Từ đầu những năm 90, Thanh tra Ngân hàng đã ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát, thay thế việc giám sát thủ công như trước đây bằng việc giám sát bằng máy, từ đó đã làm cho công tác giám sát từ xa của Thanh tra Ngân hàng được nâng lên một bước cả về mặt chất lượng lẫn hiệu quả công việc. Hơn 10 năm áp dụng công nghệ tin học vào công tác giám sát, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi bước vào con đường hội nhập nền kinh tế thế giới, các tổ chức tín dụng nước ta đã ngày càng mở rộng quy mô phát triển cũng như nghiệp vụ của mình. Điều này đêm đến cơ hội phát triển cho các tổ chức tín dụng trong nước tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong công tác giám sát quản lí hoạt động các tổ chức tín dụng của nhà nước. Trong bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày về hoạt động của các tổ chức tín dụng, sự giám sát quản lí của nhà nước đối với các tổ chức tín dụng đó cũng như sự cần thiết của các quy định pháp luật trong công tác giám sát này. Từ đó nêu lên thực trạng hiện nay và một số biện pháp nhằm giải quyết các bất cập trong công tác quản lí và giám sát các tổ chức tín dụng của nhà nước.
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ chế giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng – sự cần thiết, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHNN thực hiện chủ yếu là thanh tra và kiểm tra tính tuân thủ của các NHTM đối với các quy định pháp lý về hoạt động ngân hàng thông qua các đoàn thanh tra trực tiếp đến ngân hàng. Tuy nhiên, phương pháp này hiện nay tỏ ra không còn hiệu quả đối với một hệ thống ngân hàng đã gia tăng cả về số lượng, quy mô và loại hình. Việc xác định một phương pháp giám sát phù hợp đang được đặt ra đối với NHNN và vẫn chưa có quyết định chính thức về phương pháp giám sát của NHNN trong thời gian tới sẽ là giám sát dựa trên rủi ro hay giám sát theo CAMELS. Điều này cũng gây ra hạn chế đối với việc xác định nội dung giám sát vì nội dung giám sát cần được xây dựng phù hợp với phương pháp giám sát của NHNN.
- Tổ chức giám sát chưa có sự phối hợp chặt chẽ:
NHNN đã tổ chức bộ phận thanh tra giám sát với hai chức năng chính là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện giám sát là theo hai cấp gồm: Thanh tra NHNN và Thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố. Tại Thanh tra NHNN, thành lập Phòng Giám sát phân tích chuyên thực hiện công tác giám sát từ xa. Tại NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, công tác giám sát từ xa chủ yếu là kiêm nhiệm. Tổ chức công tác giám sát theo hai cấp, thực hiện giám sát đối với cả các chi nhánh của TCTD là không phù hợp do các chi nhánh của tổ chức tínd dụng không phải là đơn vị hạch toán độc lập, các chỉ số tuân theo Luật ngân hàng không áp dụng đối với chi nhánh, kết quả hoạt động ở các chi nhánh chịu sự điều hành của ngân hàng mẹ.
- Quy trình giám sát chưa thống nhất:
Quy trình giám sát của NHNN chưa tạo được sự phối hợp giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, các bước trong quy trình vẫn chỉ chú trọng đến hoạt động thanh tra tại chỗ và cụ thể đối với các NHTM mà chưa xây dựng được các báo cáo tổng thể mang tính cảnh báo trong hoạt động của NHTM.
- Trình độ cán bộ giám sát chưa chuyên nghiệp:
Các cán bộ thanh tra, giám sát của NHNN chủ yếu được đào tạo các nghiệp vụ thanh tra tại chỗ, do giai đoạn trước yêu cầu của thanh tra là thanh tra tính tuân thủ của các NHTM. Do vậy, các kiến thức chuyên môn về hoạt động giám sát từ xa liên quan đến tổng hợp phân tích dữ liệu tổng thể, dự đoán và cảnh bảo tình hình chưa được phổ biến và đào tạo có tính chuyên nghiệp đối với các cán bộ thanh tra.
- Chế độ thông tin báo cáo còn thiếu và chưa đầy đủ:
Thông tin từ trước đến nay mà bộ phận giám sát từ xa sử dụng để cập nhật và phân tích được khai thác trên cơ sở nguồn thông tin của Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Thanh tra NHNN Trung ương chỉ nhận các báo cáo tài chính trực tiếp từ các Hội sở chính NHTM nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội và Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương. Còn lại, tất cả các NHTM cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các quỹ tín dụng nhân dân cở sở, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, chi nhánh các NHTM nhà nước đều thực hiện báo cáo thông qua NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố (theo Bảng 1). Từ đó, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố mới chuyển thông tin cho Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Điều này đã phần nào làm giảm tính kịp thời và tính chính xác của thông tin khi bộ phận giám sát từ xa của Vụ Thanh tra sử dụng và khai thác thông tin. Bên cạnh đó, các chi nhánh và các NHTM cổ phần cũng như nước ngoài, các chi nhánh NHTM nhà nước,… hoạt động trên các địa bàn vẫn luôn phải thực hiện báo cáo thông tin cho Hội sở chính ngân hàng của mình. Điều này có nghĩa là các ngân hàng này luôn phải duy trì hai luồng thông tin là báo cáo cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trên địa bàn và báo cáo cho Hội sở chính của hệ thống ngân hàng của mình. Việc phải duy trì hai hệ thống thông tin báo cáo như vậy có thể dẫn đến sự lãng phí và trùng lặp.
Nguyên nhân xuất phát từ NHTM
- Nhận thức của NHTM về hoạt động giám sát của NHNN chưa đúng đắn:
Do NHTM vẫn chịu ảnh hưởng tâm lý từ giai đoạn trước là chịu sự thanh tra của NHNN về sự tuân thủ các quy định luật pháp về hoạt động ngân hàng. Do vậy, các NHTM vẫn cho rằng hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN là một hoạt động mang tính kiểm tra và xử phạt đối với những ngân hàng không chấp hành các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, tâm lý của NHTM thường mang tính chất đối phó với các hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin của NHTM còn hạn chế:
Cũng xuất phát từ tâm lý và nhận thức nêu trên, mà thông thường các NHTM không tự giác đối với việc cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra của NHNN. Bên cạnh đó, các NHTM cũng chưa xây dựng được hệ thống quản lý thông tin và quản trị dữ liệu một cách hoàn thiện và hiệu quả trong nội bộ ngân hàng.
Các nguyên nhân khác
- Các quy định pháp lý chưa rõ ràng:
Trong Luật NHNN được Quốc hội thông qua, vị thế của Thanh tra Ngân hàng được xác định là tổ chức Thanh tra chuyên ngành về ngân hàng vừa làm chức năng Thanh tra Bộ (xét giải quyết khiếu nại, tố cáo), vừa làm chức năng thanh tra, giám sát hoạt động đối với các tổ chức tín dụng với mục đích là đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ chính sách tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên, luật pháp về ngân hàng chưa quy định và phân biệt rõ khái niệm về hoạt động giám sát và hoạt động thanh tra. Trên thực tế, hoạt động của bộ phận thanh tra giám sát của NHNN mới chỉ chú trọng đến các hoạt động thanh tra kiểm tra thực tế, mà chưa hiểu chính xác vai trò của NHNN là phải tiến hành giám sát các hoạt động của NHTM một cách thường xuyên liên tục. Điều này cũng một phần do quy định của pháp luật chỉ quy định về hoạt động thanh tra của NHNN, mà chưa đưa ra khái niệm chuẩn xác về hoạt động giám sát mà NHNN cần thực hiện. Khái niệm “giám sát” là một khái niệm rộng hơn, bao trùm hoạt động thanh tra có tính chất hỗ trợ cho hoạt động giám sát của NHNN.
- Chưa có sự phối hợp của các tổ chức thanh tra, giám sát, kiểm toán khác:
Công tác giám sát tổng thể nói chung vẫn chưa xây dựng được một hệ thống hợp tác giữa Ngân hàng Trung ương và các cơ quan giám sát có liên quan, chia sẻ các thông tin phù hợp giữa các cơ quan chính thức, cả trong nước và nước ngoài chịu trách nhiệm về sự an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính; sự hợp tác này cần được hỗ trợ bởi những cơ chế bảo vệ tính bảo mật của những thông tin giám sát và đảm bảo là các thông tin này chỉ được sử dụng cho các mục đích có liên quan tới việc giám sát hiệu quả các tổ chức có liên quan.
Tóm lại, hoạt động giám sát của NHNN đối với NHTM có thể thấy là chưa có tác dụng định hướng cho các NHTM trong việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro trong ngân hàng. Hiện nay, hệ thống báo cáo giám sát của NHNN vẫn chưa có báo cáo giám sát vĩ mô và báo cáo cảnh bảo sớm. Thêm vào đó, báo cáo đánh giá xếp hạng của NHNN vẫn chỉ đơn thuần dựa trên kết quả thanh tra tại chỗ mà chưa có sự theo dõi liên tục. Kết quả xếp hạng từng cấu phần cũng như xếp hạng tổng thể vẫn chưa được thể hiện rõ ràng trong báo cáo thanh tra. Điều này cho thấy, hệ thống báo cáo giám sát của NHNN chưa đầy đủ và chưa có tính thuyết phục nên các NHTM vẫn chỉ coi hoạt động giám sát của NHNN với tính chất là các hoạt động thanh tra, kiểm tra. Do vậy, NHTM thường có tâm lý đối phó với các yêu cầu của bộ phận thanh tra của NHNN, thiếu sự hợp tác trong quá trình giám sát, thanh tra và chấp hành sau thanh tra. Các NHTM chưa tin tưởng vào chất lượng và độ chính xác của hoạt động giám sát của NHNN, do đó, NHTM chưa coi trọng các kết quả giám sát và kết luận thanh tra do NHNN đưa ra. Chính vì vậy, các kết quả của hoạt động giám sát của NHNN chưa được các NHTM coi là căn cứ để họ tự đánh giá lại hoạt động của ngân hàng và điều chỉnh các hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng.
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, những thay đổi từ pháp lệnh đến luật Ngân hàng: Nguyễn Công Dương: “Một số điểm mới của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 về thanh tra, giám sát ngân hàng” (Số16/2010)
Những thay đổi cơ bản.
Có thể nói hai năm 2009, 2010 là những năm có những điểm mốc pháp lý quan trọng đối với hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Tiếp theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngày 16/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Luật số 46/2010/QH12; dưới đây viết tắt là Luật NHNN 2010), thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 (Luật Ngân hàng Nhà nước 1997) và Luật sửa đổi, bổ sung số 10/2003/QH11; trong đó, đã dành trọn Chương V, với 13 Điều quy định về Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Đây là sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn để hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phát huy năng lực, hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và hội nhập ngân hàng trong thời gian tới.
So với các quy định về Thanh tra ngân hàng trong Luật Ngân hàng Nhà nước 1997, Luật NHNN 2010 có nhiều điểm mới quan trọng có tính chất đổi mới cơ bản về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Dưới đây xin đề cập những điểm mới này trong Luật NHNN 2010 và những vấn đề pháp lý đặt ra cần quan tâm giải quyết để thực hiện khi Luật có hiệu lực từ 01/01/2011.
Về tổ chức Thanh tra, giám sát ngân hàng
Luật NHNN 2010 tiếp tục khẳng định sự hiện diện của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước như đã quy định tại Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thay cho quy định về Thanh tra Ngân hàng trong Luật Ngân hàng Nhà nước 1997. Cụ thể:
“Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền” (Khoản 1, Điều 49).
Quy định bổ sung về hoạt động giám sát ngân hàng
Quy định cụ thể và hình thành đồng bộ hai hoạt động “thanh tra ngân hàng” và “giám sát ngân hàng” trong hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Khoản 11, 12 – Điều 6 và từ Điều 52 đến Điều 58).
Về mục đích hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 50)
Luật NHNN 2010 đã quy định bổ sung Thanh tra, giám sát ngân hàng phải đảm bảo các mục đích sau:
- Bảo đảm sự phát triển lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính (bên cạnh mục đích bảo đảm “an toàn” hệ thống tổ chức tín dụng như quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước 1997).
- Duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống tổ chức tín dụng.
- Bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
- Góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Qua đây cũng cho thấy, theo Luật NHNN 2010, vai trò, trách nhiệm của Thanh tra, giám sát ngân hàng lớn hơn so với quy định đối với Thanh tra Ngân hàng tại Luật Ngân hàng Nhà nước 1997.
Về nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 51)
Đây là quy định mới so với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 (Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 không quy định về nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng). Trong đó, có những điểm mới cụ thể như sau:
- Quy định nguyên tắc: “Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng”.
Đây là nguyên tắc chi phối cả nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Khác với quy định trước đây chủ yếu tập trung vào thanh tra chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
- Khẳng định rõ: “Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng”.
- Trao quyền cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước “quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng” (trước đây chủ yếu quy định tại Luật Thanh tra hoặc các văn bản của Thanh tra Chính phủ).
- Quy định rõ việc áp dụng pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng. Cụ thể:
“Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật này với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật này”.
Về Thanh tra ngân hàng
Luật NHNN 2010 đã quy định bổ sung đối tượng thanh tra cũng như các căn cứ ra quyết định và nội dung thanh tra (tham khảo)
Về giám sát ngân hàng
Luật NHNN 2010 đã quy định bổ sung các đối tượng giám sát đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của đối tượng giám sát cũng như nội dung giám sát ngân hàng. (tham khảo)
Về xử lý đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 59)
Ngoài các biện pháp xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại, Luật NHNN 2010 đã bổ sung thêm nhiều biện pháp xử khác. (tham khảo)
Về phối hợp trong việc thanh tra, giám sát tổ chức tín dụng (Điều 60)
Quy định bổ sung vấn đề: Ngân hàng Nhà nước “phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”.
Về phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài (Điều 61)
Bổ sung quy định như sau:
“1. Ngân hàng Nhà nước trao đổi thông tin và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài trong việc thanh tra, giám sát đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài.
2. Ngân hàng Nhà nước thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài về hình thức, nội dung, cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp thanh tra, giám sát phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam”.
Tóm lại:
Qua các vấn đề nêu trên, có thể nói Luật NHNN 2010 đã đặt nền móng pháp lý có hiệu lực cao và căn bản về tổ chức, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, với nhiều quy định mới như vậy sẽ đặt ra những thách thức, khó khăn không nhỏ cho Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật để triển khai thực hiện các quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng khi Luật NHNN 2010 có hiệu lực. Cùng với đó là sự đòi hỏi phải thay đổi cải tiến trong cônh tác thanh tra nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát các tổ chức tín dụng.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát của thanh tra Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng:
Để triển khai thực hiện nhiệm vụ quan trọng nêu trên, Ngân hàng Nhà nước cần tập trung nghiên cứu đổi mới các vấn đề sau đây:
Hoàn thiên hệ thống các văn bản pháp luật dưới Luật. Cụ thể:
1- Nghị định của Chính phủ thay thế Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 4/9/1999 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng (theo Khoản 2, Điều 49, Luật NHNN 2010).
Trong đó, cần xem xét thêm một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu tổ chức mô hình Thanh tra, giám sát ngân hàng ở cả Trung ương và địa phương phù hợp với nguyên tắc, đối tượng, nội dung thanh tra, giám sát ngân hàng và các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng quy định tại Luật NHNN 2010; đặc biệt là các quy định tại Khoản 2, 3 (Điều 51); Khoản 2 (Điều 55); Khoản 2, 3, 4 (Điều 58); Khoản 2 (Điều 59).
- Quy định xử lý mối quan hệ giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố về phân cấp trách nhiệm thanh tra, giám sát và quan hệ chỉ đạo, điều hành.
- Xử lý vấn đề thực hiện chức năng thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng theo quy định của Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật về phòng, chống tham nhũng.
2- Rà soát lại các quy định tại Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ và các Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và các đơn vị thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng để xử lý phù hợp; bảo đảm về tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và các đơn vị trực thuộc được thiết kế phù hợp với quy định của Luật NHNN 2010 về Thanh tra, giám sát ngân hàng.
3- Kịp thời nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về trình tự, thủ tục thanh tra ngân hàng (theo Khoản 5, Điều 51, Luật NHNN 2010).
4- Nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng theo Khoản 5, Điều 51, Luật NHNN 2010 (thay thế Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999).
5- Nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng, tùy theo tính chất, mức độ rủi ro (theo Khoản 2, Điều 59, Luật NHNN 2010)
Hoàn thiện khuôn khổ thể chế và hạ tầng cơ sở công nghệ:
Khuôn khổ về pháp luật thanh tra, giám sát ngân hàng phải bảo đảm các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có đủ quyền lực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng,8:
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các các bộ thanh tra, giám sát:
Bồi dưỡng cán bộ thanh tra nhằm nâng cao khả năng nhận biết vấn đề của các thanh tra viên, giám sát viên. phải thường xuyên trang bị thêm trình độ và kỹ năng giám sát ngân hàng; trình độ tin học, khả năng vận hành và khai thác phần mềm giám sát; phải tổ chức tập huấn mỗi khi có sự thay đổi chương trình giám sát hay thay đổi các chuẩn mực giám sát. Có như vậy về mặt con người mới đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra.
Đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát:
Cần đổi mới hoạt động thanh tra giám sát bằng việc chuyển phương pháp thanh tra, giám sát tuân thủ sang thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với các TCTD trong quá trình hội nhập quốc tế về ngân hàng. Để thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, NHNN cần xây dựng và hoàn thiện quy trình giám sát, phân tích trên cơ sở rủi ro theo phương pháp CAMELS.
Đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan trong giám sát hoạt động ngân hàng:
Đưa ra những thông lệ và thủ tục minh bạch trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để tăng hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng và thanh tra, giám sát tài chính đối với hệ thống tài chính nói chung. Có như vậy mới thực hiện được trao đổi thông tin hai chiều giữa Thanh tra Trung ương và Thanh tra Chi nhánh một cách nhanh chóng, tiện lợi, bảo đảm yêu cầu của việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin giữa Thanh tra Trung ương với thanh tra địa phương.:
Hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ:
NHNN cần cải tiến và hoàn thiện nội dung và quy trình thanh tra, có sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Tập trung thanh tra những nội dung theo cảnh báo của chương trình giám sát từ xa, không tiến hành thanh tra dàn trải.
PHẦN III: MỘT SỐ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG THANH TRA GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI:
Tình hình các tổ chức tín dụng sau khi gia nhập WTO:
Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập WTO, nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ nhiều mặt, vì vậy hệ thống NHTM cũng phải có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng để có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình hội nhập nền kinh tế. đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho nhiều lĩnh vực sản xuất, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, phát triển kinh tế, tạo tiền đề quan trọng để nước ta hội nhập thành công vào tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động tạo ra giá trị cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở nước ta, nó mang lại 80 - 90% thu nhập của mỗi ngân hàng, song rủi ro của nó cũng là rất lớn, rủi ro tín dụng cao quá mức sẽ huỷ hoại giá trị của ngân hàng và có thể dẫn đến phá sản. Do đó, đứng trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập WTO cũng như hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam đối với các NHTM nước ngoài, mà trước mắt là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết đối với hệ thống NHTM.
Từ thực tế trên, các tổ chức tín dụng Việt Nam đã nâng cao công nghệ và trình độ cho cán bộ, mở rộng màng lưới hoạt động kinh doanh trên toàn quốc.
Tuy nhiên sau hơn 23 năm đổi mới, thị trường tín cụng Việt Nam vẫn còn trong tình trạng không có sự thống nhát, bị phân mảng và còn chịu nhiều sự can thiệp quá lướn từ chính phủ cả phía cung lẫn phía cầu tín dụng. tình trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân bổ các nguồn lực kinh tế theo hướng hiệu quả, tới tăng trưởng kinh tế và mức độ hội nhập quốc tế của thị trường này. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, đặc biệt đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc hoàn thiện phát triển thị trường tín dụng theo hướng thống nhất và mang tính cạnh tranh cao đã trở thành một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế.
Theo đánh giá của Chính phủ và các chuyên gia Ngân hàng là lĩnh vực “gay go, quyết liệt” trong đàm phán vào WTO. Sức ép nhiều nhất khi thực hiện các cam kết cũng là ngành ngân hàng. Nhưng, về cơ bản có thể hài lòng với những cam kết đó.
Những năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Năm 2010 sẽ là năm đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, nền kinh tế nước ta sẽ có nhiều chuyển biến. Chúng ta gia nhập WTO đúng thời điểm kinh tế thế giới diễn biến xấu đến hai lần. Lần thứ nhất là năm 2007 giá cả thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là giá dầu; lần thứ hai là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Năm 2008 là năm khá đặc biệt, trong nửa đầu năm, nền kinh tế nước ta phải đối phó với tình trạng lạm phát cao.
Năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của nước ta. Nhất là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng trưởng kinh tế, sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư từ quý 1 đến quý 3 giảm sút nghiêm trọng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ còn khoảng 165 tỷ đô-la Mỹ bằng gần 1/3 so với năm 2008. Những khoản tín dụng đầu tư trong nước không còn dồi dào như các năm trước; nhiều hợp đồng cho vay trở nên chặt chẽ hơn, khiến nhiều nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thu xếp tín dụng cho các dự án mới.
Nếu chưa gia nhập WTO thì chắc chắn Việt Nam sẽ gặp khó hơn nhiều vì hàng hóa của chúng ta phải chịu thuế rất cao. Theo đánh giá của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan thì 3 năm hội nhập nền kinh tế thế giới, chúng ta thấy những tác động hữu hình và vô hình rõ hơn. Về hữu hình, xuất khẩu đã gia tăng đáng kể, tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng nếu chúng ta không tham gia hội nhập, xuất khẩu sẽ còn bị giảm nhiều hơn. Về mặt vô hình, xã hội đã nhận thức được nhu cầu hội nhập và đồng thuận cao. Đặc biệt để hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các cơ quan trung ương và địa phương phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính. Nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đánh giá: “Nếu không hội nhập thì chúng ta sẽ chịu những rào cản lớn hơn, những chế xuất cao hơn rất nhiều, không phải dừng ở 0,9%. Nổi bật nhất là thể chế của chúng ta đã đổi mới đáng kể, trước và sau khi ra nhập WTO, đặc biệt nghị định 30 của chính phủ về vấn đề giảm bớt 30% thủ tục, cũng là biểu hiện mới từ sức ép của quá trình hội nhập, sức ép của quá trình khủng hoảng đưa tới những cải cách đó. Chúng ta đã dần nhận biết rõ hơn cái đỏng đảnh của thể chế thị trường và nền kinh tế thế giới và từ đó tìm cách ứng phó cơ động linh hoạt. Kết quả là chúng ta ứng phó tương đối thành công, qua đó nó bộc lộ rõ những cơ hội, thách thức của quá trình hội nhập đồng thơìbộc lộ rất rõ điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam”.
Bốn năm chưa phải là một khoảng thời gian dài để Việt Nam hoàn toàn hội nhập được với nền kinh tế thế giới, trước mắt còn nhiều thách thức lớn đặt ra. Vì vậy cần phải nhận biết tốt hơn các thị trường tự do, thể chế thị trường, nếu không sẽ khó ứng xử. Các cơ quan nhà nước cũng cần nghiên cứu nhiều hơn về thị trường thế giới để có các chính sách cơ động, linh hoạt nhưng phải dễ tiên đoán. Trong năm 2010, Việt Nam cũng phải chọn lựa giữa chất lượng và tốc độ tăng trưởng; đối mặt với mâu thuẫn muốn ổn định vĩ mô phải thắt chặt tiền tệ; Cân bằng giữa thị trường ngoài nước và trong nước, giữa can thiệp của Nhà nước và điều tiết thị trường; Đặc biệt là chọn lựa mô hình phát triển phù hợp để Việt Nam có thể trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Thách thức và cơ hội:
Như trên đã nêu, hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới và có những bước tiến nổi bật, nhưng để hội nhập, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập như:
- Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống.
- Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là khối các tổ chức tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ bản bằng VNĐ đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
- Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên. Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng, nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều đó tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Trong điều kiện nói trên, một phần không nhỏ số doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và phá sản nếu không được tiếp tục vay vốn từ ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
- Các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn cần phải bàn và còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó, khi lãi suất thị trường lên cao trong khi vốn khả dụng của các NHTM dư thừa, NHNN thiếu khả năng can thiệp để điều tiết mặt bằng lãi suất.
- Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn dài trên 1 năm tại các NHTM chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là ngắn hạn dưới 1 năm chiếm tới 70%. Trong khi đó, tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn hiện đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng lên với quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối với các nước đang phát triển, kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, độ tin cậy của đồng tiền còn thấp, huy động vốn dài hạn khó khăn… Chính phủ đều có chính sách cho phép sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, đồng thời áp dụng một số chính sách hỗ trợ để đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ trên phải có một giới hạn nhất định. Việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại tệ còn chưa cao như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
- Phần lớn vốn của các NHTM Việt Nam đều thấp nên khả năng thanh khoản và tính bền vững của hệ thống chưa được cao. Hệ thống NHTMNN chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng, sức ép cạnh tranh còn thấp. Các NHTMCP, quỹ tín dụng quá nhỏ bé và yếu kém đang là điểm dễ bị tổn thương nhất của hệ thống. Có một số công ty tài chính và quỹ tài chính được thành lập nhưng mới bắt đầu hoạt động.
- Các ngân hàng chưa mở rộng và thay đổi phương thức kinh doanh; năng lực thẩm định dự án thấp. Tình trạng này một phần do thị trường tài chính chưa phát triển và các khuôn khổ pháp luật, kế toán và quản lý không đầy đủ, nhưng chủ yếu là do thiếu sự cạnh tranh, điều kiện tạo ra rất ít động lực cho các ngân hàng cải thiện chất lượng hoạt động.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tài chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Hệ thống ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung đối với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lý rủi ro thanh khoản hầu như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất hiện những biến động bất thường, một số NHTM luôn phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
- Phần lớn các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội sở chính đối với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng thái ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn chế tác động của những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối không chấp hành các giới hạn về trạng thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực, đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỷ giá. Vì vậy, khi phải đối mặt với sự biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức tín dụng.
Một số vấn đề đặt ra trong việc quản lý và giám sát trong bối cảnh gia nhập WTO:
Trên cơ sở quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, đến nay, hầu hết các Bộ, Ngành ở nước ta đều đã hình thành tổ chức thanh tra. Thanh tra Ngân hàng Việt Nam ra đời khá sớm, 5 năm sau khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, cũng chỉ đến năm 1990, khi Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh Ngân hàng, thì Thanh tra Ngân hàng mới có sự phát triển mạnh mẽ cả về tổ chức và hoạt động. Hoạt động thanh tra, giám sát, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Ngân hàng trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện chức năng quản lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Thanh tra Ngân hàng đã trở thành tổ chức Thanh tra Bộ có lực lượng cán bộ thanh tra viên lớn và cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ so với nhiều tổ chức thanh tra Bộ, ngành khác ở nước ta (tính đến thời điểm hiện nay). Tuy nhiên, có một thực tế là, các Pháp lệnh Ngân hàng không chỉ tạo tiền đề cho Thanh tra Ngân hàng được tăng cường mà đồng thời cũng tạo những tiền đề cơ bản cho việc phát triển mạnh mẽ hoạt động ngân hàng ở nước ta. Do vậy, có thể hiểu rằng, Thanh tra Ngân hàng cần được tăng cường là để góp phần tăng cường khả năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước, khi mà hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng đang phát triển như hiện nay Hiện nay, khi xem xét quan hệ giữa khả năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước với năng lực kinh doanh của các tổ chức tín dụng ở nước ta, thì Thanh tra Ngân hàng đang đứng trước những thách thức lớn; có thể thấy được những thách thức này ở những khía cạnh chủ yếu sau đây: Thứ nhất: Nhiều năm qua và đặc biệt là sau khi hai Luật Ngân hàng được ban hành, hoạt động ngân hàng ở nước ta đã phát triển nhanh chóng. Nhu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng của một nền kinh tế thị trường đã thôi thúc, tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng ở nước ta tăng trưởng. Không chỉ có các tổ chức tín dụng Nhà nước, mà các tổ chức tín dụng cổ phần, công ty tài chính, các ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng đã vươn lên mở rộng địa bàn, quy mô kinh doanh, tăng sức đầu tư, cung ứng hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới. Đồng thời, trình độ quản lý, điều hành, kiểm soát, trình độ nghiệp vụ, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ tiên tiến của các tổ chức tín dụng cũng theo đó từng bước được cải thiện. Tóm lại, thời gian qua đánh dấu một sức phát triển vượt bậc của các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; bỏ xa rất nhiều so với những gì có được trước khi gia nhập WTO. Thứ hai: Cũng với thời gian như vậy, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Việt Nam tuy có những bước chuyển biến nhất định, nhưng sự chuyển biến đó dường như chưa đủ, chưa tương xứng và thích ứng với sự phát triển về hoạt động ngân hàng trong nước. Mô hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng vẫn cơ bản giữ như năm 1990; chưa có tính hệ thống tập trung thống nhất. Phương pháp, kỹ năng thanh tra, giám sát chưa được đổi mới và nâng cao hiệu quả, phù hợp với yêu cầu mới. Việc nghiên cứu kinh nghiệm về thanh tra, giám sát của các nước tiên tiến để vận dụng vào nước ta còn chậm.
Từ những vấn đề nêu trên, với vai trò là chức năng thiết yếu trong quản lý và hoạt động ngân hàng, Thanh tra Ngân hàng Việt Nam cần phải đổi mới một cách toàn diện cả về thiết chế tổ chức bộ máy, hệ thống pháp lý và nghiệp vụ thanh tra, giám sát. Quá trình đổi mới Thanh tra Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay sẽ có những thuận lợi, khó khăn cơ bản như sau:
Những thuận lợi cơ bản:
- Đến nay, vị trí, vai trò, mục tiêu hoạt động của Thanh tra Ngân hàng đã được xác định rõ trong các văn bản pháp lý cao của Nhà nước, đó là Luật Ngân hàng và Luật Thanh tra (mới được Quốc hội khoá XII thông qua trong luật các tổ chức tín dụng năm 2010).
- Việc đổi mới Thanh tra Ngân hàng đã và đang nhận được sự quan tâm, đồng thuận của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng như các đơn vị có liên quan trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
- Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về Thanh tra Ngân hàng và đã được nghiệm thu; tạo tiền đề cả về lý luận và tổng kết thực tiễn cho quá trình đổi mới.
- Thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, các nước phát triển, Ngân hàng Nhà nước nói chung và Thanh tra Ngân hàng đã lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm, kiến thức mới về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
- Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn đang nhận được sự trợ giúp tích cực của một số nước trong việc giúp xây dựng dự án đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, trong đó một phần quan trọng của dự án là đổi mới về tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát đối với hoạt động ngân hàng.
Những khó khăn cơ bản:
- Quá trình đổi mới đòi hỏi cần có và huy động được sự tập trung công sức, trí tuệ của những chuyên gia Việt Nam giỏi về Thanh tra Ngân hàng. Nhưng, đây còn là một khó khăn không nhỏ của Ngân hàng Nhà nước nói chung và Thanh tra Ngân hàng nói riêng.
- Năng lực, trình độ của cán bộ, công chức Thanh tra Ngân hàng hiện nay nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng trong giai đoạn mới.
- Thanh tra Ngân hàng phải đổi mới toàn diện trong đó có công tác tổ chức. Nhưng, việc đổi mới tổ chức của Thanh tra Ngân hàng còn phụ thuộc vào tiến trình đổi mới chung về tổ chức của Ngân hàng Nhà nước. Mặt khác, mô hình Thanh tra Ngân hàng hiện nay đã tồn tại khá lâu, nên để thay đổi sẽ phải giải quyết nhiều vấn đề có tính đồng bộ.
Với những thuận lợi, khó khăn nêu trên quá trình đổi mới Thanh tra Ngân hàng ở nước ta cần chú trọng đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đây là cuộc đổi mới có tính chất căn bản tạo sức chuyển biến mạnh mẽ cả trước mắt và lâu dài. Do vậy, cần xác định và thống nhất nhận thức rõ các mục tiêu cụ thể của việc đổi mới. Quá trình đổi mới phải đảm bảo tính phù hợp với những điều kiện thực tế về kinh tế, xã hội cũng như đặc điểm hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.
- Để đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp và duy trì tốt hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước trong toàn bộ quá trình đổi mới, cần xác định lộ trình cụ thể cho từng giai đoạn, phù hợp với định hướng đổi mới chung của Ngân hàng Nhà nước.
- Quá trình đổi mới Thanh tra Ngân hàng phải đảm bảo tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; bảo đảm sự phối hợp có trách nhiệm cao của các đơn vị có liên quan trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Từ những vấn đề nêu trên, hoạt động đổi mới Thanh tra Ngân hàng hiện nay mặc dù có những khó khăn, thách thức, nhưng thuận lợi, cơ hội là cơ bản và là yêu cầu, nhiệm vụ chung của cả hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Ngô Bá Lại- những vấn đề đặt ra trong đổi mới thanh tra ngân hàng.
LỜI KẾT.
Cùng với điều hành chính sách tiền tệ, thanh tra, giám sát ngân hàng thật sự là trụ cột thứ hai để bảo đảm NHNN thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, thực hiện mục tiêu an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Từ đó, tạo môi trường thuận lợi cho ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng góp phần tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính phát triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh.Ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, ngành ngân hàng luôn chiếm vị trí trụ cột trong hệ thống tài chính và có vai trò quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô bởi vị thế trung gian và sự tập trung tài sản của nền kinh tế trong hệ thống ngân hàng.
Hệ thống các tổ chức tín dụng có được an toàn, lành mạnh hay không là kết quả tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng là hết sức quan trọng, thể hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc quản lý, điều tiết hệ thống ngân hàng và bảo đảm kỷ cương pháp luật trong hoạt động ngân hàng. Những định hướng đổi mới toàn diện của ngành ngân hàng, đặc biệt nhận thức và quan điểm về vấn đề an toàn hệ thống ngân hàng thể hiện quyết tâm, ý chí của Ðảng, Chính phủ nhằm phát triển ngành ngân hàng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn tạo động lực cho ổn định và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cải cách hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng được xem như là khâu trọng tâm để tạo ra sự phát triển đột phá trong lĩnh vực ngân hàng. Trên thực tế, thanh tra, giám sát ngân hàng là hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng mang đậm tính kỹ thuật chuyên ngành, vì vậy bên cạnh tính chất của hoạt động Thanh tra Nhà nước, trong quá trình đổi mới và phát triển hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng cần hết sức chú trọng đến tính chất chuyên ngành thì mới bảo đảm hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam loại bỏ nguy cơ tụt hậu và theo kịp trình độ phát triển trên thế giới, đồng thời thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Các thông tin tham khảo:
Bộ luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/6/2010 có nêu rõ:
+ Cơ quan thành tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền. (Điều 49, chương V).
+ Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. (Điều 50, chương V).
Về vị trí, chức năng của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, thì quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 25/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ cũng có nêu trong điều 1: “Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) thực hiện chức năng Thanh tra hành chính, Thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi Quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các Tổ chức tín dụng, Tổ chức tài chính quy mô nhỏ, Hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.”
Về Thanh tra ngân hàng
- Về đối tượng thanh tra (Điều 52): quy định bổ sung đối tượng thanh tra như sau:
+ “Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”;
+ “Tổ chức có hoạt động ngoại hối, họat động kinh doanh vàng; tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng”.
- Về căn cứ ra quyết định thanh tra (Điều 54):
Bổ sung căn cứ ra quyết định thanh tra: “Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng”.
- Về nội dung thanh tra (Điều 55):
Bổ sung, quy định rõ các nội dung thanh tra sau:
+ “Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng”.
+ “Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng”.
+ “Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật”.
Về giám sát ngân hàng
- Về đối tượng giám sát (Điều 56):
Quy định bổ sung đối tượng giám sát như sau:
“Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”.
- Về quyền và nghĩa vụ của đối tượng giám sát (Điều 57):
Quy định bổ sung đối tượng giám sát ngân hàng có các quyền và nghĩa vụ sau:
+ “Báo cáo, giải trình đối với khuyến nghị, cảnh báo rủi ro và an toàn hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
+ “Thực hiện khuyến nghị, cảnh báo rủi ro và an toàn hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
- Về nội dung giám sát ngân hàng (Điều 58):
Quy định bổ sung các nội dung giám sát như sau:
+ “Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng”.
+ “Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng; xếp hạng các tổ chức tín dụng hằng năm”.
+ “Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng”.
+ “Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật”.
Về xử lý đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 59)
“Tuỳ theo tính chất, mức độ rủi ro, Ngân hàng Nhà nước còn áp dụng các biện pháp xử lý sau đây đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng:
a) Hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản;
b) Hạn chế việc mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động;
c) Hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng;
d) Yêu cầu tổ chức tín dụng phải tăng vốn điều lệ để đáp ứng các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng;
đ) Yêu cầu tổ chức tín dụng phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần; cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối phải chuyển nhượng cổ phần;
e) Quyết định giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng trong những trường hợp cần thiết bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng và hệ thống các tổ chức tín dụng;
g) Áp dụng một hoặc một số tỷ lệ an toàn cao hơn mức quy định”.
Cam kết về ngoại hối và thanh toán
Đối với giao dịch vãng lai, Việt Nam cho biết các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa. Việt Nam đã quy định nghĩa vụ tạm thời phải kết hối ngoại tệ với mục đích tập trung ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về ngoại tệ cho nền kinh tế và đã nới lỏng dần yêu cầu kết hối này khi tình hình kinh tế được cải thiện.
Việt Nam cam kết các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ được áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ, do Chính phủ Việt Nam quyết định, nhằm duy trì an ninh tài chính và tiền tệ quốc gia phù hợp với điều lệ của IMF và Tài liệu của IMF số 144 (52/51) ngày 14-8-1952.
Việt Nam khẳng định rằng các hạn chế đối với giao dịch vãng lai đã được bãi bỏ và không duy trì bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết của mình về các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác cũng như về thanh toán giao dịch vãng lai và chuyển tiền quốc tế.
Đối với các giao dịch vốn, Việt Nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của các tổ chức cư trú, chỉ duy trì một số hạn chế về (i) các giao dịch chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư của các tổ chức cư trú, việc chuyển vốn này phải được các cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải trong phạm vi số ngoại tệ thuộc sở hữu của các tổ chức này; và (ii) thanh toán và hoàn trả các khoản vay nước ngoài của các tổ chức cư trú, các giao dịch này phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp được tự do ký các hợp đồng vay nước ngoài theo Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1-11-2005. Nghĩa vụ đăng ký các hợp đồng trung và dài hạn với Ngân hàng Nhà nước là vấn đề có tính thủ tục để phục vụ cho các mục đích thống kê và giám sát hoạt động vay nợ nước ngoài trung và dài hạn của các doanh nghiệp và phối hợp với Bộ Tài chính để bảo đảm các khoản nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi an toàn. Đại diện của Việt Nam lưu ý rằng theo điều XII của GATS (Các hạn chế để bảo đảm an toàn cán cân thanh toán), những hạn chế như vậy có thể được xem xét áp dụng khi Việt Nam gặp phải những khó khăn về cán cân thanh toán quốc tế. Các quy định về ngoại hối của Việt Nam được IMF rà soát mỗi năm một lần, là một phần nội dung trong các đợt làm việc của Quỹ theo điều IV trong điều lệ của IMF.
Đối với việc hoàn trả các khoản vay và các khoản đầu tư vốn ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, phải theo Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, đáp ứng các điều kiện về có giấy phép đầu tư ra nước ngoài; mở một tài khoản ngoại tệ đăng ký việc mở tài khoản và các giao dịch chuyển vốn đầu tư. Các giấy tờ cần thiết để xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp được phép đầu tư ra nước ngoài có thể chuyển lợi nhuận có được từ các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam ra bất cứ nơi nào ở nước ngoài mà không phải thực hiện theo các thủ tục áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hoặc có thể mở các tài khoản ngoại tệ để thực hiện vay nước ngoài trung và dài hạn như quy định tại điểm 2, Mục I, Chương V, Phần II của Thông tư số 01/1999/TT-NHNN ngày 16-4-1999 về thực hiện Nghị định số 63/1998/NĐ-CP được phép mở tài khoản ngoại tệ cho các hoạt động khác trong các trường hợp đặc biệt.
Về cân đối ngoại tệ, Chính phủ xem xét bảo đảm cân đối nhu cầu ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan trọng trong các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án cơ sở hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng tất cả các yêu cầu về ngoại tệ.Tóm lại, Việt Nam cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các vấn đề về ngoại hối theo các quy định của Hiệp định WTO, các tuyên bố và quyết định liên quan của WTO có liên quan tới IMF và Việt Nam sẽ không áp dụng bất cứ luật, quy định hoặc các biện pháp nào khác, mà có thể hạn chế nguồn cung cấp ngoại tệ cho bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế trong phạm vi lãnh thổ của mình ở mức liên quan tới nguồn ngoại tệ chuyển vào thuộc cá nhân hay doanh nghiệp đó.
Các cam kết về chính sách thương mại dịch vụ liên quan đến Ngân hàng
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các tổ chức tín dụng nước ngoài có thể hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài; công ty tài chính liên doanh, hoặc công ty tài chính 100% vốn nước ngoài; công ty cho thuê tài chính liên doanh, hoặc công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, thời hạn hoạt động không được quá 99 năm và không được vượt quá thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ ở nước ngoài.Thời hạn hoạt động của văn phòng đại diện của một tổ chức tín dụng nước ngoài không được vượt quá thời hạn hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài đó. Thời hạn hoạt động tối đa của công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 50 năm, và các giấy phép hoạt động này có thể được gia hạn.
(Nguồn TTXVN)
Nguồn tham khảo:
Phần 1:Những khái niệm chung về tín dụng và tổ chức tín dụng tham khảo từ - NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ- chủ biên: PGS.TS. Sử Đình Thành, PGS.TS. Vũ Thị Minh Hằng.
LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010 (LUẬT SỐ: 47/2010/QH12)
LUẬT NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 2010
Phần 2 tham khảo từ:
Thực trạng hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam đối với Ngân Hàng Thương Mại-Th.s.Nguyễn Thị Minh Huệ
Một số điểm mới của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 về thanh tra, giám sát ngân hàng-Nguyễn Công Dương.
LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010 (LUẬT SỐ: 47/2010/QH12)
LUẬT NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 2010
Phần 3 tham khảo từ:
Những vấn đề đặt ra trong đổi mới thanh tra ngân hàng-Ngô Bá Lại
Một số link tham khảo khác:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_giam_sat_hoat_dong_to_chuc_tin_dung.docx
- MỤC LỤC.docx