáng kể. Nhờ nó mà quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của người nông dân được giải phóng khỏi những ràng buộc sắc lệnh và nền kinh tế của họ đang mang lại hiệu quả nhanh chóng khi mức đầu tư vốn, có thể nói, hãy còn ở mức độ quá thấp. Thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, của đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trên cơ sở vận dụng sáng tạo, những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP cho thấy, việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước, phát triển chế độ hợp tác xã tất yếu phải sử dụng một cách có hiệu quả qui luật giá trị và quan hệ hàng - tiền. Trong tiến trình tiếp tục công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, song đây cũng là một vấn đề không ít khó khăn. Chúng ta không những phải tự bỏ quan điểm phủ định sạch trơn sản xuất hàng hoá, chỉ thấy những tiêu cực vốn có của quan hệ hàng - tiền dưới chế độ sở hữu tư nhân, mà còn phải chống lại cả quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của quan hệ hàng - tiền, cũng như quan điểm về sự tồn tại trên danh nghĩa quan hệ hàng - tiền trong chủ nghĩa xã hội được hình thành khi chúng ta tuyên bố thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn của những năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta vừa qua đã cho thấy hiệu quả của việc sử dụng qui luật giá trị và quan hệ hàng - tiền trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế, đồng thời cho thấy rõ việc sử dụng chúng là đặc trưng không thể thiếu của cơ chế quản lý kinh tế mới mà chúng ta đang ra sức xây dựng. Bởi vậy, hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là nhận thức đúng và vận dụng có hiệu quả hơn nữa qui luật giá trị và quan hệ hàng - tiền trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, và theo tư tưởng của V.I.Lêin khi thực hiện NEP, là tiến hành việc nhà nước điều tiết những mối quan hệ đó sao cho không phải là thủ tiêu chúng, mà là phát triển chúng theo hướng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo chúng tôi, trong bối cảnh củ công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, khi sử dụng qui luật giá trị và quan hệ hàng - tiền, chúng ta không chỉ phải tính đến những đặc thù của nền kinh tế nước ta, mà còn phải tính đến trình độ phát triển của nền kinh tế đó, đến tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Có thể nói, trong công cuộc đổi mới đất nước, với sự nhận thức hết sức rõ ràng và đúng đắn về ý nghĩa quốc tế và tính thời sự của NEP, Đảng ta đã khẳng định việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về NEP, nhất là quan niệm của ông về chủ nghĩa tư bản nhà nước là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình thức quá độ, những nấc thang trung gian phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Vận dụng NEP ở nước ta hiện nay chỉ có thể thành công trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển "rút ngắn", với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã qui định. Vận dụng NEP ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải nắm vững những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP, từ chiều sâu của tư duy lý luận triết học - kinh tế của ông và phải được đặt trên cơ sở thực hiện nhất quán, lâu dài, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Với nước ta, trong bối cảnh của công việc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP và việc thực hiện NEP ở nước Nga đầu những năm 20 vừa là cơ sở lý luận, vừa là bài học kinh nghiệm giúp chúng ta từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, về những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Qua tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm và nghiên cứu lý luận, Đảng ta đã khẳng định một cách đúng đắn rằng: Trong thời đại ngày nay, con đường đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc không thể là con đường nào khác ngoài việc vận dụng một cách sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mắc - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, "đặc biệt là tư tưởng của Lênin về Chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước" nhằm sáng tạo ra nhiều hình thức quá độ, nhiều nấc thang trung gian, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện thời. Điều đó cho thấy trong quan niệm của Đảng ta, những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP vẫn là "Cái cần thiết cho chúng ta", là "cái cẩm nang thần kỷ" - cơ sở lý luận để chúng ta hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, "con đường giải phóng chúng ta". Chính vì vậy, việc vận dụng và phát triển NEP một cách sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nước ta hiện nay cần phải được coi là cơ sở lý luận của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và là cách tiếp cận mới mang tính nguyên tắc về chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. --- o0o --- Kết luận NEP của V.I. Lênin ra đời ở nước Nga năm 1921, đến nay đã 80 năm nhưng nó vần còn có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới sâu sắc toàn diện hiện nay của nước ta. Khó có thể đánh giá hếu được ý nghĩa lịch sử vĩ đại của tư tưởng V.I. Lênin về xây dựng CNXH nói chung, về NEP nói riêng. ý nghĩa to lớn đó được thể hiện ở những luận điểm chủ yếu sau đây: 1. Chúng ta đều dễ nhận thấy có nhiều trùng hợp về những vấn đề được đặt ra và cách giải quyết chúng giữa NEP và công cuộc đổi mới những năm qua ở nước ta. Trùng hợp không chỉ về các giải pháp tiền hành để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn trùng hợp trên những nguyên tắc và nhiều nội dung hết sức chủ yếu của con đường đi lên CNXH. 2. Những nội dung trong NEP được V.I. Lênin nêu ra hết sức phong phú, nó được quyện chặt trong một hệ thống chặt chẽ, sâu sắc . 3. Những tư tưởng của V.I. Lênin trong NEP là vô giá đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay theo định hướng CNXH, nhằm xây dựng một nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, giàu mạnh, công bằng, văn minh và hạnh phúc. Vì vậy, đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, NEP cần phải được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng nó một cách toàn diện sáng tạo, triệt để, và sâu sắc hơn. v. v. --- o0o --- Mục Lục Stt Nội dung Trang 1 Lời nói đầu 1 2 Chương1-Chinhs sách kinh tế mới là bước phát triển tất yêu của công cuộc xây dựng nước Nga 3 3 I-Hoàn cảnh ra đời của NEP 3 4 1-Các điều kiện khách quan 3 5 2-Điều kiện chủ quan 4 6 II-Sự ra đời của chính sách kinh tế mới 5 7 III-Nội dung và mục tiêu của chính sách kinh tế mới 5 8 1-ổn định kinh tế 5 9 2-ổn định chính trị 6 10 3-Kích thích vật chất và tinh thần 6 11 Chương 2-Chính sách kinh tế mới đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt nam 7 12 I-Đặc điểm của hai dân tộc khi vận dụng NEP 7 13 1-Những điểm tương đồng 7 14 2-Những nét khác biệt 8 15 II-Sự vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt nam 9 16 Chương 3-Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng NEP trong công cuộc đổi mới ở Việt nam 11 17 I-NEP với tư cách là cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên CNXH 11 18 II-NEP với vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN 13 19 Kết luận 22

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35112.doc
Tài liệu liên quan