MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 2
1. Nhận thức chung về hệ thống các vùng qua các giai đoạn lịch sử 2
2. Điều kiện phát triển của đồng bằng sông Cửu Long 3
2.1. Điều kiện tự nhiên 3
2.2. Tài nguyên nhân văn 4
2.3. Chính sách của Đảng 5
3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long 6
3.1. Khái quát tình hình 6
3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8
4. Biến đổi cơ cấu xã hôi ở đồng bằng sông Cửu Long 16
4.1. Dân số 17
4.2. Cơ cấu lao động , xã hội 17
5. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế- xã hội của đồng bằng sông Cửu Long trong tương quan với các vùng khác 19
6. Định hướng phát triển 23
6.1. Đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước 23
6.3. Các giải pháp 24
PHẦN KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chuyển biến cơ cấu kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
CHUYỂN BIẾN CƠ CẤU KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
PHẦN MỞ ĐẦU
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có liên quan hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Có các loại cơ cấu kinh tế khác nhau: cơ cấu nền kinh tế quốc dân, cơ cấu theo ngành kinh tế - kĩ thuật, cơ cấu theo vùng, cơ cấu theo đơn vị hành chính - lãnh thổ…Nghiên cứu biến đổi cơ cấu kinh tế sẽ cho cái nhìn tổng quan về biến đổi cơ cấu xã hội. Bởi biến đổi cơ cấu xã hội là kết quả trực tiếp của biến đổi cơ cấu kinh tế.
Một vấn đề trọng điểm trong cơ cấu kinh tế là cơ cấu vùng kinh tế. Nó chẳng những quan hệ trực tiếp đến mục tiêu phát triển, cân đối trên địa bàn cả nước mà còn kết hợp phát triển kinh tế với chính sách xã hội. Chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu tất cả các vùng trên cả nước sẽ khó tránh khỏi sự dàn trải. Vì vậy, lựa chọn một vùng kinh tế để nghiên cứu, đồng thời có cái nhìn đối sánh với các vùng khác trong cả nước sẽ thích hợp hơn cả. Trong tiểu luận này tôi xin có những tìm hiểu bước đầu về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long (mà trọng tâm là chuyển dịch trong nông nghiệp).
PHẦN NỘI DUNG
1. Nhận thức chung về hệ thống các vùng qua các giai đoạn lịch sử
Các vùng kinh tế từng được hình thành theo tinh thần đã có từ Đại hội Đảng lần thứ 4, thứ 5. Nhưng chỉ từ năm 1986 trở đi, các vùng kinh tế chiến lược mới bắt đầu phát huy được thế mạnh của mình.
Cơ cấu kinh tế vùng là tỷ trọng kinh tế trong từng địa bàn. Những năm 1986- 2000 nước ta được chia làm 8 vùng kinh tế:
+/ Vùng Đông Bắc gồm 11 tỉnh:Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai ,Yên Bái .
+/ Vùng Tây Bắc: gồm 3 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình
+/Đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh : Hà Nội, Hải Phòng,Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây,Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc.
+/ Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: gồm 6 tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà
+/ Bắc Trung Bộ: gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế
+/ Vùng Tây Nguyên: gồm 4 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng
+/ Vùng Đông Nam Bộ : gồm 8 tỉnh: Ninh Thuận, Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Phước , Tây Ninh.
+/ Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: gồm 12 tỉnh: Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp,Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Từ năm 2001 đến nay nước ta gồm 6 vùng ( theo Địa lý kinh tế xã hội của Lê Thông ):
+Trung du miền núi phía bắc: ( gồm 14 tỉnh ) Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ.
+ Đồng bằng sông Hồng và trọng điểm bắc bộ: (gồm 12 tỉnh ) Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình.
+Bắc trung bộ, duyên hải miên Trung và trọng điểm miền trung:(gồm 14 tỉnh ) Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Ninh Thuận.
+Tây Nguyên (gồm 5 tỉnh ) Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng.
+ Đông Nam Bộ (gồm 7 tỉnh ): Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An.
+ Đồng bằng sông Cửu Long (gồm 12 tỉnh ): Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bình Thuận, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Kiên Giang.
Nhận xét : Việc phân chia các thành các vùng kinh tế ở hai giai đoạn 1986 – 2000 và 2001 – nay về cơ bản không có sự khác biệt lớn. Có chăng chỉ là sự tách, gộp vùng kinh tế Trung du và mièn núi phía bắc.Vì vậy, nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ đổi mới vẫn đúng trong cả hai cách phân chia.
2. Điều kiện phát triển của đồng bằng sông Cửu Long
2.1. Điều kiện tự nhiên
- Địa hình: Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích 39.713 km2, là vùng đất cuối cùng của hạ lưu sông MêKông, với vị trí như một bán đảo, 3 mặt (đông, tây, nam) giáp biển, phần còn lại giáp biên giới Campuchia, và vùng miền Đông, vùng kinh tế lớn nhất hiện nay.
- Khí hậu: nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo , lượng mưa lớn và theo mùa. Khí hậu này rất phù hợp cho sinh vật tăng trưởng và phát triển, tạo điều kiện cho việc thâm canh tăng vụ.
- Sinh vật: Đồng bằng sông Cửu Long có tài nguyên sinh vật phong phú, đặc trưng ở nước ta. Điển hình là rừng ngập mặn ven biển ( có giá trị về mặt kinh tế ), hệ sinh thái ngập nước. Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng đồng bằng hiếm hoi trên thế giới. Thuỷ hải sản phong phú
- Khoáng sản: Không đáng kể. Chủ yếu là đá vôi, cát , than bùn
Do những điều kiện thuỷ văn, tự nhiên của vùng đã hình thành 3 vùng nhỏ:vùng ngập lũ sâu có biên giới giáp Campuchia; bán đảo Cà Mau tiếp giáp biển và vùng liền kề với thành phố Hồ Chí Minh. Trên nền chung đó , mỗi tiểu vùng, mỗi tỉnh có đôi chút sắc thái riêng và ít nhiều chi phối sự phát triển bởi các cấu trúc hành chính.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất đầy tiềm năng về nông nghiệp. Trên thực tế , những yếu tố tự nhiên đó đã được chú ý khai thác, đóng góp to lớn cho sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước.
2.2. Tài nguyên nhân văn
- Đồng bằng sông Cửu Long được bồi đắp bởi sông Cửu Long, có lịch sử khai phá muộn (ước tính khoảng 300 năm ). Từ vùng sình lầy hoang vu, nhiều thế hệ cư dân khai phá đã biến nơi đây thành vùng đất trù phú , nhiều sản vật .
- Là vùng đất cuối của tổ quốc, cư dân được hợp thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó người Khơme (6%), người Hoa ( 1,7%). Qua nhiều thế hệ khai mở , gắn bó với thiên nhiên đã tạo nên phong cách văn hoa riêng của vùng Nam bộ -Đồng bằng sông Cửu Long
- Hiện nay dân số của vùng đồng bằng sông Cửu Long là 16,7 triệu người ( Năm 2002). Mật độ dân số là : 421 người/ 1km2 ( so với cả nước : 242 người / 1km2 ). Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên là : 2,3%
- Cơ cấu dân số trẻ : 53% ở độ tuổi dưới 20 tuổi .Cơ cấu giới tính: Nam chiếm 47,4 %, nữ chiếm 52,6 %.
- Dân số phân bố không đều : tập trung đông ở ven sông Tiền , sông Hậu ( Tiền Giang, Bến Tre, An Giang). Cư dân có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp , đặc biệt là trong canh tác lúa nước.
Nhận xét: Với những điều kiện trên, đồng bằng sông Cửu Long đã hôi tụ những thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp.
2.3. Chính sách của Đảng
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà Nước đã nêu lên những phương hướng và mục tiêu kinh tế - xã hội trong thời gian cụ thể , đáp ứng được nhu cầu đổi mới tất yếu của lịch sử.
a/Chính sách của Đảng đối với việc phát triển các vùng kinh tế:
(Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Đai h ội VII )
Hướng phát triển kinh tế trên các vùng:
- Vùng đồng bằng: Vị trí hàng đầu trong sản xuất lương thực, thực, phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, phát triển công nghiệp nông thôn, mở mang dịch vụ.
Tập trung sức phát triển lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Ưu tiên cho địa bàn có ưu thế và hiệu suất đầu tư và tỷ suất hàng hoá.
Vùng trung du và miền núi: Chuyển sang kinh tế hàng hoá, phát huy thế mạnh lâm nghiệp. Hình thành chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, khai khoáng,… Đẩy mạnh khai thác khoáng sản và thuỷ năng.Miền núi Nhà Nước hỗ trợ đầu tư mở mang giao thông vận tải .
Vùng biển, hải đảo: Khai thác, chế biến thuỷ sản, khai thác chế biến dầu khí và các sa khoáng. Các tỉnh ven biển phát huy thuận lợi mở cửa ra bên ngoài (củng cố an ninh quốc phòng
b/ Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ (phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000).
Mục tiêu tạo điều kiện cho tất cả các vùng phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng. Từ đó hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, liên kết giữa các vùng.
Riêng với vùng đồng bằng sông Cửu Long phải:
Phát huy lợi thế của vùng sản xuất lương thực, rau quả lớn của cả nước. Tăng nhanh diện tích gieo trồng, năng suất và chất lượng sản phẩm.
Tăng cường kết cấu hạ tầng : mạng lưới giao thông đương bộ và giao thông đường thuỷ. Nâng cấp, xây dựng một số cảng sông. Nâng cấp sân bay trong vùng.
Đặc biệt đại hội Đảng VII chỉ đạo 3 chương trình kinh tế : lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất nhập khẩu được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài.Vì vậy đồng bằng sông Cửu Long được chú trong tập trung sức lực phát triển lương thực - thực phẩm.
- Đại hôi Đảng toàn quốc lần IX đưa ra định hương phát triển kinh tê lãnh thổ. Cụ thể ở đồng bằng sông Cửu Long là:
+ Phát huy lợi thế của vùng sản xuất lương thực . Rau quả , thuỷ sản hàng hoá lớn nhất cả nước.
+ Tăng cường kết cấu hạ tầng: mạng lưới giao thông đường bộ và đương thuỷ
+ Nâng cấp các quốc lộ đến tỉnh lỵ
3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long
3.1. Khái quát tình hình
Với những điều kiện phát triển (điều kiện tự nhiên, t ài nguyên nhân văn, chính sách của Đảng) vùng đông bằng sông Cửu Long đã có nhiều bước phát triển, gặt hái được nhiều thành tựu. Nổi trội nhất là sản xuất lương thực trong những năm 1986-1995 và thuỷ sản tư 1995 đến nay.
Năm 1980, sản xuất lương thực đạt 5,5 triệu tấn, đến 1989 được con số 9 triệu tấn . Từ đó đến năm 1995 sản lượng lương thực liên tục gia tăng, đóng góp vào việc ổn định lương thực đất nước và duy trì nhịp độ xuất khẩu trong những năm tiếp theo.
Thuỷ sản cũng đạt mức tăng cao. Năm 1986 sản lượng thuỷ sản là 356 nghìn tấn, năm 1990 là 425 nghìn tấn, năm 1999 sản lượng là 961 nghìn tấn . Mỗi năm tăng 9,5%. Đến nay, trên 50% và kim nghạch xuất khẩu là thuỷ sản cả nước là do trong vùng cung cấp.
Một số thành tựu đã đạt được của đồng bằng sông Cửu Long:
Chỉ tiêu
ĐVT
1991
1995
1996
2000
2001
91-95
96-00
01-00
Dân số
Ng.người
13194,8
14931,3
15690,9
16389,5
16611,3
3,0
1,1
1,4
GDP
Tỷ đồng
26390,7
37898,6
41557,7
55481,1
59570,5
9,5
7,5
7,4
GDP/ người
Triệu đồng
2000,1
2555,3
2648,5
3385,2
3586,1
6,3
6,3
5,9
GTSXNN
Tỷ đồng
11183,9
35333,6
37404,2
43992,7
43559,2
33,3
4,1
1,0
GTSX Thỷ sản
Tỷ đồng
3024,5
6974,1
7516,7
10800,1
13432,4
23,2
9,5
24,4
GTSXCN
Tỷ đồng
4052,6
11872,7
13592,1
23167,7
26794,9
30,9
14,3
15,
Thu ngân sách
Tỷ đồng
971,2
4574,5
5416,0
8368,8
8567,4
47,3
11,5
2,4
Chi ngân sách
Tỷ đồng
826,7
3534,5
4346,8
9008,7
10664,2
43,8
20,0
18,4
Diện tích gieo trồng
Nghìn ha
2617,6
3834,9
4048,9
4510,1
4633,4
10,0
2,7
2,7
Tổng mức bán lẻ
Tỷ đồng
10081,2
25154,0
29563,7
43806,2
47922,8
25,7
10,3
9,4
Xuất khẩu
Triệu USD
326,43
730,49
1084,44
1336,7
1468,95
22,3
5,4
9,9
Sản lượng lương thực
Tấn
8546,2
13985,7
14593,7
16986,7
16172,1
13,1
3,9
-4,8
(Nguồn: cục thống kê Cần Thơ: Số liệu kinh tê – xã hội 12 tỉnh vung ĐBSCL 1990-2001. Võ Hùng Dũng- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL- Tạp chí kinh tế số 6- 2003)
3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
a/ Trong nông nghiệp
-Nông lâm thuỷ sản là ngành chủ yếu của vùng , đóng góp trên 50% GDP. Trong thời gian qua nông lâm thuỷ sản phát triển không ngừng, ảnh hưởng tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng , đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông nghiệp .Khối lượng sản phẩm nông nghiệp , thuỷ sẳntng đã thúc đẩy sự gia tăng của các ngành khác như: công nghiệp chế biến, giao thông vận tải.
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của vùng , tốc độ tăng trưởng cao trong 10 năm qua (1993-2003). Giá trị sản xuất nông nghiệp toàn vùng đạt mức tăng16,4% trong 10 năm. Những năm 1991-1995 , đạt mức 33,3%. Những năm 1996-2000mức tăng còn 4,1%; năm 2001 mức tăng bị âm ( -1%).Điều đó cho thấy khả năng tăng trương nông nghiệp không còn cao như trước . Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu là hêt sức cần thiết.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có sự chuyển dịch bước đầu theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng cây trông vật nuôi gắn với chế bién nông lâm thuỷ sản .Trong cơ cấu ngành nông nghiệp , cây lương thực chiếm ưu thế tuyệt đối . Năm 2002 diên tích cây lương thực :3939,6 nghìn ha, sản lượng: 17576,5 nghìn tấn chiếm 46,2% diện tích và 48,3% sản lượng lương thực cả nước . Đây là v ùng có mức lương thực bình quân đấu người cao nhất cả nước . Năm 2002 đ ạt: 1051,6 kg / ng ( cả nước : 456,3 kg/ ng . Sông Hồng : 396,4kg/ ng .
- Cơ cấu mùa vụ cũng đã thay đổi . Trước kia chủ yếu là sản xuất một vụ .Hiện nay đông ruộng bước đầu được quy hoạch , cải tạo, thuỷ lợi hoá . Do đó có thể gieo cấy được hai vụ chính (đông xuân và hè thu) .Một số địa phương còn đưa lên 3 vụ . Trong cơ cấu mùa vụ diện tích lúa hè thu chiếm ưu thế . Sản lượng l úa lớn nhất ở tỉnh An Giang , Đông Tháp, Kiên Gíang.
- Ngoài cây lúa vùng cong trông thêm hoa màu, cây ăn quả . Cây ăn quả được trông theo 3 dạng : vườn t ạp, vườn hỗn hợp, và vườn chuyên . Hiện nay vườn chuyên và vườn hỗn hợp chiếm trên 50% .
- Ngành chăn nuôi có nhiều điều kiện để phát triển , đặc biệt là gia súc, gia cầm và thuỷ sản . ĐBSCL có truyền thống nuôi vịt . Vịt cho trứng , thịt, lông để xuất khẩu.
Nhận xét: Như vậy trong những năm đổi mới với tác đông tích cực của nghị quyết đại hội VI của Đảng ( 1986) , nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988 ), nghị quyết TW 5 khoá VII và các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước , vựa lúa hàng hoá đông bằng sông Cửu Long đã giả quyết tốt vấn đề lương thực của địa phương , đảm bảo an ninh lương thực , đông thơpì còn góp phần quan trong gia tăng sản lượng lúa hàng hoá xuất khẩu . Đ ó là nguyên nhân chủ yếu đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực , thực phẩm triền miên trở thành một nước sản xuất lương thực phát triển nhanh , ổn định .
- Thuỷ hải sản
+ Đồng bằng sông Cứu Long có 763 km bờ biển với vùng thềm lục địa rộng lớn chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước. Tiềm năng hải sản cho phép khai thác hàng năm khoảng 600-630 nghìn tấn. Ở đấy có 25 cửa luồng , lạch thuận tiện cho tàu thuyền đánh cá; có gần 300.000ha có khả năng nuối trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ và 1500km sông ngòi, kênh rạch có thể nuôi trông thuỷ sản nước ngọt.
+ Từ năm 1991 đến nay, nghề cá của v ùng phát triển mạnh cả về sản lượng (giá trị sản lượng chiếm 42-45% của cả nước), về giá trị kim nghạch xuất khẩu (37-42% xuất khẩu của cả nước), lẫn về cơ sở vật chất, kỹ thuật .
+Sản lượng đánh bắt thuỷ sản năm 1997: 800.000tấn (49% sản lượng cả nước ). Năm 2002, đạt 1,3 triệu tấn chiếm 50% sản lượng cả nước .
+ Do nhu cầu trong nước và qu ốc t ế , tôm là loại hàng hoá rất được ưu chuộng. Tôm được nuôi ở các vuông ven biển . Dưới rừng đước tôm cho năng suất cao. Tuy nhiên lại nhiều khu rừng đước , rừng tràm bị chặt phá trên một diện tích rộng lớn để phát triển nuôi tôm mà không theo quy luật sinh thái cơ bản . Do đó hậu quả đối với môi trương là rất nghiêm trọng .
- Lâm nghiệp
Có nhiều cố gắng khôi phục lại rừng Tràm trên các vùng đất phèn mặn , duy trì và mở rộng diện tích rừng ngập mặn ven biển . Tuy nhiên do nạn cháy rừng nên diện tích rừng mấy năm gần đây bị giảm sút nhiều . (Năm 1997 là 38,7 nghìn ha . Năm là 21 nghìn ha)
Nhận xét : Những chuyển biến trong cơ cấu ngành nông nghiệp với chiều hướng tích cực góp phần tạo chuyển biến trong các ngành khác của vùng . Từ đó tạo ra bộ mặt mới cho đồng bằng sông Cửu Long . Những chuyển biến trên cho phép ĐBSCL vẫn giữ được vị trí trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta .
Hơn 25 năm qua , dưới tác động của những chính sách nông nghiệp , nông thôn của Đảng và Nhà nước ta , đồng bằng sông Cửu Long đã có những bước phát triển vượt bậc . Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn một cách mạnh mẽ.
a.1/ Chuyển biến trong cơ cấu đất đai và năng suất sản lượng lúa không ngừng gia tăng:
Sự thay đổi diện tích diễn ra chủ yếu từ sau 1990. Diện tích đất nông nghiệp tăng 6% (1982-1992); 1992-1996 :4,4 % , đất trồng lua tăng . Diện tích gieo trông cây lúa giữ ở mức 85% cơ cấu . Tuy nhiên năm 2000, 2001 diện tích trông lúa giảm .
Sự giảm sút diện tích trông lủa có liên quan đến việc điều chỉnh lại cơ cấu cây trông vùng. Việc giảm diện tích lủa liên quan đến giá cả thị trương thế giới và việc xuất khẩu gạo yếu kém trong mấy năm qua .Do đó khi giá lúa trên thị trương phục hồi thì diện tích lúa sẽ tăng trở lại vì xét về lâu dài cây lúa vẫn chiếm vị trí lớn trong nền kinh tế của vùng .
Bảng số liệu về tỷ lệ cơ cấu sử dụng đất theo vung kinh tế năm 2000. (%)
Tổng số
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Chuyên dùng
Đất ở
Cả nước
100%
28,4
35,2
4,7
1,3
Sông Hồng
100%
58,0
8,0
15,8
6,2
Đông Bắc
100%
13,7
40,9
3,21
0,9
Tây Bắc
100%
11,4
29,1
1,6
0,4
Bắc Trung Bộ
100%
14,1
43,1
4,5
1,0
Duyên Hải Trung Bộ
100%
16,5
35,3
6,4
1,0
Tây Nguyên
100%
22,6
54,9
2,5
0,6
Đông Nam Bộ
100%
49,2
29,5
6,7
1,7
Đồng Bằng Cửu Long
100%
74,8
8,5
5,6
2,5
( Nguồn : niên giám thống kê 2001, Nguyễn Đình Lê- biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam thế kỷ XX- Trang 342 )
Năng suất, sản lượng lúa không ngừng gia tăng. Biểu thị bằng bảng số liệu: Sản lượng lương thực ĐBSCL so sánh với đông bằng sông Hồng và cả nước:
Năm
Sản lượng lương thực cả nước (1000 tấn )
Sản lượng lương thực ĐBSCL(1000 tấn)
Sản lượng lương thực ĐB sông Hồng (1000 tấn )
Sản lượng lương thực ĐBSCL so với
Đồng bằng sông Hồng (lần )
Cả nước (%)
1995
1996
1997
1998
1999
27.963,7
26.397,7
27.523,9
29.145,5
31.393,8
12.831,7
13.818,8
13.850,0
15.318,6
16.280,8
4.623,1
4.811,8
5.076,6
5.364,9
5.692,9
2,78
2,87
2,73
2,85
2,86
51,39
52,35
50,31
52,55
51,85
nguồn:
a.2/ Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn ngày càng phát triển . Do được giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh nên các hộ đã mạnh dạn đầu tư , mua sắm thiết bị và các công cụ để sản xuất nông lâm thuỷ sản . Theo thông kê của Tổng cục thống kê năm 1999; số máy kéo của ĐBSCL chiếm 30,8% số lượng cả nước . Máy bơm, máy xay xát, máy tuốt lúa , sấy lúa …số lượng nhiều . Có thể nói máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất của ĐBSCL chiếm gần 45%so với tổng máy móc, thiết bị cả nước (cao hơn vùng khác như : Đông nam bộ , đông bằng sông Hồng ).
Do vậy mà nhiều khâu được cơ giới hoá . Đó là tiền đề hết sức quan trọng để ĐBSCL thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đậi hoá nông nghiệp, nông thôn, giải phóng một phần lao động nông nghiệp sang ngành khác , thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng hiện đại.
a.3/ Bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới , đời sống vật chất, tinh thần của nông hộ không ngừng được nâng cao .
+ 95,5% xã có điện ( gần bằng Đông nam bộ , cao hơn nhiều Duyên hải miền trung , Tây nguyên )
+ Giao thông nông thôn có bước phát triển . Mạng lưới trường học, trạm xá, nhà trẻ, chợ…ở nông thôn được mở rộng .
+ Số hộ đói giảm:( 15,2%-1992, còn 11,8% -1999)
a.4/Cơ cấu kinh tế nông nghiệp , nônh thôn ngày càng chuyển dịch theo hướng tích cực :
Số hộ nông thôn ngày càng giảm đi . Bên cạnh việc trồng lúa , các nông hộ còn phát triển hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, nuối trồng thuỷ sản …Các mô hình kinh tế tổng hợp VAC( vườn-ao- chuồng ), VACB ( vườn - ao- chuồng – bioga) , VACR ( vườn - ao- chuồng- rừng ) được ứng dụng rộng rãi .
a.5/ Hình thành ngày càng rõ nét một số trung tâm chế biến nông-lâm - thuỷ sản với quy mô vừa và nhỏ .
Nhận xét: Tuy nhiên , nhìn về cơ bản, cơ cấu nông nghiệp , nông thôn ĐBSCL vẫn thuần nông và manh mún . Kinh tế nông thôn còn nặng về nông nghiệp ( 70%), trồng trọt vẫn là chủ yếu (80% tổng giá trị toàn ngành ) .Tốc độ chuyển dịch lao động từ lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp còn chậm . Cơ cấu sản xuất ĐBSCL còn mất cân đối , hạn chế phân công lao động .
Mặc dù là nơi xuất khẩu gạo , hàng hoá nông, thuỷ sản, …dẫn đầu cả nước nhưng mức đọ tích luỹ của người dân chưa đáng kể .
b/ Trong Công Nghiệp.
Trong ngành công nghiệp , hơn 60% giá trị gia tăng hằng năm được tạo ra từ hai ngành chế biến lương thực và thực phẩm. Các ngành khác như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, dệt, may mặc, hoá chất có sự tăng trưởng nhanh. Một số ngành truyền thống như chế biến gỗ , cơ khí tăng trưởng chậm hơn hoặc giảm sút.
Là vùng có nền nông nghiệp phát triển nên cong nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm khá phát đạt. Tuy nhiên công nghiệp thực phẩm mới đưa vào chế biến 14-15% sản lượng nông , thuỷ sản . Đại bộ phận là sản phẩm sơ chế , chất lượng và hiệu quả còn hạn chế .
Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng chiếm 12% giá trị gia tăng của công nghiệp. Ngành phát triển trên nguồn nguyên liệu đá vôi , đất sét, cát phong phú của vùng .
Các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập chiếm gần 17% GDP công nghiệp . Công nghiệp hoá chất cơ bản phát triển khá . Các ngành sản xuất khác có chiều hướng giảm, hoặc không ổn định. Sản phẩm công nghiệp trong v ùng Công nghiệp cảu vùng chủ yếu phân bố ở các đô thị lớn như: Cần Thơ.
Dưới đây là bảng tăng trưởng và cơ cấu của các vùng trong công nghiệp (%)
Tăng trưởng của công nghiệp của các vùng (GTSXCN theo giá cố định năm 1994)
Cơ cấu của các vùng trong GTSXCN
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đông băng sông Cửu Long
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1995
1998
2001
14,2
8,9
26,2
13,7
7,6
12,3
10,6
17,8
7,5
13,8
24,0
0,4
9,3
10,4
16,1
7,9
12,3
8,7
12,5
16,7
7,5
24,0
10,2
11,0
4,7
13,0
5,3
11,6
14,8
8,1
1,0
8,7
12,5
9,6
12,5
9,3
17,5
22,0
17,2
8,5
35,7
20,7
14,3
15,9
12,4
14,2
13,2
15,0
6,3
19,2
15,6
3,6
13,8
16,6
100,0
17,7
6,0
0,3
3,6
4,8
1,2
49,4
11,8
100,0
19,1
5,6
0,3
3,2
4,8
1,0
50,5
10,0
100,0
20,2
5,4
0,3
3,8
5,0
0,9
50,0
9,5
Nhận xét : Mặc dù công nghiệp ở mức độ tăng trưởng rất nhanh trong những năm qua ( giá trị sản xuất công nghiệp đạt: 51% /1991-1995 ; 14,3% /1996-2000) nhưng do xuất phát điểm thấp nên cơ cấu của nó trong GDP vẫn còn thấp : Trong vùng chủ yếu là gia cong , lắp ráp hoặc hoàn chỉnh ở công đoạn cuối ,nên phần giá trị tăng thêm chỉ chiếm chừng 25-35% trong tổng giá trị sản xuất .
Xét về cơ cấu tổng giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh do địa phương quản lý , đông bằng sông Cửu Long đứng thứ hai về tỷ trong ( sau Đông Nam Bộ). Công nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu tập trung ở thành phần tư nhân - hỗn hợp và tiêu thủ công nghiệp , thủ công nghiệp cá thể … đến năm 1995 còn lại không đáng kể .
Đồng bằng sông Cửu Long không nằm trong 3 vùng kinh tế trọng điểm , nhưng trong nội bộ vùng , xuất hiện các trung tâm công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản như : Phụng Hiệp, Trà Nóc (Cần Thơ), Chợ Mới , Châu Thành (An Giang)
Hiện nay đông bằng sông Cửu Long cần phát triển công nghiệp hơn nữa để tương xứng với tiềm năng của vùng .
c/ Trong Thương Mại và Dịch Vụ.
- Du Lịch : Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch.
+ Điểm du lịch Cần Thơ mang sắc thái riêng của một Tây Đô, nổi tiếng với biển Ninh Kiều .
+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn Cà Mau, nổi tiếng với rừng đước, rừng tràm, sân chim (Vĩnh Thành, Tân Khánh)
+ Đảo Phú Quốc (Kiên Giang)- hòn đảo lớn nhất nước ta (Diện tích: 557km2 )
Hiện nay đồng bằng sông Cửu Long tạo thành cum du lịchcó giá trị thu hút nhiều du khách.
- Xuất Nhập Khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu đạt tỷ lệ tăng cao trong các năm 1991-1995 (22,3%) nhờ xuất các mặt hàng lương thực . Năm 1996 tỷ lề tăng xuất khẩu đạt 48,5% . Giảm xuống 19,1% năm 1997 ; 9% vào năm 2000. Có sự chuyển biến này là do cơ cấu hàng hoá xuất trong vùng . Nếu so sánh với các vùng khác thì kim ngạch xuất khẩu nói trên không thấp nhưng so với tiềm năng của vung thì chưa tương xứng .
Do tập trung vào hai mặt chính là lương thực và thuỷ sản , nên khi thị trường xuất khẩu hai mặt hàng này gặp khó khăn thì tình hình kinh tế chung của vùng cũng bị ảnh hưởnh . Đó là mặt hạn chế cần khắc phục .
- Tổng Mức Bán Lẻ Hàng Hoá .
Cơ cấu trong tổng mức bán lẻ hàng hoá phản ánh “ thị phần “ của mỗi vùng trên thị trường quốc gia , là biểu hiện sức mạnh kinh tế cảu vùng , là nhân tố kích thích tăng trưởng . Đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 19% tổng mức bán lẻ hàng hoá , dịch vụ. Tỷ lệ này tương ứng với tỷ trọng của vùng trong GDPcả nước .
Sức mua của vùng tương đối ổn định , gia tăng đều đặn ( 12,1%-1996) chứng tỏ tình hình kinh tế chung của vùng được cải thiện , cơ cấu trong vùng chuyển đổi khá kịp thời . Điều này tác động đến phát triển công nghiệp, dịch vuj trong vùng và những vung khác trong cả nước .
- Ở đông bằng sông Cửu Long có một điều đáng nói là việc vận chuyển hàng hoá chủ yếu bằng đường thuỷ ( 75% ) ngược lại với cả nước . Năm 1996 vận chuyển đường bộ chiếm 35,9% sau đó tăng lên 37,7% (2000). Vẫn biết đường thuỷ là ưu thế , giao thông đường thuỷ là phương tiện chủ yếu của bao đời nay . Nhưng sự chậm chạp trong việc mở thêm các tuyến giao thông đường bộ sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại, dịch vụ, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng .
Nhận xét : Hiệ nay công nghiệp và dịch vụ đồng bằng sông Cửu Long có hạn chế là tính tự phát , manh mún và không đồng bộ nên không ổn định cả quy mô và tốc độ.
4. Biến đổi cơ cấu xã hôi ở đồng bằng sông Cửu Long
4.1. Dân số
Năm 1979 là: 10,69 triệu người.Năm 1989 : 14,4 triệu người.Năm 1999: 16,13 triêu người.
Năm 2000: có 16,4 triệu người.
Năm 2002: có 16,7 triệu người.
Mật độ : 421người / 1km2 ( so với cả nước là : 242người /1km2).
Tỷ lệ tăng dân số những năm 1979 – 1989: 3,02%. 1989 -1999: 2,01%.
- Cơ cấu dân số trẻ, thuận lợi cho phát triển kinh tế.
- Tỷ lệ nam - nữ ( năm 2000) : 47,4% - 52,6% . So với cả nước : 49,08%- 50,92%.
- Hệ thống đô thị của vùng gồm 4 thành phố , 13 thị xã , 109 thị trấn . Hệ thống đô thị phân bố tương đối đều trên khắp địa bàn . Trung bình cứ 414km2có một điểm đô thị . Những nơi có mật độ đô thị cao : vùng ven sông Tiền, sông Hậu . Dó đó tập trung khá đông dân cư .
VD: Cần Thơ (340nghìn dân)
Long Xuyên (262 nghìn dân)
Rạch Giá, Cà Mau, Mỹ Tho (170-180 nghìn dân).
Vùng sâu , vùng xa như Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên có mật độ đô thị thấp (thấp hơn 1,5 lần so với đông bằng sông Hồng / trên 1000km2 có một đô thị) . Quy mô dân số thành phố so với các vùng đô thị khác là thấp .
- Tỷ lệ dân thành thị năm 2000: 17,07% , ít hơn toàn quốc (23,48%) . (Cao hơn vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ ) . Tuy nhiên mức độ đô thị hoá ngày càng tăng .
4.2. Cơ cấu lao động , xã hội
* Lực lượng lao động : Năm 2000, cả nước có 36,7 triệu lao động . ĐBSCL chiếm khoảng 20% nguồn lao động cả nước , phân bố trong các khu I, II, III : 65,6%; 10,1%; 24,2% (1996) . 61,5%; 11,2% ; 27,3 % (2000) .Sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động của khu vực I chậm hơn trong cơ cấu GDP .
- ĐBSCL: 1996-2000, tỷ lệ tăng lao động là 1,7%
Tăng GDP là 5,6% , cao hơn mức trung bình tăng GDP của cả nước . Trong đó khu vực I tăng : 0,1%
II tăng : 4,3%
III tăng : 4,7%
Nhận xét: Mức trung bình GDP tăng 3,3% thì tăng thêm 1% lao động căn cứ vào chỉ tiêu này thì ĐBSCL đã giải quyết công ăn , việc làm đang năm trong khu vực II, III .
* Học vấn và trình độ chuyên môn : dần được nâng cao
- Cơ câu lao động theo khu vực kinh tế :
Năm 2000: Tổng 7.650.333 người , trong đó : Nhà nước :465.390 người
Ngoài quốc doanh : 7.083.217 người
Nước ngoài : 14.889 người
Hỗn hợp : 86.837 người
Khu vực này có lực lượng lao động ngoài quóc doanh lớn nhất (22% cả nước).
* Biến đổi cơ cấu giai cấp – xã hội
- Đồng bằng sông Cửu Long có số hộ thuỷ sản cao nhất (7,9%) , duyên hải miền trung ( 7,8% ) . Tổng số hộ ở địa phương này cao hơn tỷ lệ trung bình là 2 lần
- Số hộ thương nghiệp cao nhì ( sau Đông Nam Bộ ) : 260.529 hộ , chiếm 8,6% tổng số hộ trong vùng . (Năm 1990, chiếm 22,84% tổng số hộ nông dân cả nước
Đông bằng Bắc Bộ : 26,57% )
* Thu nhập và mức sống .
- Thu nhập : đạt 342.100đ / người ( tăng 2,2% / năm ) thấp hơn Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ( 527.800đ và 344.700 )
nguồn thu nhập chủ yếu từ sản phẩm nông nghiệp , tuy kim ngạch xuất khẩu nhiều nhưng giá trị không cao bằng sản phẩm công nghiệp vì vậy chi dùng cho đời sống đạt 245.800đ ( Sau Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ) . Nhưng nhìn đại thể mức thu, chi của dân thấp
- Mức sống : Việt Nam là một trong 10 nước nghèo nhất thế giới với mức thu nhập là : 400USD . Theo chuẩn mực Việt Nam về mức nghèo ( nông thôn, đồng bằng : <100.000đ/ 1ng/ 1tháng ; thành thị : < 150.000đ/1ng /1tháng ). Như vậy đồng bằng sông Cửu Long không ở vùng tỷ lệ đói nghèo .
Tỷ lệ hộ đói nghèo : Năm 1993:47,1%. Năm 1998: 36,95. Năm2002: 23,4%.( Nguồn: Báo cáo tiến bộ thực hiện các MDG 2003, Nguyễn Quang Thái).
Khoảng cách giàu nghèo là 10,9 lần so với cả nước là 12,5 lần.
Đây là vùng có tỷ lệ hộ đói nghèo gia tăng đáng kể ( cùng với đồng bằng sonng Hồng và Đông Nam Bộ ) .Các tỉnh: Cần Thơ, Đông Tháp là những trường hợp mà phát triển con người thấp có thể làm cho bất bình đẳng gia tăng.
Hiện nay, nhiêm vụ của công cuộc đổi mới là không để cho bất bình đẳng trong thu nhập dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội . Đó là nhu cầu tất yếu và cũng là bản chất của của chế độ XHCN.
5. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế- xã hội của đồng bằng sông Cửu Long trong tương quan với các vùng khác
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội của đồng bằng sông Cửu Long nằm trong cơ cấu biến đổi chung của cả nước trong bối cảnh nước ta bước vào thời kỳ đổi mới .Vì thế sự phát triển của mỗi vùng nói riêng sẽ tác động chung lên sự phát triển của cả đất nước. Ngược lại , sự phát triển của đất nước sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tê- xã hội của vùng . Đó là mối quan hệ tương quan hai chiều .
Trong sự chuyển biến chung của đất nước , cơ cấu kinh tê của các địa phương , các vùng lãnh thổ đã có sự chuyển dịch đáng kể. Đặc biệt các điều kiện về cơ sở , hạ tầng đã được cải thiện rất nhiều. Cả nước hiện có trên 200 nghìn km đương bộ , trên 3000 km đường sắt , gần 100 cảng biển , hơn 10 nghìn km đường sông đã được khai thác, 17 cảng hàng không …Riêng đông bằng sông Cửu Long, hệ thống giao thông đường thuỷ dày đặc, tạo thành một mạng lưới liên kết các tỉnh với nhau . Điển hình là hai tuyến quan trọng nối với vùng Đông Nam Bộ : Thành phố Hồ Chí Minh - Kiêu Lương và Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau. Đường bộ có tổng chiều dài 5200 km , đây vẫn là khâu yếu kém nhất , đang cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng . Việc hoàn thiện, xây dựng đường bộ (đặc biệt là đường ô tô đến các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá ) là rất cần thiết .
Cơ cấu kinh tế ngành của các vùng đã có sự thay đổi mạnh , ngay trong điều kiện cả nước chị tác động mạnh của khủng hoảng kinh tê ( năm 1997 ) . Trên thực tế chỉ có vùng Đông Nam Bộ về hình thức của cơ cấu ngành đã tương ứng với nền kinh tế của nước công nghiệp , tuy chất lượng chuyển dịch cơ cấu chưa cao.
- Năm 2000: + Nông nghiệp chiếm : 6,6% GDP
+ Công nghiệp chiếm : 56,7% GDP
+ Dịch vụ chiếm : 36,7 % GDP
Trong nước đã hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở Bắc, Trung, Nam trong đó :
+ Trọng điểm ở Bắc Bộ : Hà Nội - Hải Phòng - Hưng Yên - Hải Dương - Quảng Ninh - Hà Tây - Vĩnh Phúc - Bắc Ninh.
+ Trọng điểm ở miền Trung : Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi
+ Trọng điểm ở miền Nam : Thành phố Hồ Chí Minh - Đông Nai , Bà Rịa - Vũng Tàu - Bình Dương .
Đây là những vùng có điều kiện tự nhiên , cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao , mức độ tập trung nhu cầu phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trường. Nhờ đó tạo sức lan toả ra các vùng khác trong cả nước . Tuy đồng bằng sông Cửu Long không nằm 1 trong 3 vùng kinh tế trọng điểm, nhưng với vị trí giáp vùng kinh tê trọng điểm phía Nam , đồng bằng sông Cửu Long có thể khai thác lợi thế về vị trí địa lý để phát triển nhanh các loại hình như : du lịch sônh nước, miệt vườn, sinh thái , gắn với thành phố Hồ Chí Mĩnh.
Ngoài ra, trên cả nước còn hình thành các khi công nghiệp , khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Tuy nhiên thực trạng về kinh tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn còn nghèo , tăng trưởng kinh tế chậm so với các vùng khác trong cả nước . Bình quân năm ( 1991-1997) , tốc độ tăng GDP của vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 8,2 % so với 11% của vùng Đông Nam Bộ , 9% của vùng đồng bằng sông Hồng. Tốc độ kim ngạch xuất khẩu trực tiếp là 28,6% so với 45,5% của vùng Đông Nam Bộ , 29% của vùng đồng bằng sông Hồng , 4% của Duyên hải miền Trung . Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất ra 50% sản lượng lúa , nhưng tye trong GDP của vùng so với cả nước đến năm 1995 chỉ có 22,5 % ; trong khi vùng Đông Nam Bộ chỉ sản xuất ra 3,7% sản lượng lúa nhưng tạo đến 30,6% giá trị GDP . Thu nhập và đời sống cư dân đông bằng sông Cửu Long cho đến nay vẫn còn thấp :342.000đ/ 1người/ 1tháng , bằng 69,8 5 của vung Đông Nam Bộ . Riêng nông thôn là 178.000đ so với 243.000đ của nông thôn vùng Đông Nam Bộ . GDP bình quân đầu người của vùng so với cả nước chỉ bằng 92,8% , trong khi vùng Đông Nam Bộ là 244,8 % . Nguyên nhân của thực trạng đó là do cơ cấu kinh tế trong vùng chuyển dịch rất chậm . Cơ cấu kinh tế theo GDP phổ biến là : nông – lâm nghiệp và thuỷ sản (70%- 80% ) . Ở các tỉnh sản xuất lúa hàng hoá lớn như An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang vẫn còn nặng về thuần nông.
So sánh với đồng bằng sông Hồng về ngành nông nghiệp : Cùng vớỉ đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng là một trong hai vựa lúa của Việt Nam. Vì vậy, nó có nhiệm vụ hỗ trợ lương thực cho các tỉnh phía Bắc và góp phần phục vụ xuất khẩu. Đồng bằng sông Hồng còn cung cấp các tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn kĩ thuật cho các tỉnh. Trong thời kỳ 1993 – 2002, 85% sản phẩm nônhg nghiệp của đồng bằng sông Hồng được sử dụng trong vùng ; 5% đưa ra các vùng khác trong nước và 10% dành cho xuât khẩu. Tỷ lệ này là thấp so với đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng ở đồng bằng sông Hồng lại có những vùng thâm canh, chuyên canh rau quả làm thực phẩm xuất khẩu, nhiều nhất là vụ đông xuân, phân bố chủ yếu ở Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam. Đây là điểm khác biệt mà đồng bằng sông Cửu Long không có được.
Đồng bằng sông Hồng chủ yếu là trồng lúa nước. Cơ cấu ngành nông nghiệp còn tình trạng mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, cũng như giữa trồng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Về hiện trạng sử dụng đất, đất nông nghiệp chiếm 57,65 % tổng diện tích tự nhiên của vùng.Khả năng mở rộng diện tích bằng khai hoang hạn chế.Còn đối với đồng bằng sông Cửu Long , khả năng khai thác vùng Đồng Tháp Mười, Tây sông Hậu và bán đảo Cà Mau là rất lớn. Đây là quỹ đất rất phong phú.
Về chăn nuôi, cả hai vùng đều có xu hướng giảm đàn trâu. Đồng bằng sông Hồng năm 1985có 330 nghìn con trâu, giảm xuống còn 171,8 nghìn con năm 2002. Đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 329 nghìn con (năm 1985) xuống còn 147 nghìn con năm 1994 và 36,6 nghìn con năm 2002.Nguyên nhân của sự giảm sút số lượng đàn trâu một phần là do một số khâu của sản xuất nông nghiệp được cơ giới hoá. Tuy nhiên mức độ sử dụng máy móc ở đồng băng sông Cửu Long cao hơn nhiều so với đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, ở đồng bằng sông Hồng đang chú ý phát triển bò sữa ở ngoại thành thành phố Hà Nội với quy mô nhỏ, hộ gia đình.
Ngành công nghiệp của hai vùng rất khác nhau.Công nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là chế biến lương thực và thực phẩm.Còn đồng bằng sông Hồng là vùng có công nghiệp phát triển. Ở đây tập trung nhiều xí nghiệp hàng đầu của cả nước, nhất là cơ khí chế tạo, sản xuất hàng tiêu dùng.
Ngành dịch vụ, đồng bằng sông Hồng là một trung tâm dịch vụ lớn của cả nước. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của vùng năm 2002 đạt 47,8 %.
Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long cần phải phát triển hơn ngành công nghiệo và dịch vụ. Bởi chúng tạo ra giá trị kinh tế cao. Đó là đìều mà đồng bằng sông Hồng đã làm được.
Cơ cấu kinh tế cả nước nói chung đã chuyển biến để phù hợp hơn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ( tuy mức độ chuyển dịch có chậm ).Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế tác động trực tiếp đến biến đổi xã hội. Hiện nay, đồng bằng sông Hồng có ưu thế hơn cả về trình độ của lực lượng lao động Đây là vùng có tỷ lệ cao nhất cả nước về lực lượng lao động kĩ thuật. Đó là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phảt triển của vùng. Tính chung mức thu nhập của người lao động vùng đồng bằng sông Hồng thấp hơn đồng bằng sông Cửu Long (342.00 đồng so với 280.300 đông, những năm 1996 – 2000) .Tỷ lệ hộ nghèo đói của đồng bằng sông Cửu Long lại cao hơn đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, đồng bằng sông Hồng có thành phố Hà Nội là một trong 5 tỉnh thành phố có GDP bình quân đầu người cao nhât cả nước ( các tỉnh khác là: Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dưong, Đà Nẵng ).
Dù có những khác biệt song hai vùng này có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để mỗi vùng đều phát huy được hết tiềm lực và thế mạnh của mình.Từ đó góp phần đưa đất nước cò những bước chuyển nhanh, mạnh về kinh tế, xã hội.
6. Định hướng phát triển
6.1. Đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước
- Đồng bằng sông Cửu Long nằm giữa một khu vực kinh tế năng động, giáp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là một trong những đồng bằng châu thổ phì nhiêu ở Đông Nam Á.
- Có bờ biển dài, thềm lục địa rộng, thuận lợi phát triển kinh tế biển.
- Điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi.
- Song còn những khó khăn, hạn chế:
+Kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông còn yếu kém.Cần vốn đầu tư.
+Vấn đề lũ lụt là hạn chế cần khắc phục. Một trong những giải pháp là “sống chung với lũ”.
+Trình độ dân trí còn thấp so với một số vùng khác.
+Công nghiệp chưa phát triển mạnh.
6.2/Định hướng phát triển:
Hiểu rõ đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước, Đảng và Nhà nước đã đưa ra phương hướng chung để chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho vùng. Nó được xác định là: Nông nghiệp - thuỷ sản – công nghiệp và dịch vụ.
+Về nông nghiệp: chuyển mạnh nền kinh tế thuần nông, độc canh cây lúa sang kinh tế đa ngành. Đưa tỷ trọng chăn nuôi từ 20 % lên 37 % vào năm 2010, giảm tỷ lệ trồng trọt từ 80% xuống 70%.
Tập trung khai thác Đồng Tháp Mười, tây sông Hậu, bán đảo Cà Mau.
+Về lâm nghịêp: Thực hiện công tác trồng cây, gây rừng. Bảo vệ rừng ngập mặn.
+Về thuỷ sản: Tăng cường phát huy thế mạnh nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản. Đầu tư trang thiết bị để đẩy mạnh đánh bắt xa bờ.
+Về công nghiệp: Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
Đầu tư phát triển các khu công nghiệp khi có điều kiện.
Tập trung các ngành công nghiệp có khả năng tận dụng lao động tại chỗ.
6.3. Các giải pháp
-Cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Cửu Long theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, xây dựng vùng này thành vùng trung tâm sản xuất nông nghiệp hàng hoá xuất khẩu số một của Việt Nam. Sớm hoàn thành việc quy hoạch tổng thể nông nghiệp, nông thôn.Quy hoạch mới phải đảm bảo cho vùng phát triển toàn diện và bền vững (Lúa gạo là lợi thế lâu dài ).
- Làm tốt công tác dự báo thị trường, nhất là thị trường đối với nông sản mà vùng có thế mạnh.
- Tập trung vốn đầu tư Trung ưong và địa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng. Trước hêt là xây dựng đường bộ và điện ( hai khâu yếu kém, cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tểtong vùng).
Cần xây dựng các khu chế xuất : Cần Thơ, Trà Nóc.
- Để kích thích môi trường đầu tư và phát triển trong vùng cần xây dựng kinh tế trọng điểm miền Tây, gắn với miền Đông Nam Bộ.Thiết lập tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kiuh tế và nông hộ, hình thành trục liên kết từ khâu sản xuất đến chế biến – tiêu thụ và xuất khẩu thao hợp đồng chặt chẽ.
- Xúc tiến công tác đào tạo, dạy nghề cho ngườ lao động.
PHẦN KẾT LUẬN
Chặng đường 15 năm đổi mới (1986 – 2000) đã đưa đất nước ta bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế và bước vào thời kỳ mới. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng ghi nhận.Trong đó, cơ cấu vùng có chuyển đổi đáng kể theo hướng hình thành một số vùng trọng điểm, vùng động lực và vùng chuyên canh sản xuất nông phẩm hàng hoá. Những vùng, tiểu vùng kinh tế xuất hiện và phát huy vai trò quan trọng trong công cuộc CNH,HĐH đất nước.Vùng đồng bằng sông Cửu Long với vai trò là vựa lúa của cả nước đã góp phần thực hiện thành công chương trình quốc gia về lương thực - thực phẩm, đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.Từ đó góp phần cho sự ổn định và phát triển của đất nước.
Đồng bằng sông Cửu Long đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế giữa ba bộ phận nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; nhưng tốc độ còn chậm. Đó là đặc điểm chung của cả đất nước. Nền kinh tế Việt Nam chưa thật sự thoát khỏi đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp.Vì vậy, trong chặng đường tiếp theo cần tiếp tục chuyển đổi tư duy và hành động theo những diễn biến của lý luận và thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn cuối cùng của chân lý, do đó đòi hỏi quá trình nghiên cứu lý luận phải gắn chặt với tổng kết thực tiễn.
Cơ cấu xã hộicũng có những chuyển biến song còn chậm ở đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, đặc biệt Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO, ngày 7/11), điều đó sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội cả nước nói chung và đồng bằng sông Cửư Long nói riêng. Đồng bằng sông Cửu Long càn tận dụng thời cơ này phát huy thế mạnh xuất khẩu lúa gạo.Từ đó tạo ra bước chuyển lớn về kinh tế, xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam thế kỉ XX.(PGS.TS Nguyễn Đình Lê chủ biên,ĐHQGHN ).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật,HN, 1991.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, HN,1996.
4.Tiến trình lịch sử Việt Nam, Pham Quang Ngọc chủ biên, NXB QGHN,2002.
5.Tạp chí nghiên cứu Kinh tế, số tháng 10/2001
6. Tạp chí nghiên cứư Kinh tế, số tháng 5 và 6/2003.
7. Địa lý kinh tế xã hội, Lê Thông chủ biên, NXB QGHN, 2000.
8. Kinh tế Việt Nam đổi mới, Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Nxb Thống kê, HN 2002.
9. Niên giám thống kê2001, “Số liệu thống kê nông, lâm, thuỷ sản Việt Nam 1975-2001”.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (88).doc