Tiểu luận Chính sách tài khóa của đất nước ta hiện nay

NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức sẽ dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích cầu quá mức thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.

docx17 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2337 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách tài khóa của đất nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Với tốc độ tăng trưởng chóng mặt như hiện nay, các nhà kinh doanh ra sức sản xuất, mở rộng kinh tế nhằm sản xuất ra thật nhiều hàng hóa phục vụ nhu cầu vô hạn của con người. Tuy nhiên, việc tạo ra thật nhiều hàng hóa đã vô tình phản lại mong muốn có nhiều lợi nhuận của các nhà doanh nghiệp. Hàng hóa tăng nhanh hơn nhu cầu của con người dẫn đến cung vượt quá cầu và tình trạng lạm phát xuất hiện. Lạm phát gây cho nền kinh tế nhiều bất ổn đòi hỏi Nhà nước phải vào cuộc để điều chỉnh giảm lạm pháp gây nên việc thực hiện chính sách tài khoán có nhiều điều thiếu sót và điều khó tránh khỏi là kinh tế giảm sút, ngân sách thâm hụt, gánh nặng nợ nần ngày càng cao. Những bất ổn của nền kinh tế, thâm hụt hay lạm phát ở hiện nay đã tới mức nào? Có thể tháo gỡ không? Đó là lý do nhóm chúng tôi chọn đề tài này. Đối tượng nghiên cứu: rTình hình thu chi ngân sách của nước ta từ năm 2009 đến nay có gì thay đổi. rNhững thay đổi đó đưa nước ta đi đến đâu trong thời gian tới. rThâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần, lạm phát hiện nay được Chính phủ điều chỉnh theo hướng ra sao. Phạm vi nghiên cứu: Bài tiểu luận nhóm mình sẽ cho các bạn cái nhìn sơ khai về các chính sách tài khóa của đất nước: thâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần, tác động của chi tiêu và thuế đến hoạt động kinh tế của đất nước. Từ đó, đưa ra kiến nghị và đề xuất nhằm cải thiện tình hình kinh tế đang trên mức báo động như nước ta. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động thu chi của Nhà nước trong việc trợ cấp các công trình công cộng gây nên thâm hụt ngân sách, việc vay nợ nước ngoài vượt qua cả vay trong nước làm cho gánh nặng nợ nần trong tương lai tăng cao. Phương pháp nghiên cứu: ¯ Phương pháp phân tích thực chứng: lấy các số liệu chính xác để phân tích chính sách nhà nước. ¯ Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét,… Phần 2: PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Khái quát chung về chính sách tài khóa: Khái niệm: Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay gọi là chính sách ngân sách hay chính sách tài chính. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa có tính độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ điều hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai chính sách này luôn được chính phủ, các nhà hoạch định chính sách quan tâm. 1.1.2 Chính sách tài khóa trong việc kiểm soát lạm phát: Chính sách tài khóa khác với những chính sách kinh tế cơ bản khác như chính sách tiền tệ, đó là chính sách nhằm ổn định nền kinh tế bằng cách kiểm soát tỉ lệ lãi suất và nguồn cung tiền. Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh tế như: ¯ Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế ¯ Kiểu phân bổ nguồn lực ¯ Phân phối thu nhập Hay nói cách khác chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với hoạt động kinh tế. Có các loại chính sách tài khóa điển hình là trung lập, mở rộng, và thu gọn: Chính sách trung lập là chính sách cân bằng ngân sách khi đó G = T (G: chi tiêu chính phủ, T: thu nhập từ thuế). Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ các hoạt động kinh tế. Chính sách mở rộng là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ (G > T) thông qua chi tiêu chính phủ tăng cường hoặc giảm bớt hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân sách ít hơn nếu trước đó có ngân sách cân bằng. Chính sách thu hẹp là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi thông qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Đôi khi chính sách tài khóa để đạt được một số mục tiêu đề ra đã gây hậu quả xấu cho việc thực thi các mục tiêu của chính sách tiền tệ và ngược lại. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nếu thiếu đi sự phối hợp nhịp nhàng trong chính sách thực thi chính sách sẽ gây ra những tác động đối kháng lẫn nhau, phá vỡ quy luật của thị trường, ảnh hưởng xấu đến mục tiêu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, trong ngắn hạn, hai chính sách phải phối hợp nhằm đạt được các mục tiêu của từng chính sách một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá. Trong dài hạn, hai chính sách phải phối hợp để đảm bảo được lợi ích cân bằng giữa mục tiêu của từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm phát. Chính sách tài khóa trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua: Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong năm 2010, Việt Nam vẫn đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định. Có được kết quả trên là nhờ vào việc thi hành các phương pháp điều tiết chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ, trong đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trò quan trọng. Với chính sách nhạy bén là chủ động để ngân sách thâm hụt trong tình trạng đất nước suy thoái và thăng dư để bù đắp trong thời kỳ lạm phát đã làm cho đất nước có nhiều chuyển biến tốt hơn. 1.1.3 Mục đích của chính sách tài khóa:  ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.Thế nhưng, trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát đã vượt mục tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân: Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Với mô hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước làm chủ đạo và việc bán tài nguyên, gia công trình độ thấp... dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (hệ số ICOR) vào khoảng 6 trong những năm gần đây. Thứ hai: Kết cục của mô hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi chính sách tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách(5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ” . Thứ ba:Chính sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ lệ đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao sau Trung Quốc. Các khoản đầu tư công không mấy hiệu quả đã tạo sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả là lạm phát xảy ra. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần đây. Điều này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng(28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán(25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Thứ tư:Trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả thì Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng, dầu, điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát. Ngay trong tháng 12 năm 2010, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt thông qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng. Năm 2006 2007 2008 2009 2010 ước tính ICOR 5 4,75 6,95 8,23 6,18 Nợ công (5 trên GDP) 42,9 45,6 43,9 52,6 56,7 Nợ nước ngoài (tỉ USD) 19,1 23,2 29,4 36,6 41,7 Đầu tư (%, so với GDP) 40,96 40,4 43,1 42,8 44,2 Tính toán dựa trên nguồn từ Tổng cục Thống kê Thứ năm: Ở một số thời điểm Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất lên tới 11 - 12%/năm, sau một thời gian, mức lãi suất huy động trái phiếu đã giảm xuống 9,6% năm, nhưng vẫn cao hơn so với mức rủi ro của công cụ tài chính này. Các ngân hàng thương mại với động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đã sử dụng vốn huy động mua trái phiếu chính phủ tốt hơn là cho các doanh nghiệp vay và mô hình chung đã đẩy mức lãi suất lên cao. Đây là một biểu hiện của sự chưa ăn khớp của 2 hình thức tài chính. Thứ sáu: Điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ, cập nhật và chính xác, thế nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch pha về thời gian với yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ thiếu chính xác. Tác động của chi tiêu và thuế đến các hoạt động kinh tế: Việt Nam là nước đang có tổng số nợ nước ngoài khá lớn. Với tình hình chi tiêu thiếu chính xác các công trình công đã ngày càng đưa kinh tế đất nước tới mức báo động. Chi tiêu nhiều nhưng không mang đến kết quả mong đợi đã làm cho những công dân Việt Nam trong tương lai sẽ mang trên vai một khoảng nợ khá lớn. Các khoảng thuế thu trong nước không đủ cho việc chi ngân sách quá lớn như hiện nay. Trong vài năm gần đây, nước ta thêm loại thuế thu nhập cá nhân nhằm đánh trực tiếp đến thu nhập của từng người dân. Khoảng thuế này là thuế lũy tiến đánh vào những người có thu nhập cao trong xã hội. Nhưng thuế thu nhiều thì chi tiêu của Chính phủ cũng tăng theo phần lũy tiến đó. è chi tiêu và thu ngân sách từ thuế không cân bằng trong cả thời kỳ lạm phát là vấn đề mà các nhà lập chính sách cần lưu ý. Vì với nợ trong nước và ngoài nước cao như hiện nay sẽ dần đưa nền kinh tế nước ta đến hướng phụ thuộc nước ngoài, kinh tế không phát triển ổn định được. 1.3. Gánh nặng nợ nần của Việt Nam: Khó khăn về tài chính của Việt Nam: NCEIF - Theo báo cáo mới đây của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), tổng số dư nợ công của Việt Nam tính đến hết năm 2010 là 1.122 nghìn tỷ đồng, tương đương 56,7% GDP năm 2010. Dự kiến tổng nợ công năm 2011 còn tăng cao hơn, ở mức 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP năm 2011. Nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 (nợ Chính phủ trung ương và địa phương, nợ được Chính phủ bảo lãnh) đã tăng thêm gần 4,6 tỷ USD, đứng thứ hai về mức tăng dư nợ trong khoảng 5 năm gần đây, đưa tổng dư nợ đến cuối năm này lên 32,5 tỷ USD. Với ý nghĩa là khoản vay để bù đắp bội chi ngân sách, theo công bố của Bộ Tài chính ngày 01/4 năm nay, là vào khoảng 5,6% GDP, thì vay nước ngoài năm 2010 của Việt Nam tiếp tục vượt trội so với vay trong nước. Cùng phía các chỉ tiêu kém đi, tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối so với dư nợ ngắn hạn(từ 1 năm trở xuống) đến cuối năm 2010 chỉ còn đạt 187%, giảm mạnh so với con số 290% vào năm 2009 và 2.808% vào năm 2008; tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách cũng tăng lên 5,8%, mức cao nhất trong chuỗi số liệu kể từ năm 2006, cho thấy gánh nặng nợ nần ngày càng lớn hơn, trong bối cảnh tăng trưởng và sản xuất không mấy dễ dàng. Trong khi đó, một vài chỉ tiêu có dấu hiệu tốt lên, ví dụ như nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bằng 3,4%, thấp hơn rất nhiều so với mức 4,2% của năm 2009. Diễn biến này đi cùng sự phục hồi của hoạt động xuất khẩu trong năm, với mức tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vượt 26,4% so với năm 2009, là năm xuất khẩu rất khó khăn và tốc độ tăng trưởng kim ngạch giảm gần 9%. Tỷ giá hối đoái là đoái là tỷ lệ chuyển đổi từ đơn vị tiền tệ nước này sang đơn vị tiền tệ nước khác. Tỷ giá hối đoái là quan hệ tỷ lệ so sánh giữa đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác trên cơ sở hàm lượng vàng hoặc sức mua của các đồng tiền đó. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng bao nhiêu đơn vị tiền tệ nước khác. Tỷ giá hối đoái là giá cả mua bán của một đồng tiền trong quan hệ soa sánh với các đồng tiền khác. Tỷ giá hối đoái là giá cả để mua bán trao đổi ngoại tệ. So với nợ công trong nước, nợ công nước ngoài (nợ công còn gọi là nợ chính phủ hay nợ quốc gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay) của Việt Nam có rủi ro lãi suất khá thấp so với gần 85% nợ nước ngoài của Chính phủ có mức lãi suất ưu đãi dưới 3%. Tuy nhiên, các khoản nợ thương mại (các khoảng nhà nước vay nhằm thực hiện các dự án thương mại) với lãi suất cao đang tăng lên (trên 8% tổng dư nợ nước ngoài có mức lãi suất 6-10%). Cùng với việc trở thành nước có mức thu nhập trung bình, nền kinh tế đang bộc lộ những rủi ro rõ nét sẽ khiến VN khó có thể tiếp tục thu hút được những khoản nợ lãi suất thấp trong thời gian tới. Trước tình hình nợ công và nợ nước ngoài (các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công) ngày càng có xu hướng tăng nhanh, được biết, Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại đang nghiên cứu xây dựng khuôn khổ pháp lý, trong đó có các đề xuất về hoạt động quản lý rủi ro nhằm kiểm soát nợ công và nợ nước ngoài một cách hiệu quả. Hy vọng đây sẽ là một tín hiệu tốt trong việc quản lý nợ công trong nước(các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài(các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). 1.3.2 Một số dự đoán về tinh hình nợ của Việt Nam trong tương lai: Với cập nhật mới nhất, từ nay đến năm 2015, Việt Nam sẽ phải trả nợ nước ngoài cả gốc và lãi mỗi năm xấp xỉ 1,5 tỷ USD. Mức đỉnh mới về trả nợ sẽ rơi vào năm 2020, với nợ phải trả lên tới gần 2,4 tỷ USD, trong khi chỉ một năm trước, Bộ Tài chính mới đưa mức dự kiến cho năm này khoảng 1,15 tỷ USD. Riêng trong năm 2010, đã có khoảng 1,67 tỷ USD ra khỏi Việt Nam qua các khoản trả nợ gốc, lãi và phí, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm trước đó. So sánh dữ liệu về nghĩa vụ nợ năm 2010 với tổng thu ngân sách cùng năm của Bộ Tài chính, tỷ lệ này là khoảng 5,5%. Liên quan đến dòng chảy này, năm 2010 ghi nhận thêm khoản nợ mới từ phát hành trái phiếu Chính phủ quốc tế với lợi suất trên 7% thời hạn kéo dài trong 10 năm rơi đúng vào đỉnh năm 2020. Cũng sau khoản trái phiếu 1 tỷ USD được phát hành thành công, chủ nợ của Việt Nam cũng có thêm nhiều đối tượng là cá nhân nắm giữ trái phiếu. Tuy nhiên, cơ cấu đồng tiền vẫn khá tập trung, chủ yếu là đồng Yên Nhật (Yên chiếm tỷ trọng lớn nhất 38,8%), SDR (quyền rút vốn đặc biệt, đơn vị tiền tệ quy ước của của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF)(gần 27,1%), USD(22,2% ) và Euro(9,2%). Điều này cho thấy tỷ giá những khi thay đổi có thể thổi phồng khối nợ rất nhanh, và tỷ trọng nghĩa vụ nợ so với thu ngân sách cũng có thể thay đổi theo. 1.3.3 Một số rủi ro: Theo bản tin số 7, đa số các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài xấu đi so với năm 2009. Tổng dư nợ nước ngoài so với GDP đã ở mức 42,2%, nếu so với tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (WB) thì thuộc diện vừa phải. Tuy nhiên, tỷ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP đang tăng rất nhanh cũng hàm ý rằng những giới hạn an toàn đang bị đe dọa. Chỉ trong vòng 3 năm gần đây, từ 2008 đến cuối 2010, chỉ tiêu này của Việt Nam đã “nở” thêm khoảng 10 điểm phần trăm. Nhưng đáng chú ý nhất là tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn đang xuống thấp. Nếu như năm 2007, chỉ tiêu này đang là gấp gần 102 lần, cuối năm 2010 ghi nhận chỉ còn chưa đầy 2 lần. Có hai vấn đề đặt ra với sự thay đổi này, một là dự trữ ngoại hối đang mỏng hơn, và hai là nợ ngắn hạn đang tăng lên nhanh chóng. Theo nhiều nguồn số liệu thì năm 2009, thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể (là mảng kế toán ghi chép các giao dịch về mặt giá trị, các giao dịch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa một nước với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm) của Việt Nam ở mức 8,8 tỷ USD, năm 2010 vào khoảng 4 tỷ USD (có nguồn tin là 2,6 tỷ USD). Diễn biến này đã bào mòn dự trữ ngoại hối. Nhiều chuyên gia kinh tế đã từng cảnh báo nợ nước ngoài của Việt Nam có lãi suất ngày càng cao và kỳ hạn vay ngày càng ngắn. Quan điểm này một lần nữa lại được khẳng định tại bản tin số 7, khi nghĩa vụ nợ dự kiến của Việt Nam thay đổi liên tục trong mấy năm gần đây mà chủ yếu là trong tương lai gần. Cùng lúc với dư nợ nước ngoài tăng nhanh và dự trữ ngoại hối vơi đi thì theo dữ liệu từ bản tin số 7, tỷ giá cuối kỳ của VND so USD đã giảm khoảng 10,26% trong so sánh năm 2010 với 2009; tương tự, Euro giảm 11,14%; SDR giảm khoảng 5,53%; và đồng Yên tăng 6,43%. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, dự địa chính sách tiền tệ để ổn định ngoại hối sẽ khó khăn khi phải đánh đổi giữa nghĩa vụ nợ tăng lên hay bào mỏng dự trữ. Bởi cùng trách nhiệm trả nợ thì Chính phủ còn phải cân nhắc đến khả năng tăng thu NSNN, khi mà tỷ trọng thu so với GDP đã cao và tình hình kinh tế trong ngắn hạn chưa cho thấy triển vọng phục hồi mạnh mẽ.Theo VnEconomy Thâm hụt ngân sách và lạm phát: Thâm hụt ngân sách: Đó là tình trạng chi ngân sách vượt quá số thu vào. Tình trạng này có thể là do chi ngân sách kém hiệu quả hay do có một khoản chi nào đó phải chi gấp mà chưa có tiền thu vào để bù đắp hoặc do nạn tham nhũng. Thâm hụt ngân sách là một thuật ngữ sử dụng trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng, khái niệm này thường được sử dụng liên quan đến các khoản chi của chính phủ hơn là cho khu vực doanh nghiệp và tiêu dùng cá nhân. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách thường phát hành trái phiếu (doanh nghiệp hoặc chính phủ). Thâm hụt ngân sách của chính phủ nếu vượt quá 5% GDP thì được coi là nguy hiểm. Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Thu của chính phủ không bao gồm khoản đi vay(đây được xem là các khoảng nợ). Đi vay chính là một cách mà chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách hiện tại. 1.4.2 Phân loại: Ta chia thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội, quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau: Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm). Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng. Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu. Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động. Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá chính sách tài chínhkhi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt ảnh hưởng như thế nào đến thâm hụt ngân sách giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh hợp lý trong từng giai đoạn. 1.4.3. Nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách: a. Thất thu thuế nhà nước: Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ,… Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên,việc này làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân sách. b. Đầu tư công kém hiệu quả: Trong năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia. Nhưng trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để gây lãng phí nguồn ngân sách và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả làm cho tình trạng thâm càng trở nên trầm trọng. c.Nhà nước huy động vốn để kích cầu: Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế mặt khác sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP. d.Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên: Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Chính điều đó tạo sự căng thẳng về NSNN.Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN. e.Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn: Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Nhưng đa số các nhà kinh tế thống nhất rằng chi tiêu của chính phủ một khi vượt quá ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do phân bổ nguồn lực không hiệu quả dẫn tới thâm hụt NSNN và cuối cùng là gây ra lạm phát. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua cũng được sử dụng nhưmột công cụ trong chính sách tài khóa nhằm kích thích sự tăng trưởng. 1.4.4.Tác động của chính sách tài khóa đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam: a - Chính sách tài khóa và kinh tế Việt Nam: Giai đoạn từ năm 2009 đến nay:Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, kinh tế trong nước đối mặt với nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thị trường Việt Nam có độ mở cao (xuất, nhập khẩu trên 150% GDP); khu vực FDI tuy chỉ chiếm trên 27% tổng đầu tư xã hội, nhưng luôn đạt từ 55% đến 70% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nên sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% (năm 2008) xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm mạnh, như giá gạo trong tháng 10-2009 giảm tới 20%; cà phê giảm tới 34,5%; cao su giảm gần 50%... Nền kinh tế yếu đi, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy kiệt, phải đóng cửa. Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường trong các năm 2008 – 2009.Tiếp đến là nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, mà nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng nhập siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ USD và năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát kép, tức là vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro tiềm ẩn khác là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại thời điểm này đang được cho là có vấn đề, do các ngân hàng thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để huy động vốn. b. Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đối với nền kinh tế nước ta: Phương pháp đánh giá trạng thái tài khóa được nhiều nhà kinh tế và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) sử dụng là đo lường xung lực tài khóa đối với sản lượng/GDP trong một khoảng thời gian nhất định. Sự đo lường dương (âm) sẽ hàm ý trạng thái tài khóa mở rộng (thu hẹp) hơn so với năm trước. Từ năm 2005 đến năm 2007, lượng tiền trong lưu thông tăng tới 135%, trong khi tăng trưởng GDP chỉ ở mức 27%. Điều này có nghĩa, Nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn hơn gấp nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên. Cho thấy, thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ vượt quá mức thâm hụt trung bình 5% GDP hàng năm. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, một quan chức của Bộ kế hoạch và đầu tư thừa nhận. ADB cho rằng, thâm hụt ngân sách của Việt Nam, thậm chí lên tới 9,8% GDP (gần 9,3 tỉ USD) trong năm 2009. Ông Konishi cảnh báo, chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng, nợ công tăng thêm (dự kiến 45,8% GDP năm 2009),… có thể lại khiến tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn trở lại. “Chính sách tài khoá hiệu quả đòi hỏi phải có nguồn thông tin đáng tin cậy về thu và chi của Chính phủ và kiểm soát tốt các dự án đầu tư công. Việt Nam còn nhiều thiếu sót về cả ba mặt này. Chính phủ cần chấm dứt, hoặc tạm dừng một cách có hệ thống các dự án mục tiêu không rõ ràng, thiếu vốn, hay có kết quả hoạt động kém”. 1.4.5. Tình trạng thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô ở nước ta: Nhìn vào những nước đã trải qua lạm phát cao sẽ thấy, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài buộc Nhà nước phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt và điều này dẫn đến lạm phát.Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức báo động. Theo số liệu chính thức, thâm hụt ngân sách của nước ta hiện nay là 5% GDP (gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam - Theo cách tính quốc tế(không bao gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán)- lên tới 7% GDP.Điều này làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và các nhà đầu tư. 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tăng cung tiền (M2, % thay đổi) 25,5 17,6 24,9 29,5 29,7 33,6 39,0 Tín dụng ( % thay đổi) 21,5 22,2 28,4 41,6 31,7 25,4 36,0 Tổng đầu tư xã hội (% GDP) 31,2 33,2 35,4 35,6 38,9 41,0 41,2 Thâm hụt ngân sách (% GDP) –4,7 –4,5 –3,3 –4,3 –4,9 –5,0 –5,0 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI, %) 0,8 4,0 3,0 9,4 8,4 6,7 12,6 Nguồn: GSO, MOF, MPI Chương 2: GIẢI PHÁP, KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 2.1Một số đề xuất sự phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong thời gian tới: Để tăng cường hiệu quả cần phải có sự kết hợp nhịp nhàng và đồng bộ theo hướng sau đây: Thứ nhất: Chính phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về tài chính - tiền tệ năm 2011, trong đó các vấn đề về cân đối bội chi ngân sách, cân đối đầu tư công cần được tính toán, nghiên cứu: tổng phương tiện thanh toán và tăng tưởng tín dụng. Cần tránh hiện tượng trong khi chính sách tiền tệ đang tìm cách thắt chặt để kiểm soát lạm phát thì chính sách tài khóa lại nới lỏng cho đầu tư công như thời gian vừa qua. Thứ hai: Việc phát hành trái phiếu chính phủ với khối lượng lớn trong năm qua đã dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng nên để ưu tiên vốn cho khu vực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, Chính phủ cần nghiên cứu giảm phát hành trái phiếu trong năm 2011 và các năm tiếp theo. Thứ ba: Lãi suất phát hành trái phiếu cần được nghiên cứu, tính toán với mặt bằng lãi suất huy động chung, hạn chế các ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động để mua trái phiếu chính phủ và cần tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc xác định lãi suất đảm bảo ổn định lãi suất thị trường. Thứ tư: Từng bước giảm bội chi ngân sách theo hướng Chính phủ chỉ đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng trọng điểm liên quan đến quốc kế dân sinh, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua hình thức đối tác công tư (PPP) Thứ năm: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới, Chính phủ cần kiên định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô thay vì thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP, thậm chí cần đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn (khoảng 6 - 6,5%) để kiểm soát lạm phát ở mức 5 - 6% năm 2011 và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3 - 4% những năm tiếp theo. Thứ sáu: Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách.Trước mắt năm 2011, cả hai chính sách này phải nên được thắt chặt để giảm tổng cầu và ngăn chặn lạm phát, chính sách tài khóa cần được xây dựng theo hướng giảm dần thâm hụt tài chính tổng thể ở mức 4 - 5%/năm. 2.2. Giải pháp kiểm soát bội chi NSNN và kiềm chế lạm phát trong thời gian tới: Vấn đề đặt ra hiện nay là rà soát cắt giảm chi tiêu NSNN chưa thật cần thiết và kém hiệu quả như đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư chưa thật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Đây là một trong những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, nhưng với số NSNN hiện có như hiện nay sẽ không thể có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố trí. Do vậy, cần có sự rà soát để chuyển vốn từ các công trình chưa khởi công, khởi công chậm, hoặc thủ tục không đầy đủ sang cho các công trình chuyển tiếp, công trình cấp bách, công trình có hiệu quả kinh tế cao. Việc làm này, đỏi hỏi phải có sự đồng tâm nhất trí và quyết tâm cao của tất cả các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện chính sách của Nhà nước. Về chi tiêu thường xuyên, cũng nên rà soát lại tất cả các khâu hoạt động để tổ chức lại bộ máy cho hợp lý hơn, đồng thời cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết để tập trung nguồn lực cho các công tác khác quan trọng và cấp thiết hơn. Kiểm soát bội chi NSNN và triệt để thực hiện chính sách có thu mới chi, không để bội chi NSNN tăng cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP dưới mức 5%, tức là nên ở khoảng 3-4%. Đồng thời, tiến tới tính toán cân đối các nguồn phát hành trái phiếu, công trái giáo dục một cách hiệu quả hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc chưa đủ thủ tục thì nên cắt giảm. Cùng với chính sách tài khóa chặt chẽ thì chính sách tiền tệ thắt chặt với việc kiềm chế dư nợ tín dụng dưới 20 % cho năm 2011 sẽ là các biện pháp cần thiết để ổn định lạm phát ở mức hợp lý. Tuy nhiên cần lưu ý là các chính sách bao giờ cũng có độ trễ nhất định nên cần có thời gian để hiệu quả của các chính sách này được thể hiện. Hơn nữa mức thay đổi giá có quán tính nên chưa thể ngay lập tức dừng lại trong ngắn hạn.   ÄKết luận: S NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức sẽ dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. STăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích cầu quá mức thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao. 2.4 Những kiến nghị chủ quan của nhóm: Để sử dụng hợp lý tài chính của đất nước đang đứng trước nhiều biến động như nước ta để đất nước đi đúng quỹ đạo của nó. Nhóm chúng tôi có một số kiến nghị sau: w Cần có nhiều hơn những chính sách siết chặc vốn đầu tư công. w Nhà nước cần nhận định kịp thời và đúng những công trình phúc lợi, những nơi cần gấp nguồn ngân sách của nhà nước, những nơi nào chưa thật cần kíp thì nên cắt giảm để giảm thiểu việc thâm hụt ngân sách. w Trong tình hình đất nước lạm phát cao như hiện nay thì ngân sách nhà nước cần phải thặng dư chứ không phải nợ quá tải như hiện nay. w Các quan chức nhà nước cần có trách nhiệm hơn trong việc giám sát thu chi ngân sách nhà nước. w Nguồn thu từ thuế cần có những điều chỉnh cho kịp với tình hình lạm phát cao và kéo dài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO -Tư Giang - Sài Gòn tiếp thị -SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 10/2008 -Nguồn từ tổng cục thống kê -NCEIF - Theo báo cáo mới đây của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) -2009, Thanh toán quốc tế, nhà xuất bản ĐH Quốc gia TP. HCM - - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchinhsachtaikhoa.docx