Theo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Căn cứ vào mục tiêu đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo đuổi chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, củng cố hệ thống ngân hàng. Để điều hành được chính sách tiền tệ là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, mọi quyết định được đưa ra phải kịp thời và bám sát vào những biến động thực tế. Mục tiêu điều hành bao gồm các mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn nhưng mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ.
Xung quanh vấn đề tiền tệ, chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, đặc biệt hiện nay tình hình kinh tế- chính trị- xã hội thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng đang có nhiều biến động lớn, mà một trong những nguyên nhân là do ảnh hưởng của biến động tiền tệ. Nhưng do hạn chế về nhiều mặt, người thực hiện đề án xin chỉ nêu một số khía cạnh nhỏ trong lĩnh vực tiền tệ như ở trên để hiểu hơn về chính sách tiền tệ và Việt Nam hoạch định, điều hành các chính sách tiền tệ trong điều kiện thực tế như thế nào.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắt chặt.
Chính sách tiền tệ mở rộng là chính sách nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, và tạo việc làm, nhằm chống thất nghiệp và suy thoái nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tiền tệ nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế, nhằm chống lạm phát và khắc phục “tình trạng quá nóng” của nền kinh tế.
2.2. Mục đích, vai trò, tầm quan trọng của chính sách tiền tệ đối với mỗi quốc gia.
Muốn nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cần phải quản lý tốt kinh tế vĩ mô. Nghĩa là phải xử lý tốt các vấn đề về lạm phát, tiền tệ, tỷ giá hối đoái, chính sách tài khoá và các chính sách khác có liên quan nhằm thúc đẩy tích luỹ trong nước, đẩy mạnh đầu tư có hiệu quả. Quản lý kinh tế vĩ mô cần phải đạt được ít nhất cân đối trong ba lĩnh vực:
Cân đối thu chi ngân sách
Cân đối tích luỹ và đầu tư
Cân đối ngoại tệ
Một chính phủ quản lý tốt nền kinh tế là luôn tạo được sự cân đối trên ba lĩnh vực này mà không gây những biến động mạnh về giá cả, vật tư hàng hoá tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh.
Tuỳ theo đặc điểm từng quốc gia, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau mà chính sách tiền tệ của các quốc gia khác nhau là khác nhau, chính sách của cùng một quốc gia ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Các chính sách tiền tệ có mục tiêu, tính chất riêng khi hướng về mục tiêu chung là tăng trưởng nền kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Ví dụ: *Chính sách tiền tệ của Mỹ đưa ra 6 mục tiêu:
Công ăn việc làm cao
Tăng trưởng kinh tế
ổn định giá cả
ổn định lãi suất
ổn định thị trường tài chính
ổn định thị trường tài chính
* Chính sách tiền tệ của Liên bang Đức thì hướng tới các mục tiêu:
Tăng trưởng kinh tế
Kiềm chế lạm phát
- ổn định giá trị đồng tiền
2.2.1. ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát.
Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển ngày càng cao. Tuỳ theo các quan niệm và giác độ nghiên cứu mà lạm phát được định nghĩa riêng. Nhưng nhìn chung, lạm phát là sự tăng giá cả trung bình của hàng hoá theo thời gian. Lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai hướng: tích cực và tiêu cực.
Lạm phát tăng sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích luỹ, gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo, giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó, đời sống của người dân sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng do không thu hút được tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình…do đó lạm phát ảnh hưởng mọi mặt của nền kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng không tốt thì lạm phát vẫn có những ảnh hưởng tốt đến nền kinh tế. Một tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó, lạm phát là công cụ điều tiết của nền kinh tế.
Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế nó, để ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người dân, chứ không phải triệt tiêu nó.
2.2.2. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hoá diễn ra rất nhanh. Trong hệ thống tài chính, tốc độ này phụ thuộc vào mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó. Một sự biến động trong tỷ giá hối đoái tác động đến các hoạt động kinh tế trong nước, đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp( có nghĩa đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây khó khăn cho xuất khẩu do hàng xuất khẩu đắt hơn hàng nhập khẩu. Vì vậy làm giảm lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia.
Nhưng nếu một tỷ giá hối đoái quá cao(đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ) làm bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu do tỷ giá cao làm cho hàng hoá xuất khẩu rẻ đi, làm tăng khả năng cạnh tranh… do vậy dự trữ ngoại tệ tăng. Tuy nhiên gây khó khăn cho hoạt động nhập khẩu, nên ảnh hưởng đến các doanh nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguyên vật liệu, máy móc nhập khẩu.
Như vậy, một tỷ giá quá cao hay quá thấp đều có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, Ngân hàng trung ương cần phải sử dụng các biện pháp, công cụ để can thiệp giữ cho tỷ giá không biến động quá lớn gây sự bất ổn định trong nền kinh tế, vừa phải khuyến khích xuất khẩu vừa phải khuyến khích nhập khẩu để cân bằng nền kinh tế.
2.2.3. Kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là gì? chính sách tiền tệ ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?
Khi khối lượng tiền tệ cung ứng tăng, làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, làm tăng tổng sản phẩm quốc nội( GDP). Khi khối lượng tiền tệ tăng làm tăng tổng cầu, do đó sức mua hàng hoá tăng là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Nếu mức gia tăng GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất tăng, làm giảm đầu tư, do đó GDP giảm. Mặt khác, khi khối lượng tiền tệ giảm làm giảm tổng cầu, làm giảm sức mua, làm hàng hoá tồn đọng, các doanh nghiệp không có động lực mở rộng sản xuất, do đó GDP giảm.
Như vậy chính sách tiền tệ tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
2.2.4. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Tạo việc làm, giảm thất nghiệp là một trong những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Để thực hiện được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc tác động vào đầu tư sản xuất, mở rộng hoạt động kinh tế nhằm chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định
Như vậy, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và thất nghiệp có mối quan hệ đối nghịch nhau:
Khi kiềm chế được lạm phát thì tăng trưởng kinh tế giảm, thất
nghiệp tăng, nền kinh tế suy thoái.
Khi mở rộng đầu tư,khắc phục suy thoái, giảm thất nghiệp, kinh tế
tăng trưởng cao, thì khó có thể kiềm chế được lạm phát.
Như vậy, nền kinh tế luôn biến động mang tính chu kỳ: tăng trưởng kinh tế quá mức, dẫn đến lạm phát, từ đó rơi vào tình trạng suy thoái. Một lượng tiền tệ tăng lên để cứu vãn nền kinh tế, chuyển nền kinh tế sang thời phục hưng, rồi lại tăng trưởng mạnh…
Tóm lại, đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ cần tìm giải pháp để vừa đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu kinh tế khác.
2.4. Các mối liên hệ của chính sách tiền tệ.
Hệ thống công cụ quản lý của một quốc gia gồm có bốn chính sách: chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách tiền tệ. Trong đó, chính sách tiền tệ được coi là chính sách quan trọng, có vị trí trung tâm, gắn kết các chính sách kinh tế vĩ mô lại với nhau. Ví dụ, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách. Chính sách tài khoá ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền trong lưu thông - đối tượng của chính sách tiền tệ. Tiền tệ đi vào lưu thông qua nhiều kênh, trong đó chủ yếu là qua ngân sách và tín dụng. Do đó, thu chi ngân sách và tín dụng thặng dư, thâm hụt hay thăng bằng đều ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định tiền tệ của chính sách tiền tệ.
Khi ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể vay ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ và ngân hàng trung ương hay ngân hàng thương mại mua. Đây là hình thức tài trợ tiền tệ. Khi đó, lượng tiền cung ứng tăng, gây bất lợi cho mục tiêu ổn định tiền tệ. Chính phủ nên vay của các tổ chức phi ngân hàng hoặc trong dân cư bằng cách phát hành trái phiếu. Như thế sẽ không làm tăng lượng tiền cung ứng, nhưng sẽ làm tăng cầu tín dụng, làm lãi suất tăng, do đó ảnh hưởng đến đầu tư. Cũng có thể bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách vay từ nước ngoài. Nhưng cách này cũng không đảm bảo ổn định được tiền tệ, vì nhà nước vẫn phải dùng nội tệ để chi trả cho các khoản chi tiêu của chính phủ, làm cung tiền tăng. Chỉ khi thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ chính phủ dùng để nhập khẩu đúng bằng thâm hụt ngân sách bán hàng nhập khẩu thu nội tệ đảm bảo chi ngân sách là phù hợp với mục tiêu ổn định tiền tệ. Nhưng để trả được khoản nợ nước ngoài này chính phủ phải tăng xuất khẩu làm ảnh hưởng đến tiền hàng trong nước. Ngoài ra, lãi suất nợ nước ngoài thường biến động gây bất ổn định tiền tệ.
Theo J.Keynes, nhà nước cần mạnh dạn chi tiêu dù có thâm hụt ngân sách, có như thế thì mới tạo đủ công ăn việc làm, tạo thu nhập, từ đó thúc đẩy tiêu dùng xã hội, kích thích sản xuất phát triển. Keynes luôn nhấn mạnh vai trò của tiền tệ đối với nền kinh tế hiện vật. Nhưng đến giữa thập kỷ 70 đến nay, nền kinh tế thế giới bị suy thoái, thất nghiệp suy thoái, lạm phát, làm hệ thống tiền tệ thế giới bị rối loạn thì lý thuyết của Keynes không còn đúng nữa mà trở nên kém hiệu quả và bị phê phán.
Theo Friedman, chính sách khôi phục kinh tế bằng ngân sách thực chất là chính sách tiền tệ. Sự kết hợp giữa chính sách ngân sách và chính sách tiền tệ làm tăng thêm khối lượng tiền tệ là một yếu tố đảm bảo khôi phục nền kinh tế phát triển.
Giữa chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách còn có những xung đột: khi chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt thì lại có chính sách bành trướng ngân sách, và ngược lại. Khi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu giảm lạm phát thì làm chậm tăng trưởng kinh tế, do đó giảm nguồn thu ngân sách, và dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn, chính phủ buộc phải đi vay làm tăng cầu tiền tệ, lãi suất biến động, gây mất ổn định trên thị trường tài chính.
Như vậy, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ, phù hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách vừa đảm bảo tính độc lập, vừa đảm bảo tính thống nhất tránh tình trạng nền kinh tế rơi vào trì trệ, suy thoái, hay phát triển quá nóng, bất ổn.
2.5. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Để đạt được mục tiêu đề ra, Ngân hàng trung ương cần phải sử dụng hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết. Bao gồm các chính sách sau:
2.5.1. Công cụ tái cấp vốn.
Đây là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại, nhằm tạo bút tệ cho các ngân hàng thương mại nâng cao năng lực thanh toán, đồng thời làm tăng cung ứng tiền tệ.
Tuỳ theo từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển, công cụ này được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu giấy tờ có giá nên còn được gọi là công cụ tái chiết khấu. Ngoài ra, còn có các hình thức như: chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay bằng cách cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn han…
Cơ chế tác động: Ngân hàng trung ương điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay nới lỏng. Khi Ngân hàng trung ương thấy cần phải tăng lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ hạ lãi suất tái cấp vốn nhằm khuyến khích các Ngân hàng thượng mại đến Ngân hàng trung ương vay tiền, làm tăng dung lượng tín dụng được cấp đối với các Ngân hàng thương mại. Ngược lại, nếu thấy cần phải giảm lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, do đó làm hạn chế ý định vay của các Ngân hàng thương mại, và làm giảm dung lượng tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại vẫn có ý định vay.
Ưu điểm của công cụ tái cấp vốn là Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, kiểm soát lượng tiền lưu thông, kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các ngân hàng thương mại, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì Ngân hàng trung ương là chỗ dựa, phục hồi khả năng thanh toán…
Nhược điểm của công cụ này là Ngân hàng trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Như thế, quyền lực của Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại ngang nhau. Ngân hàng trung ương hạ lãi suất tái cấp vốn để khuyến khích các Ngân hàng thương mại vay, nhưng quyết định vay hay không lại phụ thuộc vào chính ngân hàng thương mại, nếu họ không vay thì mục tiêu điều tiết của công cụ này không được thực hiện.
2.5.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ Ngân hàng trung ương sử dụng để kiểm soát, điều chỉnh khả năng thanh toán, cho vay của các Ngân hàng thương mại thông qua tỷ lệ bắt buộc giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động. Khi Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghĩa là làm giảm khả năng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, do đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng khả năng tín dụng cho các Ngân hàng thương mại, làm tăng lượng tiền trong lưu thông.
Cơ chế tác động: thông qua công cụ này, Ngân hàng trung ương tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các Ngân hàng thương mại, và do đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng.
Công cụ này được áp dụng lần đầu ở Mỹ(1913) nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống các ngân hàng thương mại, đảm bảo tính thanh khoản cho các khoản tiền gửi. Do tính hiệu quả của công cụ này nên nó nhanh chóng được áp dụng ở các nước khác và được coi là một công cụ của chính sách tiền tệ
Ưu điểm của công cụ này là nó tác động mạnh đến lượng tiền cung ứng do tác động trực tiếp đến khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Tạo nên mối quan hệ giữa khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại và nhu cầu tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương. Nó tăng quyền lực cho Ngân hàng trung ương vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và mức độ khả dụng của các Ngân hàng thương mại mà Ngân hàng trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại. Đồng thời, công cụ này làm tăng tính cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại do không có sự phân biệt trong toàn hệ thống ngân hàng. Nó giúp các ngân hàng giảm thiểu được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, công cụ này cũng có những nhược điểm: chi phí quản lý cao khi thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc; việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên khả năng thanh toán ngay đối với một ngân hàng có dự trữ quá thấp; đồng thời nếu thay đổi tỷ lệ dự trữ thường xuyên sẽ gây nên tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng, làm khó khăn trong việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó.
2.5.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của ngân hàng mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ thông qua cung cầu các giấy tờ có giá, tác động đến tỷ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại, do đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến tăng hay giảm lượng tiền cung ứng.
Khi bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng trung ương đã thu hẹp tín dụng làm giảm khối lượng tiền tệ nhằm mục đích ngăn chặn tỷ lệ lạm phát tăng cao. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá ngắn hạn thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ được các Ngân hàng trung ương của các nước sử dụng.
Cơ chế tác động: nghiệp vụ này tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng, và tác động vào lãi suất.
Thông qua các hành vi mua bán các giấy tờ có giá, các chứng khoán trên thị trường mở của ngân hàng trung ương để gây ảnh hưởng ngay tức thì đến tình hình dự trữ của các ngân hàng thương mại thông qua ảnh hưởng tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương và của khách hàng tai các ngân hàng thương mại. Khi bán các chứng khoán, Ngân hàng trung ương làm giảm đi một lượng tiền dự trữ tương ứng. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ dẫn đến giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng, do đó làm giảm giảm lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo bằng sự giảm xuống của hệ số nhân tiền. Và ngược lại, khi mua chứng khoán, Ngân hàng trung ương làm tăng lượng tiền dự trữ tương ứng.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường đó là:
+ Khi dự trữ của các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng làm tác động đến cung cầu vốn của ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, sẽ dẫn đến lãi suất trên thị trường tiền ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự án của thị trường và các hoạt động Arbitrage về lãi suất, sẽ tác động đến các mức lãi suất trung bình và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ của nền kinh tế sẽ quyết định tại một mức thị trường xác định.
+ Việc mua bán chứng khoán làm ảnh hưởng đến cung cầu các loại chứng khoán trên thị trường mở, do đó ảnh hưởng đến giá cả của nó, và làm thay đổi tỷ lệ sinh lợi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
*Sơ đồ về cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc.
Cung TPKB giá TPKB ls thị trường
NHTW bán TPKB đầu tư
Dự trữ Cung vốn NHTM ls ngắn hạn ls thị trường
Các nghiệp vụ của thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường phải có sự tham gia của các ngân hàng trung ương bởi nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung không thay đổi. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường năng động --> làm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động, nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ của thị trường mở thường được thực hiện theo hai cách: các giao dịch không hoàn lại, và các giao dịch có hoàn lại. Cụ thể:
- Các giao dịch không hoàn lại ( các giao dịch mua đứt bán đoạn) gồm các nghiệp vụ mua bán chứng khoán của NHTW theo các phương thức mua đứt bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Qua đó, thực hiện việc chuyển đổi quyền sở hữu các chứng khoán. Do đó ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng là dài hạn.
- Các giao dịch hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn) chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời: các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sở dụng khi NHTW thực hiện mua các chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Hợp đồng mua lại đảo ngược được sử dụng khi NHTW muốn rút bớt dự trữ của hệ thống ngân hàng.Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở vì: đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng; chi phí giao dịch của một hợp đồng mua lại thấp hơn chi phí hợp đồng mua đứt bán đoạn; thích hợp cho các chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến sử dụng các giải pháp khắc phục; làm giảm bớt thời gian thông báo nên giảm bớt sự biến động của thị trường khi có sự thay đổi lien tục của NHTW.
Ngoài ra còn có các nghiệp vụ khác cũng được áp dụng: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ.
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo phương thức đấu thầu: đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Trong đó, đấu thầu theo khối lượng là hình thức đấu thầu mà NHTW niêm yết trước mức lãi suất, còn các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ cần đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất niêm yết. Còn đấu thầu lãi suất là hình thức mà các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền cung ứng với mỗi mức lãi suất do chính mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp.
Hàng hóa của thị trường mở không có giới hạn về chủng loại, nhưng những loại chứng khoán nợ chủ yếu là: tín phiếu kho bạc; chứng chỉ tiền gửi; thương phiếu; trái phiếu chính phủ; trái phiếu chính quyền địa phương; các hợp đồng mua lại;…
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, do:
+ Cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện của nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới buộc các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn.
+ Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ cao được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của cuộc sống là động lực quan trọng ra đời các sản phẩm tài chính mới, có ảnh hưởng đến hàng hoá trên thị trường mở.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính ưu việt so với các công cụ khác:
+ NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
+ Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào, mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ, NHTW cũng có thể thực hiện theo cách mua bán một lượng chứng khoán.
+ NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có sai lầm khi sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sử dụng công cụ đó
+ Việc thực hiện có thể hoàn thành nhanh chóng. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hay dự trữ thì NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
2.5.4. Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế vì lãi suất không trực tiếp làm tăng giảm cung tiền nhưng nó tác động vào sản xuất: kích thích hay kìm hãm. Vì vậy, lãi suất là công cụ rất quan trọng, có mức ảnh hưởng to lớn. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Điều hành lãi suất thông qua hai cơ chế: gián tiếp và trực tiếp.
+ Cơ chế gián tiếp: thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay, cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này thực hiện theo nguyên tắc: trong chính sách điều hành lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đến các khoản cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể thao từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung cầu vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. NHTW có thể điều chỉnh lãi suất chiết khấu để từ đó tác động đến lãi suất tiền tệ liên ngân hàng và do đó tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ theo từng thời kỳ. Cơ chế này được áp dụng rộng rãi, và cũng trở nên linh hoạt hơn.
+ Cơ chế trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng như: quy định mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay,…mà thực chất NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa, tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi cho phép các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có thay đổi, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất hợp lý. Nhìn chung, trong nền kinh tế phát triển lãi suất ngày càng tự do hoá. Còn ở những nền kinh tế mà hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sợ quản lý này.
2.5.5. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dơ nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW, nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nên kinh tế, tránh làm tăng quá mức khối lượng tiền trong nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều chỉnh lượng tiền cung ứng, được sử dụng khi các công cụ khác tỏ ra kém hiêu quả. Tuy nhiên, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều khiếm khuyết như: làm lãi suất tăng lên vì cung về vốn bị giới hạn không thoã mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế; nó làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và thiệt hại cho ngân hàng; hạn mức tín dụng cũng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế; khi thị trường hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước, nên chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó; nó cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì các NHTM thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay trước;…
Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng, tuy nhiên do những khuyết điểm trên làm cho nó kém linh hoạt hơn.
2.5.6. Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ nên chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế: xuất- nhập khẩu, sản xuất kinh doanh trong nước, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư từ nước ngoài, dự trữ ngoại hối,…mặc dù tỷ giá không phải là công cụ tác động trực tiếp đến lượng tiền trong lưu thông nhưng nó là công cụ hỗ trợ quan trọng cho việc điều hành chính sách tiền tệ được nhiều quốc gia sử dụng.
Có nhiều phương pháp điều hành tỷ giá: chính sách hối đoái, quỹ dự trữ bình quân hối đoái, phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ, chính sách lãi suất chiết khấu,…
+ Quỹ dự trữ bình quân hối đoái là một hình thức biến tướng của chính sách hối đoái, nhằm mcụ đích tạo ra một cách chủ động lượng dự trữ hối đoái để đối phó với sự biến động của tỷ giá thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị trường. Quỹ này chỉ có tác dụng khi có khủng hoảng ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ.
+ Phá giá tiền tệ là việc hạ thấp sức mua danh nghĩa của đồng nội tệ so với ngoại tệ, có nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng lên. Nhà nước áp dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có khủng hoảng ngoại hối: sức mua đồng tiền giảm sút mạnh không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, hay tỷ giá hối đoái biến động trong thời gian dài buộc phải xác định lại tỷ giá hối đoái. Kết quả của việc thực hiện chính sách này là sự thay đổi tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái. Như vậy, phá giá tiền tệ cũng làm thay đổi tỷ giá hối đoái như chính sách hối đoái, nhưng sự khác nhau cư bản ở đây là: chính sách tỷ giá là sự can thiệp thường xuyên của nhà nước vào tỷ giá theo một biên độ dao động cho phép nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá, ổn định sức mua của đồng tiền,…còn phá giá tiền tệ là biện pháp mạnh của Nhà nước được sử dụng khi thật sự cần thiết. Khi áp dụng, phá giá tiền tệ có những tác dụng lớn: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu góp phần làm cân bằng cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; khuyến khích đầu tư từ nước ngoài vào;…tuy nhiên, phá giá tiền tệ cũng có những mặt hạn chế của nó: ảnh hưởng đến tính ổn định trong nền kinh tế( các hoạt động xuất nhập khẩu); làm biến động các chỉ số kinh tế; giảm niềm tin của công chúng đối với đồng nội tệ;…do đó, nó không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cả tình hình chính trị và xã hội.
+ Nâng giá tiền tệ là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại tệ, hay tỷ giá hối đoái bị hạ thấp xuống. So với phá giá thì nâng giá tiền tệ có tác động ngược lại: khuyến khích nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu, cản trở nguồn vốn nước ngoài chảy vào trong nước, tránh sự tiếp cận với đồng Đôla mất giá,…
+ Chính sách lãi suất chiết khấu: là chính sách của NHTW dùng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái thông qua sự thay đổi lãi suất chiết khấu. Chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái vì giữa lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ gián tiếp chứ không phải là quan hệ nhân quả. Tuy nhiên không thể xem nhẹ chính sách lãi suất chiết khấu: nếu tình hình tiền tệ của các nước về đại thể là như nhau thì đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào các nước có mức lãi suất cao nên chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó.
II. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
1. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời kỳ trước.
Ngày 06-05-1951 Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam với năm nhiệm vụ: quản lý phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; quản lý kho bạc Nhà nước; huy động vốn cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý hoạt động tín dụng; quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ. Ngân hàng quốc gia là một cơ quan của Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Sắc lệnh chỉ rõ Ngân hàng quốc gia vừa làm nhiệm vụ cho vay, vừa làm nhiệm vụ quản lý.
Nền kinh tế Việt nam giai đoạn này vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ nên lưu lượng luồng vật tư, hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng đều được xác định qua chỉ tiêu kế hoạch: sự chia cắt lưu thông hàng hoá giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do.Thị trường tự do ngày càng phát triển trong khi thị trường có tổ chức dần thu hẹp, giá cả ngày càng tăng bộc lộ khuyết tật được che đậy từ trước tới nay, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng: tốc độ dư nợ vốn lưu động cuối năm 1984 tăng 20 lần so với 1876 và hơn 10 lần so với năm 1980, trước cải cách giá 1981-1982 giá Nhà nước tăng 19,7%, giá thị trường tăng 260% so vơí năm 1976. Những năm 1981-1982 Nhà nước chủ động điều chỉnh giá Nhà nước sát với giá thị trường do đó làm giá cả trên cả hai thị trường rơi vào vòng xoáy ốc: giá Nhà nước tăng 2640%, giá thị trường tăng 3270% so với năm 1976. Như vậy, yêu cầu của chính sách tiền tệ không được đảm bảo là chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Mặt khác, NHNN lại thực hiện chính sách vốn tín dụng ngân hàng tham gia theo phần trong định mức vốn lưu động các xí nghiệp Nhà nước, vì cho rằng cho vay để có vật tư hàng hoá là đảm bảo cho sản xuất kinh doanh, do đó đảm bảo ổn định tiền tệ. Chính vì vậy mà Nhà nước chủ động điều chỉnh giá tăng nhanh theo chỉ đạo của Nhà nước, tốc độ tín dụng cũng phải tăng theo, nhưng trong khi giá Nhà nước tăng 26 lần trong năm 1985 so với năm 1976, còn giá thị trường tăng 33 lần thì dư nợ tín dụng vốn lưu động của ngân hàng cũng chỉ tăng 20 lần, có nghĩa là giá trị thực của tín dụng đã bị giảm sút.
Kế hoạch tiền mặt được xem là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu cân đối tiền hàng, ổn định tiền tệ, nhưng lưu thông tiền tệ vẫn bị phân chia thành hai lĩnh vực: chuyển khoản và tiền mặt mà ít chú ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau trong chu chuyển tiền tệ. Vì vậy, hiệu quả của công cụ này chịu sự chi phối của cơ chế tín dụng và ngân sách. Yếu kém của công cụ này được bộc lộ rõ nhất là NHNN thường xuyên thiếu tiền mặt để chi trả làm phát sinh tình trạng giá tiền mặt cao hơn giá chuyển khoản.
Trong giai đoạn này, chỉ số giá hàng nhập khẩu tăng 256,3%, chỉ số giá hàng xuất khẩu tăng 133,7% nhưng Nhà nước lại thực hiện một chính sách tỷ giá phi thực tế. Trong một thời gian dài tỷ giá hối đoái mang tính chất tỷ giá kết toán đơn thuần không mang ý nghĩa là một công cụ của chính sách tiền tệ. Năm 1985 tỷ giá Nhà nước công bố 15 đồng=1 USD, còn ở thị trường chợ đen: 115 đồng=1 USD do đó gây bất lợi cho xuất khẩu, kích thích nhập khẩu làm cho cầu ngoại tệ tăng cao đẩy tỷ giá trên thị trường tăng lên.
Để khắc phục sự mất cân đối này thì quý III năm 1985 TW Đảng và Chính phủ đã quyết định thực hiện cải cách giá, lương, tiền. Nhưng không có hiệu quả mà ngược lại nó càng làm cho nền kinh tế mất cân đối, rôí loạn nghiêm trọng hơn.
Năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành chính nghị định 53/HĐBT chuyển đổi cơ chế tổ chức NHNN một cấp sang mô hình hai cấp góp phần tạo lập cho nền kinh tế những nhân tố mới thông qua việc hình thành mô hình ngân hàng mới của hệ thống ngân hàng cấp hai, đem lại những nội dung và hình thức mới trong lĩnh vực huy động và chu chuyển vốn. Các ngân hàng chuyển từ hình thức bao cấp sang hình thức kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường. Từ đó góp phần khắc phục tình trạng rối loạn và lạm phát trầm trọng kéo dài.
Năm 1989, NHNN ban hành hai văn bản quan trọng: chỉ thị 06/NHCT về quan hệ vốn trong hệ thống ngân hàng và giữa ngân hàng với khách hàng; thông tư 08/NHTT hướng dẫn tổ chức thanh toán vốn của ngân hàng chuyên doanh. Việc ban hành và thực hiện hai văn bản trên đã chỉ rõ vai trò quản lý vĩ mô của NHNN đối với nền kinh tế. Nhà nước bổ sung công cụ quản lý để kiểm soát khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế và xoá bỏ sự tách biệt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. sau một thời gian thực hiện NHNN đã kiềm chế được mức tăng của khối lượng tín dụng, đảm bảo thanh toán vốn kịp thời cho các tổ chức kinh tế, giải quyết được tình trạng khất hoãn nợ tiền mặt khối lượng lớn kéo dài.
Tuy NHNN đã đạt được những thành tựu trong việc thực hiện chính sách tín dụng, lãi suất và tỷ giá hối đoái nhưng do cơ cấu bội chi ngân sách những năm 1989-1990 nên vẫn phải phát hành tiền mới: 58,7% năm 1989, 47,9% năm 1990 để bù đắp, dẫn đến năm 1990-1991 xuất hiện tái lạm phát với tỷ lệ 67,4% và 67,6%.
Tóm lại, những đổi mới trong hoạt động của hệ thống ngân hàng được coi là bước đột phá trong việc quản lý tín dụng, tiền tệ, và hoạt động của ngân hàng. Một số thành tựu như: chặn đứng được siêu lạm phát kéo dài, hệ thống ngân hàng chuyển từ một cấp sang hai cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những mặt hạn chế: tổ chức hệ thống ngân hàng cấp hai còn chưa tách bạch, còn cồng kềnh, chồng chéo, chưa thật sự đúng hướng; chính sách tiền tệ theo cơ chế mới chưa được định hướng rõ nét, chưa xác định rõ được công cụ của chính sách tiền tệ, nhiều khu vực của chính sách tiền tệ còn bị bỏ trống; các phương thức nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng chưa được đổi mới và triển khai có hiệu quả; các công cụ kiểm tra, giám sát còn yếu kém, chưa an toàn cho cả người gửi và hệ thống ngân hàng. Như vậy, trong thời kỳ này hoạt động ngân hàng chưa thực sự là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khi có pháp lệnh ngân hàng ban hành 1990 đến nay, cùng với những tiến bộ trong nền kinh tế trong nước và thế giới, chính sách tiền tệ ở Việt Nam có nhiều thay đổi rõ rệt. Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước cần phải xây dựng một chính sách tiền tệ phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã thông qua là hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Vì thực tế chỉ ra rằng sự ổn định của tiền tệ, ổn định của hệ thống ngân hàng là điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước.Và để thực hiện được mục tiêu chính sách tiền tệ đã đặt ra thì NHNN cần phải quản lý và điều hành khối lượng tiền tệ cung ứng.
Trong thời kỳ bao cấp, chỉ tiêu phát hành tiền do Chính phủ quy định và thường xuyên được bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước nên tổng mức cung ứng tiền tệ vượt quá tổng cầu trong nền kinh tế dẫn đến vòng xoáy lạm phát. Việc không kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng qua kênh tín dụng, chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thấp làm cho nhu cầu tiền mặt lớn gây khó khăn cho việc điều hoà tiền mặt của NHNN.
Từ năm 1990, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng tiền tệ, điều hành, kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới theo nội dung va nguyên tắc hoàn toàn khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được lượng tiền cung ứng hàng năm, lựa chọn được công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đặc biệt, năm 1993 NHNN đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu qủa lượng tiền cung ứng, sở dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số.
Đến năm 2004, tình hình kinh tế tiền tệ có nhiều biến động phức tạp, trên thị trường ngoại hối: đồng đô la Mỹ mất giá kỷ lục so với các loại ngoại tệ chủ đạo khác, xu hướng tăng giá đột biến của một số mặt hàng chiến lược trên thế giới như dầu thô, thép, phân bón,…cộng thêm thiên tai, dịch cúm gia cầm, những tác động tích cực của tình hình quản lý thị trường trước việc Chính phủ dự kiến cải cách tiền lương…đã làm tăng chỉ số tiêu dùng, tạo tâm lý diễn biến lạm phát, gây sức ép lên điều hành chính sách tiền tệ.
Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu đề ra, đồng thời góp phần bình ổn giá tiêu dùng, NHNN đã có các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp. Cụ thể:
+ Về lãi suất: để ổn định lãi suất thị trường, NHNN tiếp tục duy trì ổn định các mức lãi suất chỉ đạo của NHNN như lãi suất cơ bản (7,5%/năm), lãi suất chiết khấu(3,0%/năm), lãi suất tái cấp vốn(3,0%/năm). Điều này đã có tác động đến lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng trong năm 2004 chỉ dao động nhẹ(lãi suất huy động VND tăng khoảng 0,36-0,6%/năm, còn ngoại tệ tăng 0,15-0,3%/năm)
+ Về tỷ giá: để giữ ổn định tỷ giá, toạ lòng tin cho thị trường, kiềm chế việc chuyển dịch tiết kiệm từ VND sang USD, NHNN phải điều hành tỷ giá linh hoạt, thận trọng, bám sát vùng ngang giá đã được xác định và biến động của thị trường ngoại hối. Cuối năm 2004, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng chỉ tăng 1% so với đầu năm.
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: đã tăng cả về số phiên hoạt động và khối lượng giao dịch, ngày càng trở thành kênh chủ yếu để NHNN điều hòa vốn khả dụng các NHTM và định hướng lãi suất thị trường, góp phần duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Năm 2004, NHNN thực hiện 123 phiên giao dịch với tổng phiên giao dịch 63000 tỷ đồng, bằng 290% tổng doanh số giao dịch của cả năm 2003.
+ Về dự trữ bắt buộc: để kiểm soát tăng trưởng tín dụng, góp phần ổn định giá cả, từ kỳ dự trữ tháng 7/2004 NHNN đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND và USD(loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 năm tăng từ 2% lên 5% đối với VND, và từ 4% đến 8% đối với ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 năm,…). Cơ chế trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng bắt đầu được áp dụng nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
+ Ngoài ra, NHNN đẩy mạnh quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực phân tích, dự báo, tạo các điều kiện cần thiết để chủ động điều tiết thị trường tiền tệ như: thành lập bộ phận chuyên môn, bố trí cán bộ có trình độ để phân tích và dự báo thị trường, thiết lập mô hình dự báo lạm phát theo phương pháp hiện đại; sửa đổi, bổ sung chế độ thống kê, đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời và đầy đủ hơn nhằm nâng cao chất lượng dự báo, phân tích; nghiên cứu xây dựng các phần mềm phục vụ cho việc dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, chương trình giao dịch các nghiệp vụ thị trường tiền tệ và lưu ký giấy tờ có giá nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN; ban hành một số văn bản tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ như quy chế môi giới tiền tệ: quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá,…
Như vậy trong bối cảnh tình hình kinh tế, tiền tệ năm 2004 có nhiều biến động phức tạp, nhất là xu hướng tăng gía đột biến của một số mặt hàng, điều hành tiền tệ của NHNN vẫn đảm bảo thận trọng, linh hoạt và có tác động nhất định làm giảm áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ, góp phần kiềm chế tốc độ tăng giá, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế.
3. Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Nhà nước. Nó rất nhạy cảm và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó các công cụ điều hành chính sách tiền tệ là cốt lõi. Sử dụng các công cụ một cách phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc điều hành chính sách tiền tệ. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường cần thực hiện cả hai nội dung: điều hành các công cụ chính sách tiền tệ để xử lý các vấn đề trước mắt, và hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường.
3.1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ để xử lý các vấn đề trước mắt.
Khi xây dựng các mục tiêu của chính sách tiền tệ ngắn hạn phải tính toán các yếu tố ảnh hưởng và mỗi khi nền kinh tế có biến động, nhất là có sự tăng lên của chỉ số lạm phát, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ cần phải linh hoạt và thận trọng. Điều này thành nguyên tắc để xử lý các vấn đề bất cập nảy sinh. Thực tiễn ở nước ta thời gian qua, diễn biến của lạm phát còn phức tạp: năm 2000 là -0,6% nhưng 2004 là 9,5%. Chỉ số đó là cao hơn nhiều và có sự đột biến so với 10 năm trở lại đây, các biện pháp mà NHNN sử dụng:
+ Tính toán các yếu tố tiền tệ khi hoạch định chính sách tiền tệ hàng năm: tăng trưởng tín dụng; cung ứng tiền; lãi suất, giá cả, tăng lương,…
+ Xác định chính xác các nguyên nhân làm tăng tỷ lệ lạm phát: do chính sách tiền tệ hay do các nhân tố bất thường nằm ngoài chính sách tiền tệ. Để làm cơ sở cho việc xử lý bằng điều hành chính sách tiền tệ hay biện pháp điều hoà lưu thông phân phối, cân đối xuất nhập khẩu, mở rộng chính sách tài chính,…Các nguyên nhân được xác định trong năm qua: dịch cúm gà và hạn hán nghiêm trọng; giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới tăng cao: dầu mỏ, phân bón,…làm giá cả trong nước tăng lên; cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho khối lượng tiền tệ vào lưu thông tăng(chính sách lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp…) làm tổng phương tiện thanh toán tăng và gây áp lực đến lạm phát.
+ NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng: đối với công cụ tỷ lệ dợ trữ bắt buộc: điều chỉnh tăng phù hợp với mức tăng của vốn cho vay trước đó, mà đã được xác định là góp phần làm tăng tỷ lệ phát. Tiếp tục thực hiện quy định mở rộng tiền gửi phải dự trữ bắt buộc và điều chỉnh các tỷ lệ của công cụ này; cần chú trọng công cụ nghiệp vụ thị trường mở nhằm phát huy vai trò to lớn trong việc điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán và ổn định thị trường tiền tệ. Khi tỷ lệ lạm phát tăng có thể điều hành công cụ này bằng cách tăng các phiên giao dịch , doanh số mua bán và NHNN tăng số lượng tín phiếu và chào bán giấy tờ có giá ngắn hạn, nhằm thu hút lượng tiền thừa trong lưu thông:
Điều hành lãi suất theo hướng tăng tiền mặt bằng lãi suất thị trường: lạm phát tăng mà điều hành lãi suất tăng là hướng đi đúng. Lúc đó các tổ chức tín dụng có điều kiện tăng cường thu hút nguồn vốn huy động và cũng tạm thời hạn chế cho vay đối với nền kinh tế, do đó lượng tiền cung ứng giảm đi. Trong điều kiện thực hiện lãi suất thoả thuận, NHNN thực hiện kiểm soát lãi suất thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đánh giá ảnh hưởng của công cụ này đến lạm phát là không lớn, nên NHNN không điều chỉnh tăng lên mà vẫn giữ mức ổn định. Đồng thời, NHNN sử dụng linh hoạt lượng tiền cung ứng để đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, mở rộng quy mô và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, cùng với sự phối hợp của hiệp hội Ngân hàng để giữ cho lãi suất huy động và lãi suất cho vay không có sự biến động lớn.
Giữ ổn định tỷ giá hối đoái, từ đầu năm 2004 đến nay tỷ giá hối đoái khá ổn định, không vượt quá 1% so với đầu năm. Trên cơ sở cân đối cung cầu ngoại tệ, mua bán ngoại tệ theo tình hình của thị trường ngoại tệ.
Giữ mức tăng trưởng tín dụng không vượt quá 25% cả năm như kế hoạch đã đề ra. Các tổ chức tín dụng tập trung vốn cho những dự án cấp thiết, có hiệu quả. Hạn chế cho vay những dự án kém hiệu quả, doanh nghiệp nợ đọng lớn.
3.2. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường.
Điều hành các công cụ để xử lý các vấn đề trong chính sách tiền tệ ngắn hạn là từng bước hoàn thiện chúng. Căn cứ vào mức độ, kết quả và những khó khăn của việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHNN, yêu cầu đổi mới các công cụ nhằm nâng cao vai trò kiểm soát tiền tệ của NHNN và phù hợp với thông lệ quốc tế, xu hướng hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ theo các hướng sau:
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: đây là công cụ được coi là một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ. Cần phải hoàn thiện theo hướng: mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN, khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải được điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường; mở rộng các đối tượng tổ chức tín dụng phải thực hiện dự trữ bắt buộc, đổi mới phương pháp tính toán và quản lý theo hướng chuyển giao nhiệm vụ cho các chi nhánh NHNN khu vực, nhằm tăng cường kiểm tra giám sát các tổ chức tín dụng về việc chấp hành quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc; điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải dựa trên thực tế tình hình kinh tế, trong những trường hợp đặc biệt khi cần có sự điều chỉnh khối lượng lớn tổng phương tiện thanh toán thì NHNN mới sử dụng đến công cụ này để hỗ trợ cho các công cụ khác.
+ Xác định lãi suất tái chiết khấu có cơ sở khoa học và điều chỉnh cho phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ: nền kinh tế đã tự do hoá lãi suất thì lãi suất tái chiết khấu có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều hành lãi suất thị trường và điều tiết lượng tiền cung ứng. Do đó, định hướng hoàn thiện công cụ này là:
Xác định lãi suất tái chiết khấu cần dựa trên những cơ sở khoa học và đảm bảo các nguyên tắc xác định lãi suất trên thị trường
điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu linh hoạt, bám sát thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ.
Xoá bỏ taí cấp vốn của NHNN cho các NHTMNN, bởi lẽ cấp tín dụng theo chỉ định của Nhà nước.
Xoá bỏ tái cấp vốn dưới hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, vì nó là một hình thức tín dụng có đảm bảo thấp.
Hoàn thiện quy chế chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn. Mở rộng đối tượng cho vay chiết khấu và tái chiết khấu.
+ Phát triển thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở phải được hoàn thành cả về khung pháp lý, kỹ thuật điều hành, cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo cán bộ. Để hoàn thiện công cụ này cần: phải tạo thêm hàng hoá cho thị trường mở: tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…;mở rộng các thành viên tham gia; chú trọng đào tạo cán bộ chuyên môn; cải tiến các phiên giao dịch thường xuyên hơn…
+ Điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt theo diễn biến thị trường: khi sử dụng công cụ này cần hoàn thiện theo hướng: điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt và đổi mới thông qua mở rộng biên độ tỷ giá được phép giao dịch theo cả hai chiều; xây dựng cơ chế can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại tệ để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái; từng bước giảm bớt sự can thiệp của NHNN tiến tới hình thành tỷ giá theo quy luật cung cầu; thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nới lỏng và tiến dần đến tự do các giao dịch vãng lai, tạo điều kiện thu hút nước ngoài.
Tóm lại để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, định hướng quan trọng là phải phối hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ các công cụ của chính sách tiền tệ, tạo nên một hệ thống công cụ thực sự hợp lý và hiệu quả.
C. Kết luận.
Theo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Căn cứ vào mục tiêu đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo đuổi chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, củng cố hệ thống ngân hàng. Để điều hành được chính sách tiền tệ là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, mọi quyết định được đưa ra phải kịp thời và bám sát vào những biến động thực tế. Mục tiêu điều hành bao gồm các mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn… nhưng mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ.
Xung quanh vấn đề tiền tệ, chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, đặc biệt hiện nay tình hình kinh tế- chính trị- xã hội thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng đang có nhiều biến động lớn, mà một trong những nguyên nhân là do ảnh hưởng của biến động tiền tệ. Nhưng do hạn chế về nhiều mặt, người thực hiện đề án xin chỉ nêu một số khía cạnh nhỏ trong lĩnh vực tiền tệ như ở trên để hiểu hơn về chính sách tiền tệ và Việt Nam hoạch định, điều hành các chính sách tiền tệ trong điều kiện thực tế như thế nào.
Mục Lục
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – FREDERIC S.MISHKIN
Lý thuyết tài chính tiền tệ – trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
Bàn về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay – Hoàng Xuân Quế.
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ
Báo Tin tức Việt Nam
Website: www.vietnamnet.vn
www.vnexpress.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0736.doc