Để đạt được những thành công trong quá trình tìm tòi,đổi mới doanh nghiệp nhà nước là hết sức khó khăn,đó cũng chính là những khó khăn của quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế,xã hội.Đổi mới khu vực kinh tế nhà nước nói chung,doanh nghiệp nhà nước nói riêng gắn lion với quá trình đổi mới của toàn bộ nền kinh tế,xã hội,do đó cũng không thể có những thành quả thật hoàn hảo của riêng khu vực kinh tế nhà nước trong khi toàn bộ nền kinh tế còn đang tiếp tục chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,trong khi thị trường ở nước ta đang hình thành còn rất sơ khai,them chí còn “hỗn loạn”,bộ máy và cơ chế vận hành của Nhà nước cũng đang từng bước được hoàn thiện.Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng,Nhà nước ta,và đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng.Song,cổ phần hoá không thể là “liều thuốc cấp cứu”,có thể làm “hồi sinh” các doanh nghiệp nhà nước,mà phải đặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới tổ chức quản lý,đa dạng hoá sở hữu khác.Bản thân việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng phải đật trong sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của toàn bộ nền kinh tế
Hiện nay những khó khăn trong đổi mới khu vực kinh tế nhà nước nói chung,doanh nghiệp nhà nước nói riêng không phải chủ yếu về mặt lý luận,phương pháp luận,mà chủ yếu ở những biện pháp cụ thể trong thực tiễn,trong đó có cả những người mưu lợi cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.Quá trình đổi mới khu vực inh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp nhà nước sẽ còn là một cuộc đấu tranh gay go,phức tạp,đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng,của quản lý nhà nước và của toàn xã hội,và không thể tính bằng thời gian vài quý,thậm chí vài năm,mà gắn lion với quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế,xã hội
Để hoàn thành bài tiểu luận này,tôi xin trân trọng cảm ơn giáo viên hướng dẫn cho tôi- Giảng viên Nguyễn Thanh Hiếu đã tận tình giúp đỡ.Tuy nhiên với hiểu biết còn nhiều hạn chế,khả năng phân tích chưa sâu,tài liệu nghiên cứu còn chưa hẳn mở rộng nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót,rất mong được sự giúp đỡ,góp ý của thầy cô nhằm giúp bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước. Sự độc quyền của các doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ. Tất cả những cái đó đã đánh mất động lực kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm kết quả hoạt động của chúng yếu kém triền miên.
Thứ hai: Do hoạt động kém hiệu quả nên các doanh nghiệp trở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và giao tiếp đến mức thiếu hụt cả ngân sách.
Thứ ba: Về nhận thức lí luận có sự thay đổi về quan điểm về vai trò cuả nhà nước trong nền kinh tế thị trường. “từ chủ nghĩa tư bản điều tiết” cuả Keyner đến “chủ nghĩa tự do mới”, rồi “ nền kinh tế hỗn hợp” của Samuelson. Sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đến chỗ coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường và hiện nay là sự phổ biến của mô hình “ nền kinh tế hỗn hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân” . Quan điểm này đã làm thay đổi tư duy kinh tế của chính phủ, dẫn đến xu thế đánh giá lại vai trò và hiệu quả của kinh tế – xã hội của hệ thống nhà nước và CPH DNNN là một giải pháp mà hầu hết các nước đều coi trọng bắt nguồn từ sự thay đổi quan điểm nói trên.
Thứ tư : Sức hấp dẫn từ những ưu điểm từ những công ti cổ phần so với các doanh nghiệp bình thường khác, công ti cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh tế hơn rõ rệt và có vai trò to lớn trong sự phát triển của kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Hình thức sở hữu đa dạng phong phú. Nó có tác dụng thu hút, tập họp và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội . Thực tế phát triển của nền kinh tế thị trường cho thấy loại hình công ti hội tụ đủ các tiêu chí trên còn doanh nghiệp đơn sở hữu sẽ bị hạn chế trong đầu tư và cạnh tranh.
CPH DNNN liên quan chặt chẽ tới việc tôn trọng và phát huy sở hữu cá nhân không chỉ trong chế độ TBCN mà cả trong chế độ XHCN .
Với tư cách vừa là cổ đông vừa là người làm thuê trong công ti cổ phần , người lao động có quan hệ lợi ích chặt chẽ với doanh nghiệp còn với DNNN , nhà nước làm chủ sở hữu làm cho mọi việc chung chung mơ hồ không gắn bó quyền sở hữu với quyền sử dụng, CPH DNNN thực sự là một cuộc cách mạng triệt để thay đổi cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan hệ doanh nghiệp nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Suy cho cùng công ti cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất, xã hội hoá và nền kinh tế thị trường phát triển . Việc chuyển các doanh nghiệp sang công ti cổ phần là do tính xã hội hoá của sản xuất. Do quy luật cạnh tranh trong kinh tế thị trường quyết định và thúc đẩy. Đó là quá trình khách quan không do ý muốn chủ quan của bất kỳ thể chế chính trị hay cá nhân nào quyết định.
Chương II. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam
I.Tiến trình CPHDNNN ở Việt Nam
Từ khi có chủ trương CPH DNNN của đảng và chính phủ đến nay quá trình CPH có thể chia làm 3 giai đoạn :giai đoạn thí điểm cổ phần hoá, giai đoạn mở rộng CPH và giai đoạn thúc đẩy CPH.
1.1.Giai đoạn thí điểm cổ phần hoá từ (6-1992 đến 4-1996)
Thủ tướng chính phủ dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đã cho ra các quy định để thí điểm CPH với những nội dung chính như sau.
-Xác định rõ CPH DNNN với tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước ( tư nhân hoá được hiểu là bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho khu vực tư nhân).
- Mục tiêu của thí điểm doanh nghiệp nhà nước CPH DNNN chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, huy động được lượng vốn nhất định cả trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh tạo điều kiện để người lao động thức sự làm chủ doanh nghiệp.
-Điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có thể được chọn để CHP thí điểm đó là các doanh nghiệp có quy mô vừa(vốn 500-1000triệu đồng) tự hoạch toán được kinh tế đang kinh doanh có lãi hoặc trước mắt đang gặp khó khăn nhưng có triển vọng hoạt động tốt không thuộc diện doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ 100% vốn, tập thể lao động đoàn kết nhất trí. Một số người làm việc ỏ doanh nghiệp có khả năng mua cổ phần .
-Hình thức thí điểm C PHDNNN :Bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, cho các tổ chức kinh tế và xã hội trong nước cho các cá nhân trong nước.
-Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp :Tính theo giá trị ỏ thời điểm doanh nghiệp ra CPH.
-Ưu đãi với người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá doanh nghiệp: được mua ưu đãi cổ phiếu trả chệm không quá 12 tháng.
- Cơ quan chủ trì tổ chức thí điểm CPH. Bộ tài chính .
-Kết quả
Đến tháng 4-1996 sau hơn 5 năm có quyết định số 43/HĐBT cả nước chỉ có 5 doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ti cổ phần ,2/61 tỉnh thành phố và 3/7bộ có DNNN được CPH đó là : Công ti đại lí liên hiệp vận chuyển, tổng công ti vận tải Hàng Hải- bộ Giao Thông) cổ phần hoá xong 7/1993 công ti cơ điện lạnh (sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh ) CPH xong tháng 7/ 1993 nhà máy giày Hiệp An (bộ công nghiệp) CPH tháng 10/1994 , Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc (bộ nông nghiệp) và công ti xuất nhập khẩu Long An (tỉnh Long An) CPH xong tháng 7/1995.
Đây đều là các DNNN mới thành lập có quy mô vừa và nhỏ chủ yếu sản xuất hàng hoá trong lĩnh vực không quan trọng. Nên việc CPH còn quá chậm không đạt hiệu quả. Đây là giai đoạn rất khó khăn vì cơ chế vận hành của công ti cổ phần và CPH là vấn đề rất mới ở Việt Nam.
1.2 .Giai đoạn mở rộng CPH
-Chính phủ ra nghị định 28/CP để thúc đẩy CPH bao gồm:
-Loại doanh nghiệp nhà nước có thể được lựa chọn để CPH .Tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ với phương án sản xuất kinh doanh có hiệu qủa mà nhà nước không cần giữ 100% vốn.
-Hình thức CP: có 3 hình thức
+giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu nhằm thu hút thêm vốn để phát triển.
+Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp
+Tách một bộ phận của doanh nghiệp có đủ điều kiện để CPH
Chế độ ưu đãi đối với DNNN CPH
- Được giảm 50% lợi tức sau hai năm đầu tiên , được miễn phí trước bạ đối với việc chuyển tài sản của DNNNCPH thành sở hữu của công ti cổ phần được tiếp tục vay vốn ở ngân hàng thương mại nhà nước theo cơ chế và laĩ xuất như sau khi còn là DNNN. Được tiếp tục xuất nhập khẩu hành hoá như DNNN , được chủ động sử dụng số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi chia cho người đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phiếu các chi phí CPH hóa tích vào giá trị doanh nghiệp.
Chế độ ưu đãi đối với người lao động trong DNNN CPH cổ phần được cấp theo thâm niên và khả năng công tác. Được hưởng cố tức và cho con làm việc ở công ti cổ phần và thừa kế nhưng không được hưởng chuyển nhượng. Được mua chịu cổ phần trong 5 năm với mức lãi 4%/năm mức chịu không quá 15%giá trị doanh nghiệp.
Quyền hạn được CPH
- Các DNNN có vốn đầu tư là 3 tỷ đồng trở xuống do bộ trưởng các bộ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố chủ quản quyết định. Các doanh nghiệp nhà nước có số vốn trên 3 tỷ đồng do thủ tướng chính phủ phê duyệt.
- Kết quả :có ba bộ, tổng công ti và 11 tỉnh, thành phố có DNCPH. Ngành công nghiệp và xây dung có 12 doanh nghiệp, ngành giao thông vận tải có 3 doanh nghiệp. Ngành dịch vụ có 7 doanh nghiệp, các doanh nghiệp cũng có quy mô lớn hơn, một doanh nghiệp có số vốn 120 tỉ đồng, 5 doanh nghiệp có số vốn 10 tỉ đồng trở lên. Trong 25 DN đã CPH có 1 DNNN không nắm giữ cổ phần là công ti đầu tư sản xuất và thương mại Hà Nội . Còn lại 24 công ti ở đó nhà nước nắm giữ ít nhất là 10% nhiều nhất là 60% cổ đông là người lao động trong công ti sở hữu 10-70% cổ phần còn lại là cổ đông ngoài doanh nghiệp .
1.3. Giai đoạn thúc đẩy CPH
- Chính phủ ra nghị định 44/1998./NĐ-CPvới những đối tượng mới sau:
- Đối tượng CPH:loại doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ 100% vốn, loại DNNN mà nhà nước cần giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt .
- Về đối tượng mua cổ phiếu:Mở rộng thêm đối tượng được mua cổ phiếu, cả người Việt định cư ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Tăng gấp đôi số lượng cổ phiếu bán ra cho các cổ đông.
- Về xác định giá trị của DNCPH
+Về thủ tục: chỉ cần cơ quan nhà nước ( đại diện cho người bán ) và lãnh đạo DN ( đại diện cho người mua) là có thể định giá ,
+Về nội dung: Vận hành theo công thức
Giá trị thực tế =
Sản lượng thực tế của từng sản phẩm
x
Giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị DN
x
Chất lượng còn lại của tài sản
Quy trình CPH: được điều chỉnh lại cho phù hợp bỏ bớt những khâu trùng lặp, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN thực hiện CPHvà gồm 4 bước.
- Những ưu đãi của nhà nước đối với DNCPH,được duy trì quĩ phúc lợi dưới dạng hiện vật,các công trình văn hoá,bệnh xá,nhà điều dưỡng..v..v.. và nhà nước giao cho cán bộ công nhân viên trong công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của công doàn.Các khoản chi phí hợp lý của quá trình CƠH được trừ vào tiền bán cổ phần của NN,có thể sử dụng vốn hiện có của NN tại DN để trang trải.
- Những ưu đãi của NN đối với người lao động trong DN CƠH được mua cổ phiếu giảm giá 30% với tổng giá trị ưu đãi không qúa 20% giá trị phần vốn NN tại DN< Tăng gấp đôi so với nghị định 281CPMỗi năm người lao động được mua 10 cổ phiếu ưu đãi( Mỗi cổ phiếu 100.000đ),Cổ phiếu ưu đãi có giá trị như các cổ phiếu khác.Với những người lao động nghèo được NN cho mua cổ phiếu ưu dãi trả chậm trong 10 năm trong đó 3 năm đầu được hoàn trả
- Về thẩm quyền quyết định cổ phần hoá:Cũng được chính phủ mở rộng hơn trước.Thủ tướng chính phủ chỉ đạo CPH các DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng còn lại các DNNN có vố vốn dưới 10 tý đồng sẽ do các Bộ chủ tịch tỉh,thành phố và Chủ tịch hội động quản trị Tổng công ty là người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về việc lựa chọn tổ chức triển khai CPH ở các DN này và báo cáo lên CP
- Kết quả: chỉ trong 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng,gấp hơn 3 lần so với kết quả của thời gian trước đó.Năm 1999 ta đã CPH được 250 DN.Như vậy sau 2 năm nghị định 44/1998/NĐCP ra đời đã có 400 DN được CPH trong đó 8 năm trước chỉ cổ phần hoá được 30 DN,đén hết năm 1999 đã có 7 bộ nghành,10 tổng công ty và 41 tỉnh thành phố trực thuộc TW có DN CPH.Mạnh nhất là ở Hà Nội:71 DN,TP HCM:45 DN,Nam Định:22 DN,Thanh Hoá:12 DN,Bộ phát triển nông thôn:20DN.kTrong đó 11,9% có số vốn điều lệ trên 10 tỉ đồng,52,3% có vốn dưới 5 tỉ đồng.Nếu phân theo cấp quản lý thì 71,8% trực thuộc các địa phương,19% trực thuộc các bộ ngành còn 9,2% trực thuộc tổng công ty 91 phân theo lĩnh vực:Công nghiệp và xây dung 44,6%,dịch vụ- thương mại 41%,Nông nghiệp 2,7% và thuỷ sản 1,66%.Tuy vậy sang năm 2000,CPH DNNN có ngững dấu hiệu không vui,1 số địa phương như Hà Nội,TP HCM,NĐ đều chững lại
II.Đánh giá chung về quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
2.1.Những thành tựu đã đạt được:
Tiến độ CPH được cải thiện.Qua 10 năm,tính đến giữa tháng 6 năm 2000 cả nước ta đã CPH được 426 DN,trong đó từ 6/1992 đến 4/1996 CPH được 5 DN,từ 5/1996 đến 6/1998 CPH được 25 DN và từ 7/1998 đến nay CPH được 396 DN
Đối với DN đã CPH:Huy động được lượng vốn lớn,thay đổi phương thức quản lý,điều hành DNNN tạo sự đồng tình ủng hộ cao của người lao động và các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.Tại 30 DN đã CPH(tính đến 2/6/1998),số vốn thu hút được là 166.077 triệu đồng(Bằng 50% số vốn điều lệ hoạt động của các DN này).Tính đến đầu năm 1997 bình quân mỗi năm vốn của các DN này tăng lên 45% có DN như công ty CP cơ điện lạnh,sau 3 năm CPH(1993-1996) lượng vốn huy động đã tăng gấp 2 lần.Được NN cho phát hành trái phiếu ra nước ngoài(năm 1996 thu hút được 5 triệu USD)
Nâng cao tính tự chủ đổi mới quản trị trong DN.Khi chuyển đổi sang DN CP tức là chuyển từ sự quản lý trực tiếp của NN sang NN quản lý thông qua pháp luật,chính sách.Hoạt động của DN sẽ chịu sự tác động trực tiếp của kinh tế thị trường.Điều này buộc DN phải đổi mới hoạt động quản trị từ tư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp của NN sang tư tưởng tự lực lời ăn lỗ chịu.Bộ máy quản lý được tinh giảm giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê,hội đồng quản trị trong công ty CP do đại cổ đông bầu ra,khác với DNNN do NN bổ nhiệm
Mọi hoạt động trong công ty CP được tiến hành theo điều lệ và qui định chặt chẽ của Công ty giúp phát huy tốt vai trò chủ sở hữu và năng lực của người quản lý chuyên nghiệp tạo điều kiện áp dụng những thành tựu mới trong quản trị DN,nâng cao hiệu quả hoạt động của DN.Thu hút người ngoài tham gia quản lý điều hành công ty CP
Hiệu quả của DN tăng lên rõ rệt:Hầu hết các DN đều có chuyển biến tích cực toàn diện kể cả các DN trước CPH bị thua lỗ
Doanh thu bình quân hàng năm tăng 25% trong 6 tháng đầu năm 1999 có những công ty CP đạt doanh thu gấp đôi của cả năm trước CPH
Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng bình quân 26% có công ty đạt lợi nhuận gấp 2-3 lần so với trước khi CPH
Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30%
Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân 1-2%/tháng
Thu nhập hàng tháng cuủa người lao động tăng bình quân 20% năm
Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường
Người lao động và nhà nước đều được lợi từ việc tăng doanh thu và từ cổ tức.Hạn chế tình trạng lãng phí thất thoát vốn,giảm chi phí đầu vào
Ba năm 2001-2003 đã cổ phần hoá được 979 DN và bộ phận DN,bằng 71,6% tổng số DN và bộ phận DN đã cổ phần hoá.Riêng năm 2003 CPH 611 DN và bộ phận DN,bằng 244,4% năm 1999(năm có số DN CPH cao nhất).Những Bộ,địa phương thực hiện cổ phần hoá khá tốt là:Bộ Công nghiệp,Bộ giao thông vận tải,Bộ xây dựng,thành phố HCM,Dải Dương,Ninh Thuận,Thanh Hoá,Hà Tây,Thái Nguyên…
Năm 2003 số DN có quy mô tương đối lớn
2.2.Những hạn chế
Tuy vậy,trong cổ phần hoá cũng còn một số tồn tại:nói chung kcác doanh nghiệp cổ phần hoá quy mô còn nhỏ,nên mục tiêu huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất-kinh doanh còn hạn chế;chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiền năng về vốn,công nghệ,thị trường,kinh nghiệm quản lý;chưa thực sự đổi mới quản lý nội bộ công ty;còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng luật;chưa phân định rõ và nhận thức đúng vai trò người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà nứpc tại công ty cổ phần;các DN sau cổ phần hoá còn gặp khó khăn khi vay vốn kinh doanh,nhất là các khoản vay ưu dãi của nhà nước,một sô dịnh hướng chính sách của Nghị quyết chưa được thể chế hoá như thí điểm đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN CPH;sử dụng một phần vốn của DN để hình thành cổ phần không chia của người lao động
Các doanh nghiệp được CPH và lượng vốn CPH nhỏ
Đa số doanh nghiệp được CPH là các doanh nghiệp nhỏ.Chẳng hạn,trong 460 DNNN đã CPH trong giai đoạn 1992-2000,vốn Nhà nước được đánh giá lại khi CPH là 1920 tỷ đồng,phần còn lại 1.1287 tỷ đồng được bán cho người lao động trong và ngoài DN.Tính trung bình,vốn của các DN CPH là 4,17 tỷ.Các DN CPH có vốn quá nhỏ,không phù hợp với loại hình công ty Cổ phần là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi DN có quy mô sản xuất lớn
Mức độ CPH không cao
Trong tổng số các DN được CPH,lượng DNNN giữ cổ phần chi phối theo định hướng,theo quy định và cả ngoài quy định là rất lớn.Khi Nhà nước giữ cổ phần chi phối,DN CPH tiếp tục là một DNNN và các ưu thế của công ty cổ phần khó có thể được phát huy
Căn cứ theo các đề án tổng thể sắp xếp DNNN đã được phê duyệt,trong tổng số 2.033 DNNN được CPH(tính đến năm 2005)thì có 1.028 DN có cổ phần Nhà nước chi phối(chưa bao gồm đề án của tổng công ty Điện lẹc Việt Nam và Tổng công ty Dầu khí Việt Nam).Nhưng trên thực tế,con số này sẽ lớn hơn nhiều.Bởi theo quy định hiện hành,các DNNN khi tiến hành CPH nếu không bán hết được số cổ phần thì số cổ phần này được tính vào phần vốn của Nhà nước trong DN.Bên cạnh đó,theo Chỉ thị 01/2003/CT-TTG,Nhà nước giữ 51% cổ phần khi bán cổ phần lần đầu đối với các DNNN khi CPH có vốn trên 5 tỷ đồng,sản xuất kinh doanh có lãi,khong tính đến các yếu tố về ngành,lĩnh vực kinh doanh.Với hai tiêu chíe trên hầu hết các DNNN thuộc bộ,ngành,Tổng công ty và nhiều DNNN thuộc các địa phương đều nằm trong diện Nhà nước năm cổ phần chi phối khi tiến hành CPH.Với tình trạng này,theo nhận định của mốt số chuyên gia về CPH,thì số lượng DNNN thực tế sẽ lớn hơn nhiều con số gần 3000 DN(đã bao gồm cả DN giữ nguyên 100% vốn nhà nước và 1028 DNNN giữ cổ phần chi phối)vì phải cộng thêm các doanh nghiệp đã CPH nhưng có cổ phần nhà nước chi phối nằm ngoài dự kiến
Với việc tiếp tục duy trì số lượng sớn các DNNN,só nhiều doanh nghiệp quá nhỏ,vốn của nhà nước sẽ tiếp tục bị dàn trải,mục tiêu nâng cao hiệu quả của các DNNN sẽ không thực hiện được
Định giá doanh nghiệp mang tính chủ quan,không theo thị trường
Trong các văn bản hướng dẫn CPH,các phương pháp định giá được đề cập khá nhiều và chi tiết.Tuy nhiên,định giá cần được xem xét dưới các góc độ khác:Ai là người định giá?Chủ sở hữu đích thực hay người đại diện,người bán hay người đi mua?Quá trình định giá mang tính chủ quan hay khách quan?Người mau luôn muốn giá thấp,người đại diện có thể hành động phương hại đến lợi ích của người uỷ thác.Trong đa số trường hợp,chỉ có giá thị trường,giá khách quan là có thể làm hài lòng tất cả các bên
Bản thân các phương pháp định giá tự nó không dẫn đến một mức giá hợp lý.Người muốn giá thấp luôn có thể đưa ra hàng ngàn chứng cứ cho lập luận của minh.Các quy định về định giá cũng còn nhiều kẽ hở,nhiều vướng măc,đặc biệt là về đất đai.Các doanh nghiệp có diện tích đất sử dụng trong các thành phố có giá trị đất gấp nhiều lần các tài sản khác còn lại.Trong khi đó,các doanh nghiệp được CPH trong những năm trước chưa giải quyết vấn đề đất đai.Gần đây,đất đai được đề nghị tính theo”khung giá sử dụng đất hiện nay”,Khung giá sử dụng đất của Nhà nước,của các địa phương thường lại khác xa giá thị trường
Việc định giá không theo thị trường trong một số trường hợp dẫn đến thất thoát tài sản lớn.Trong nhiều trường hợp khác,doanh nghiệp có giá cao,khó bán cổ phần,được sử dụng như một lý do để chậm KCPH hoặc giữ lại một phần lớn cổ phần cho Nhà nước ngoài kế hoạch và tiếp tục là một DNNN.Khi giá thị trường được ấn định,nguyên tắc”tiền nào của nấy”được thực hiện và tình trạng ở một doanh nghiệp thì cổ phần chưa bán đã hết,ở doanh nghiệp khác cổ phần lại không ai mua sẽ bị xoá bỏ
Hình thức xác định truyền thống thông qua Hội đồng định giá doanh nghiệp trước đây đã bộc lộ nhiều nhược điểm,vừa không xác định chính xác,vừa mất thời gian.Gần đây,một số doanh nghiệp khi CPH đã thực hiện bán đấu giá và cho kết quả khả quan
“Nhận định về thực tiễn các doanh nghiệp đã thực hiện đấu giía cổ phiếu thời gian qua,hầu hết các chuyên gia CPH đánh giá là thành công.Tuy nhiên,phân tích sâu hơn chút nữa,ông Đoàn Kim Đan,chuyên viên CPH,Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho rằng,những thành công này thực ra mới chỉ màng tính chất đơn lẻ,chưa thực sự mang tính hệ thống.Một trong những nguyên nhân,theo ông Đan.là quy định hiện tại về khối lượng CPH được bán theo hình thức đấu giá còn rất nhỏ”
CPH mang tính nội bộ
Quá trình CPH một doanh nghiệp từ phương án,các nước thực hiện cho đến những người tham gia đều có tính nội bộ cao.”Toàn bộ quá trình CPH không được công khai trên các phương tiện thong tin đại chúng,thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước CPH như định giá doanh nghiệp,đấu giá cổ phần,thời điểm bán cổ phần”nhất là đối với những doanh nghiệp có nhiều lợi thế kinh doanh.Danh sách người mua cổ phần được giữ kín cho đến khi bán xong,để cả sau khi đã hết cổ phần cũng không được tiết lộ”Tỷ lệ bán cổ phần bán ra bên ngoài quá ít.Các cổ đông ngoài doanh nghiệp bị đối xử phân biệt về giá và thường bị gây khó dễ cho các hoạt động chính đáng của họ.Quy định bán cổ phiếu cho các cổ đông trong doanh nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo giá được xác định,còn lượng cổ phiếu bán ra bên ngoài được bán thông qua đấu giá là điều không hợp lý.Giá cổ phiếu cần được xác định khách quan,qua đấu giá và là giá chung.Việc giảm giá bao nhiêu phần trăm cho các đối tượng ưu tiên phải làm công khai,minh bạch,tách hoàn toàn khỏi việc xác định giá.Có thể tăng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài qua hình thức đấu giá,lấy mức giá đó làm chuẩn để tính giảm giá cho các đối tượng được ưu đãi.
Với những đặc điểm là đại đa số các doanh nghiệp CPH có quy mô nhỏ,lượng vốn CPH ít,CPH ở mức độ không cao,mang nặng tính nội bộ,chương trình CPH trên thực tế khó có thể đạt được mục tiêu là”huy động vốn,tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động,của cổ đông và tăng cưpngf sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp
Bên cạnh những hạn chế trên ở không ít DN sau CPH đã nảy sinh những bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN này chưa được phát hành đồng bộ hoặc chưa phù hợp với thực tế;nhận thức sai lệch,thiếu đầy đủ về CTCP của một số cổ đông.Những bất cập chính là:
Thứ nhất,về quản trị và điều hành CTCP
Thực tế cho thấy,một số CTCP(tức DNNN sau CPH)chưa được tổ chức,quản lý,hoạt động theo đúng quy định của phát luật(Luật DN)và điều lệ của công ty.Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị(HĐQT)và giám đốc điều hành thiếu rõ ràng,thạam chí có giám đốc không tuân thủ sự điều hành của HĐQT.Hầu như các DN sau CPH vẫ sử dụng toàn bộ cán bộ quản lý cũ:83% giám đốc cũ thành Chủ tịch HĐQT,76% phó giám đốc thành giám đốc điều hành và 79% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên
Do bộ máy điều hành ít thay đổi,nên tư duy,triết lý kinh donah,trình độ quản lý điều hành công ty cũng ít được đổi mới.Hầu như chưa có một DN CPH nào swr dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành.ở đây có phần,cho đến nay,quy chế pháp lý nhà nước về vấn đề này cũng chưa hoàn chỉnh.Hiện nay,ở không ít CTCP có tình trạng biểu quyết ở đại hội cổ đông thì theo cơ chế phổ thông đầu phiếu.Lại có một vài DN sau CPH,HĐQT của công ty đã phải họp thường xuyên để giải quyết các vấn đề sự vụ,kể cả việc mua bán vật tư cũng không để giám đốc quyết định,mua sắm,chi tiêu chỉ khoảng 100 nghìn đồng cũng phải họp để xin ý kiến
Theo kết quả điều tra do Viện Quản lý kinh tế trung ương phối hợp với công ty tư vấn MInh-Hà và chuyên viên Ban Đổi mới doanh nghiệp của các tỉnh thì khoảng 20% DN sau CPH cho rằng cơ chế hoạt động của công ty họ giống hoặc rất giống với DN ngoài quốc doanh,gần 50% cho rằng hoạt động của công ty họ vừa giống DNNN lại vừa giống DN ngoài quốc doanh và hơn 30% thì cho rằng quyền sở hữu và quyền về tài sản của công ty giống hoặc rất giống DN ngoài quốc doanh.
Thứ hai,về quản lý nhà nước và quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với CTCP
Mặc dù đã có những văn bản quy định khá cụ thể về mối quan hệ này,nhưng trong thực tế,vẫn xảy ra vướng mắc ở từng đơn vị cụ thể.Trong khi các DN CPH không có phần vốn nhà nước kêu ca họ bị bỏ rơi,bị hẫng hụt thì các DN CPH có cổ phần nhà nước chi phối lại than phiền họ bị can thiệp quá sâu của các cơ quan chủ quản thông qua người đại diện(của Bộ Tài chính,UBND tỉnh,thành phố trực thuộc,HĐQT của Tổng công ty).Những kiểu can thiệp sâu thường diễn ra trong trường hợp công ty mẹ là DNNN và công ty con đã CPH,nhưng có cổ phần chi phối của công ty mẹ hoặc của nhà Nước.Những DN đã CPH này phải báo cáo với công ty mẹ hoặc các cơ quan chủ quản từ việc cử cán bộ đi bọc đến việc đầu tư,nâng cấp trang thiết bị và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giống y như còn là DNNN.Không những thế,những DN này còn phải đóng góp các khoản cho cấp trên.Rõ ràng là quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau CPH còn bị hạn chế,làm cho thời cơ kinh doanh bị bỏ lỡ.Theo Nghị định sô 73/2000/NĐ-CP ngày 6/12/2000 của chính phủ thì nhiệm vụ lớn nhất của người đại diện là sử dụng có hiệu quả tốt nhất số vốn nhà nước đaqx đầu tư vào CTCP và vì thế,người đại diện chỉ có thể tác động vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giới hạn số vốn của Nhà nước ở coong ty đó mà thôi.Do đó,không phải vì có phần vốn nhà nước là người đại diện sẽ chi phối mọi việc của CTCP.ở một số CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt,việc tăng vốn điều lệ hay điều chỉnh cơ cấu vốn cổ đông rất phức tạp.Nhìn chung,cổ đông Nhà nước không muốn hoặc khoong có khả năng tăng vốn,trong khi đó các cổ đông khác lại muốn tăng vốn điều lệ.Vì thế,việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh ở các CTCP này rất khó khăn
Thứ ba,về việc thực hiện các chính sách ưu dãi đối với DNNN sau CPH
Mặc dù khoản 6,Điều 26 Nghị định 64/2002/NĐ-CP)đã quy định rõ:” Các DN CPH được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại,công ty tài chính,các tổ chức tính dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đối với DNNN” nhưng trên thực tế các DN này rất khó vay vốn tại ngân hàng.Muốn vay vốn ở ngân hàng,các CTCP phải có tài sản thế chấp mà tài sản thế chấp lại không phải là tài sản của công ty đã được nhà nứpc định giá.Hẳn nhiều người đã biết trường hợp của CTCP và phát triển du lịch Hải PHòng,khi công ty này đến ngân hàng vay vốn thì ngân hàng đòi hỏi công ty phải có tài sản thế chấp,phải có “bìa đỏ”,tài sản của công ty đã được fđịnh giá cũng “không có giá trị”.Khi công ty làm rõ quyền được vay vốn thì ngân hàng trả lời rằng:chưa cho CTCP nào vay vốn,chỉ cho công ty nhà nước vay vốn,muốn vay,phải mang nhà mình ra thế chấp.Trước yêu càu đó,Chủ tịch HĐQT đã phải thế chấp tài sản nhà minh,nhưng khi có “bìa đỏ”rồi,ngân hàng lại đò hỏi phải có giấy đăng ký kết hôn và sự cam kết của cả hai vợ chồng,sau đó ngân hàng còn phải đòi hỏi phải họp HĐQT để lấy ý kiến.Như thế cũng chưa đủ,ngân hàng lại thành lập đoàn định giá tài sản,cơ quan công chứng cũng thành lập đoàn định giá tài sản và cuối cùng,ngân hàng và công chúng lại không thống nhất ý kiến.Vậy là,sau nhiều lần đi lại,mỗi lần lại thêm một yêu cầu mới,nhưng cuối cùng công ty vẫn không vay được vốn
Nhiều DN sau CPH đến vay vốn ngân hàng cho biết,họ không được tiếp đón niềm nở bằng các DNNN.Việc thuê nhà của các DN này cũng phải chịu giá cao hơn.Việc hợp đồng thuê đất cũng mất rất nhiều thời gian,có DN phải mất đến 2 năm
Nhìn chung,những thủ tục liên quan đến vay vốn,thuê đất của các DN sau CPH đều bị các cơp quan chức năng đò hỏi phải có công chứng,mà các sơ quan công chứng lại không công chứng,vì rất nhiều lý do
Việc đăng ký mở tài khoản phong toả nguồn tiền bán cổ phần,mua tờ cổ phiếu và rút tiền phát hành tăng vốn điều lệ của các CTCP cũng đò hỏi phải có nhiều thủ tục và nhiều thời gian,gây phiền hà cho các CTCP
Việc trợ cấp cho người lao động nghỉ việc cũng rất nhiêu khê.Nhiều người phải chờ cả năm mới lấy được tiền bảo hiểm
Như vậy là,còn có sự phân biệt đối xử rất lớn giữa các DN CPH với các DNNN.Điều này không chỉ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau CPH mà còn kìm hãm tiến trình CPH.Rõ ràng,cần có một “sân chơi chung”cho mọi loại hình DN
Thứ tư,về việc chuyển nhượng cổ phần ở các DN sau CPH
Trên thực tế,một số DN sau CPH đi vào hoạt động đã dần dần bị “gia đình hoá”,bị biến thành DN tư nhân
Theo khảo sát,một số chủ tịch HĐQT,giám đốc điều hành của công ty đã toan tính để biến CTCP thành công ty của gia đình mình bằng cách bổ nhiệm người thân trong gia đình vào những vị trí quan trọng.ở một sô CTCP,đã xảy ra tình trạng mua bán,chuyển nhượng cổ phần khá tự do,công ty không kiểm soát được.Một số cổ đông,nhất là cổ đông nhỏ,không chỉ chuyển nhượng ngầm số cổ phần thường,mà còn chuyển nhượng ngầm cả số cổ phần ưu đãi,bất chấp quy định của pháp luật.Có những cá nhân đã mua gom cổ phần của người lao động tới mức trên 50% giá trị cổ phần danh nghĩa và nghiễm nhiên họ đã trở thành chủ nhân đích thực của CTCP,biến DN sau CPH thành DN tư nhân và người lao động(cổ đông,nhất là cổ đông nghèo)thành người làm thuê.Có thể coi đây là hiện tượng “tư nhân hoá ngầm” các DN sau CPH.Điều này hoàn toàn trái với chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước ta
Cùng với hiện tượng “tư nhân hoá ngầm” là hiện tượng “hợp tác hoá ngầm”các DN đã CPH.Trường hợp này thường diễn ra ở những DN CPH không có cổ đong là người ngoài DN tham gia,mặc dù khoản 4,Điều 3 Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã quy địnhdành tối thiểu5 30% số cổ phần còn lại(nếu có )bán cho đối tượng ngoài DN.Việc không thu hút được những nhà đầu tư bên ngoài,nhất là những nhà đầu tư có tiềm năng về vốn,trình độ công nghệ và trình độ quản lý…,đã làm cho CPH có nguy cơ biến thành hợp tác hoá.
Thứ năm,về một số vấn đề xã hội
Thực tế cho thấy,sau CPH,một số CTCP ăn nên làm ra,mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,thu hút thêm lao động,song cũng không ít CTCP kinh doanh sa sút,dư thừa lao động.Ví dụ,45 DN đã CPH của thành phố Hồ Chí Minh khi tiến hành CPH thì không có lao động dôi dư,nhưng khi tiến hành sắp xếp lại tổ chức sản xuất,đổi mới công nghệ thì đã xuất hiện lao động dôi dư.
Theo khảo sát của Bộ Lao động-thương binh và xã hội phối hợp với Sở Lao động-thương binh và xã hội của thành phố thì trong số 45 DN đã CPH này có tới 30 DN có lao động dư thừa,bình quân 31 lao động/1 XN.Tình hình ở Hải Phòng và một số địa phương khác cũng tương tự.Mặc dù Chính phủ ra Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/.4/2002 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN và Bộ Lao động-thương binh và xã hội đã có Thông tư 11/2002/TT-BLĐTBXH ngày 12/6/2002 về hướng dẫn thực hiện Nghị định này,nhưng trên thực tế,nhiều lao động dôi dư đến nay vẫn chưa nhận được khoản tiền trợ cấp này
ở một số DN sau CPH đã xuất hiện hiện tượng phân hoá giàu nghèo quá mức,khoảng cách chênh lệch về số cổ phần đã lên tới hơn 300 lần.Đảng ta đã chỉ rõ,tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Chúng ta thừa nhận và chấp nhận có sự phân tầng xã hội,song không chấp nhận một sự chênh lệch qúa mức
Ngoài những bất cập nảy sinh trên,ở không ít CTCP hiện nay,vấn đề sinh hoạt của các tổ chức đảng,đoàn thể cũng chưa được coi trọng và tiến hành đều đặn.Dường như các CTCP chỉ chăm lo đến sản xuất mà chưa chăm lo đến đời sống tinh thần cho người lao động
Chương III
Mục tiêu và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay
I.Mục tiêu cơ bản của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Một là,góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình tiếp tục đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,nâng cao tính năng động,sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung,của khu vực doanh nghiệp nhà nước nói riêng
Hai là,huy động vốn của toàn xã hội,bao gồm các cá nhân,các tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội trong và ngoài nước,để đầu tư đổi mới công nghệ,phát triển doanh nghiệp,nâng cao sức mạnh,hiệu quả của doanh nghiệp trên thị trường,tạo thêm việc làm,tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước
Ba là,thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và kinh tế Nhà nước,đổi mới căn bản quản lý Nhà nước đối với DNNN và phương thức hoạt động của DN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của từng DN cũng như toàn bộ nền kinh tế,tăng tài sản nhà nước,tạo điều kiện để khu vực kinh tế nhà nước kthực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường,không cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp nhà nước mà chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn
Bốn là,tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có cổ phần,tạo động lực làm việc,nâng cao vai trò làm chủ thực sự của họ
II.Những phương châm khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Một là,cổ phần hoá phải đảm bảo tăng thêm sức mạnh của khu vực doanh nghiệp nhà nước,biểu hiện: huy động được các nguồn vốn cho kinh doanh ở các doanh nghiệp cổ phần hoá mà nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần khống chế;tạo điều kiện để tổ chức lại một cách căn bản hệ thống doanh nghiệp nhà nước,nhằm phát huy vai trò trong nền kinh tế thị trường
Hai là,kết hợp cổ phần hoá soanh nghiệp nhà nước với việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước trên cùng địa bàn hoạt động,cùng ngành nghề kinh doanh,từng bước xoá bỏ ranh giới “địa phương”và “Trung ương”trong quản lý
Ba là,cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước gắn với việc củng cố,phát triển tổng công ty và các doanh nghiệp có 100% vốn của Nhà nước để từng bước hình thành tập đoàn kinh tế mạnh,tạo những mũi nhọn trong ngành nghề kinh doanh,qua đó giữ được vai trò định hướng,khống chế trong nền kinh tế
Bốn là,cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải làm tăng động lực,phát huy sức sáng tạo của công nhân và cán bộ quản lý,tạo điều kiện để người lao động phát huy vai trò làm chủ trong doanh nghiệp
III.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở phân tích thực trạng,thuận lợi,khó khăn,nguyên nhân trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thời gian qua,những kinh nghiệm và quan điểm mang tính chỉ đạo,chúng tôi đề xuất một số giải phát cơ bản nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,bao gồm:
3.1.Phát triển,hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
Trên cơ sở nhận thức đúng đăn về vai trò của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiến hành các bước sau:
Một là,phát triển các thành phần kinh tế:Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới,nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước,xây dựng hợp tác xã kiểu mới,tiếp tục hoàn thiện cơ chế,chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân,kinh tế cá thể phát triển;khuyến khích các hình thức liên kết,liên doanh với Nhà nước;Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ;tạo điều kiện hỗ trợ cung cấp tri thức,kinh nghiệm kỹ thuật,giải quyết thị trường,v..v..,để các thành phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn,kỹ thuật,công nghệ,kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài,cùng tham gia vào các công ty cổ phần được cổ phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước
Hai là,tạo lập đồng bộ các loại thị trường: Cùng với việc phát triển mạnh thị trường tư liệu sản xuất,thị trường hàng tiêu dùng cần coi trọng việc phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất;thị trường công nghệ,thông tin,tư vấn pháp lý,tư vấn tiếp thị,tài chính,ngân hàng,kiểm toán,bảo hiểm,v..v..,xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ.Đặc biệt,phải phát triển thị trường chứng khoán.Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi.Đồng thời,trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần có biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động tốt để có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường chứng khoán
Ba là,hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô: Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia,hoàn thiện chính sách tài chính-tiền tệ và hoạt động ngân hàng,ổn định tiền tệ,kiềm chế cả lạm phát và thiểu phát,nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp,các ngành từ Trung ương đến địa phương
Bốn là,điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường,đồng thời phải hướng dẫn,kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các luật đã ban hành: Sớm ban hành một số luật hoặc pháp lệnh quan trọng khác,như luật hoặc pháp lệnh về chống độc quyền của DN lớn,ngăn cấm việc áp dụng các thủ pháp đầu cơ,bán phá giá,lừa đảo,đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng,hạ giá bán sản pha;ảm.Ban hành luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hoá DNNN để nâng cao tính pháp lý,tạo điều kiện thuận lợi cho cổ phần hoá.Tạo hành lang pháp lý cần thiết,đảm bảo để cơ chế thị trường vận hành theo đúgn định hướng của Nhà nước
3.2.Sửa đổi,bổ sung một số cơ chế,chính sách,tạo thuận lợi cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Sửa đổi,bổ sung Nghị định 44/1998/NĐ-CP và các văn bản liên quan:
Một là,có thể bãi bỏ hoặc mở rộng các quy định hạn chế mua cổ phiếu của giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp
Hai là,về việc bán cổ phiếu giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá,chỉ khống chế thời gian công tác và số cổ phiếu của mỗi năm công tác,không khống chế tổng giá trị cổ phiếu giá ưu đãi theo phần vốn nhà nước
Ba là,điều chỉnh tỷ lệ ưu đãi đối với phần vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp khi cổ phần hoá.Kiến nghị dành 50% vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp để lại cho người lao động trong doanh nghiệp mua cổ phiếu mhằm động viên doanh nghiệp đã có tích luỹ cao,mặt khác,có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước chưa cổ phần hoá tích luỹ vốn,và có lợi cho Nhà nước,vừa có lợi cho doanh nghiệp khi cổ phần hoá
Bốn là,quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phiếu ưu đãi để khuyến khích,thu hút và tạo điều kiện cho người lao động trẻ,nhất là những người đã qua đào tạo(lực lượng quan trọng của DN)có cơ hội được hưởng chế độ ưu đãi.Nên cho lao động trẻ,đã qua đào tạo,đủ điều kiện làm việc tại DNNN CPH,được hưởng cổ phần ưu đãi ở mức độ nhất định.Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ trợ và sắp xếp DNNN
Năm là,không khống chế pháp nhân,cá nhân mua cổ phiếu ở loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt.Trong trường hợp người lao động trong doanh nghiệp không có khả năng mua hết tổng số cổ phiếu bán ra,không nên khống chế mức mua cổ phiếu lần đầu của cá nhân,pháp nhân ngoài doanh nghiệp để huy động vốn thêm ngoài xã hội,góp phần rút ngắn thời gian cổ phần hoá.
Sáu là,cụ thể hoá một bước các luật pháp,chính sách về cổ phần hoá bằng các văn bản hướng dẫn mang tính đồng bộ,thống nhất;tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình cổ phần hoá nhằm góp phần đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.Cần chú ý 2 nội dung sau:
+ Ban hành quy chế xác lập người đại diện sở hữu vốn nhà nước tại công ty cổ phần cùng với sự phân định rõ ràng quyền hạn,trách nhiệm của người đại diện này
+ Điều chỉnh quy định về chi phí cổ phần hoá đồng thời có hướng dẫn thực hiện cụ thể.Chi phí cổ phần hoá nên tính trên phần vốn của Nhà nước đưa ra cổ phần hoá,nếu thiếu thì xem xét tăng thêm với tỷ lệ hợp lý
Nghiên cứu sửa đổi Luật Thuế thu nhập
Người đầu tư luôn mong muốn đầu tư vốn càngnhiều để có thu nhập càng cao.Nhưng mức tăng thuế suất của thuế thu nhập hiện hành theo phương pháp luỹ tiến quá lớn,không khuyến khích các cá nhân với tổ chức trong và ngoài nước đầu tư,trong đó có đầu tư vào cổ phiếu-tác động xấu đến tiến trình cổ phần hoá
Kiến nghị sửa đổi như sau:
+ Mức thu nhập từ 3 triệu đến dưới 5 triệu,nộp thuế 10%
+ Phần thu nhập từ triệu thứ 5 đến dưới 10 triệu,nộp thuế 20%
+ Phần thu nhập từ triệu thứ 10 trở lên,nộp thuế 30%
3.3.Tăng cường tuyên truyền,khắc phục tâm lý bảo thủ,trì trệ để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,giải thích,vận động trong Đảng,trong bộ máy nhà nước,từ Trung ương đến địa phương,trong các doanh nghiệp và toàn xã hội về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.Cụ thể:
+ Các bộ,ngành,địa phương,tổng công ty tiếp tục mở các khoá tập huấn đối với doanh nghiệp và cán bộ tham gia cổ phần hoá,bảo đảm để các đối tượng trong phạm vi mình quản lý thông hiểu từ chủ trương đến cách thức tiến hành cổ phần hoá
+ Kịp thời nêu gương tốt của các doanh nghiệp,địa phương,bộ,ngành trong thực hiện cổ phần hoá và những bài học kinh nghiệm về cổ phần hoá
+ Với hình thức tuyên truyền đa dạng và phù hợp;phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về cổ phần hoá
+ Khuyến khích các nhà khoa học và quản lý nghiên cứu,lý giải thật căn kẽ về cổ phần hoá nhằm giúp cho công tác tuyên truyền đạt được kết quả mong muốn
+ Mặt khác,về lâu dài,đưa các kiến thức chủ yếu về kinh tế thị trường,về đầu tư,về công ty cổ phần,thị trường chứng khoán,cổ phàn hoá doanh nghiệp nhà nước,v..v.. vào các chương trình đào tạo chính thức của hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành nhận thức và tâm lý về kinh tế thị trường cho các chủ nhân tương lai của đất nước
3.4.Đổi mới các biện pháp mang tính kỹ thuật và kinh tế
Để rút ngắn thời gian cổ phần hoá cần đổi mới hai vấn đề liên quan trực tiếp,đó là quy trình cổ phần hoá và phương pháp định giá doanh nghiệp cổ phần hoá
+ Cải tiến quy trình cổ phần hoá sao cho bớt hinh thức nhưng vẫn giữ được vai trò kiểm soát của Nhà nước.Trong việc cụ thể hoá từng công đoạn để tổ chức thực hiện cần căn cứ vào tình hình thực tế,không nhất thiết phải qua tất cả các công đoạn,nhưng phải đảm bảo tính chặt chẽ
+ Đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi,bổ sung,cải tiến phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng đảm bảo nhanh,gon,bảo toàn được tài sản nhà nước,đồng thời nghiên cứu thực hiện việc bán đấu giá công khai doanh nghiệp nhà nước khi chuyển đổi sở hữu nói chung.Nên tăng thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá cho các cấp chủ quản,không phải dừng ở mức 10 tỷ đồng mà có thể cao hơn
3.5.Làm tốt công tác tổ chức bộ máy chuyên trách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
+ Trước hết,xác lập đồng bộ,đồng thời đổi mới hoạt động của các cơ quan,các ban chuyên trách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từ Trung ương,bộ,ngành đến địa phương và ở mỗi doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá,xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác cổ phần hoá có đủ năng lực,phẩm chất và trách nhiệm
+ Không buông lỏng sự chỉ đạo của các cấp đối với cổ phần hoá;giải quyết kịp thời theo sự phân cấp những vướng mắc ở các doanh nghiệp cổ phần hoá;xử lý thoả đáng những giám đốc doanh nghiệp,cán bộ quản lý không thực hiện,hoặc thực hiện cổ phần hoá mang tính chất đối phó
+ Sớm hình thành các cơ quanh tư vấn với những chuyên gia giỏi về cổ phần hoá ở cả Trung ương,các tỉnh và thành phố,v..v.. để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tất cả các công đoạn trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
3.6.Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về cổ phần hoá
Tiến hành cổ phần hoá có trọng tâm,trọng điểm,tức là xác định đúng đối tượng và trình tự tiến hành cổ phần hoá.Nội dung chương trình bao gồm:
+ Xác định số doanh nghiệp mà Nhà nước cần giữ 100% vốn,số doanh nghiệp cần chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác
+ Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần hoá của cả nước,của từng địa phương,từng bộ,ngành,v.v..,trong đó,số doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối,cổ phần đặc biệt.
+ Xây dựng lộ trình cổ phần hoá cụ thể cho từng ngành,từng bộ,từng địa phương,từng doanh nghiệp trong một lộ trình tổng thể của cả nước
3.7.Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp cả trong và sau cổ phần hoá
+ Hoàn thiện cơ chế,chính sách,tạo hành lang pháp lý thong thoáng,đồng thời có văn bản hướng dẫn thực hiện rõ ràng nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức tổ chức hoạt động bình đẳng,cạnh tranh lành mạnh trên thị trường
+ Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạod sâu sát,cụ thể,nắm chắc tình hình các doanh nghiệp,tháo gỡ kịp thời những khó khăn,vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức fhỗ trợ cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá thuận lợi;ngăn chặn việc gây phiền hà,sách nhiễu,phân biệt đối xử với doanh nghiệp cổ phần hoá;thực hiện đày đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động được quy định tại Nghị định 44/1998/NĐ-CP
+ Bộ Tài chính,Bộ lao động- Thương binh và Xã hội cần ra văn bản phối hợp hướng dẫn về thủ tục,nguồn tài chính để chi trả các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá,và cho người lao động trong các công ty cổ phần nghỉ chế độ sau này
+ Bộ tài chính cần có quy định cụ thể,tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cổ phần hoá mua tờ cổ phiếu đáp ứng yêu cầu cổ phần hoá của doanh nghiệp.Nên căn cứ vào tiến độ cổ phần hoá để giao cổ phiếu cho các kho bạc sở tại;chấn chỉnh việc một số kho bạc đòi hỏi doanh nghiệp cổ phần hoá nộp toàn bộ vốn điều lệ vào kho bạc,hoặc đòi hỏi phải quyết toán chi phí cổ phần hoá mới cung cấp tờ cổ phiếu.Điều này không thể thực hiện được,bởi lẽ,thứ nhất,trong vốn điều lệ có cả phần vốn nhà nước góp dưới dạng hiện vật và phần người lao động cho doanh nghiệp vay trước khi cổ phần hoá,thứ hai,quá trình cổ phần hoá chỉ kết thúc khi bàn giao giữa ban lãnh đạo cũ của doanh nghiệp nhà nước với Hội đồng quản trị và giám đốc công ty cổ phần
+ Bộ tài chính nghiên cứu việc thành lập các tổ chức mua,bán nợ để giải quyết các khoản nợ,nhất là nợ khó đòi của các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hoá nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này cổ phần hoá và đi vào hoạt động thuận lợi
+ Đề nghị Chính phủ xem xét việc hoãn thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá trong 2 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho công ty cổ phần mới ra đời đi vào hoạt động thuận lơị,trả lợi tức cổ phiếu một cách thoả đáng để động viên các cổ đông và thu hút thêm các nhà đầu tư
+ Ban tổ chức- Cán bộ chính phủ cần ra văn bản hướng dẫn việc giải quyết số cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước khi đơn vị chuyển sang công ty cổ phần;bố trí sắp xếp hoặc ưu tiên giải quyết chế độ khi họ không tiếp tục làm việc trong công ty cổ phần
+ Chỉ đạo cụ thể về hoạt động của các tổ chức Đảng,các tổ chức đoàn thể trong công ty cổ phần nhằm duy trì và phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong hoạt động của công ty cổ phần
Tóm lại,cả phương diện lý luận,thực tiễn và kinh nghiệm đều khẳng định chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn,hợp quy luật,có lập trường quan điểm rõ ràng,hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới.Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những giải pháp tích cực nhằm nâng cao tính năng động và hiệu quả không chỉ của các doanh nghiệp nhà nước mà còn của cả hệ thống các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước,theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là vấn đề mới,phức tạp và rất nhạy cảm.Đây là việc không thể chần chừ,chậm chạp,và càng để lâu,gánh nặng càng lớn,càng thêm thiệt hại cho nền kinh tế.Việc tiếp tục đẩy mạnh tiến trình này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ khá nhiều vấn đề,từ thống nhất về quan điểm,chủ trương cho đến các giải pháp kinh tế,kỹ thuật và sự nỗ lực,kiên định thực hiện đường lối đã vạch ra của không chỉ các ngành,các cấp trực tiếp thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,mà còn của cả các cơ quan lãnh đạo cao nhất cuả Đảng và Nhà nước
Kết luận
Để đạt được những thành công trong quá trình tìm tòi,đổi mới doanh nghiệp nhà nước là hết sức khó khăn,đó cũng chính là những khó khăn của quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế,xã hội.Đổi mới khu vực kinh tế nhà nước nói chung,doanh nghiệp nhà nước nói riêng gắn lion với quá trình đổi mới của toàn bộ nền kinh tế,xã hội,do đó cũng không thể có những thành quả thật hoàn hảo của riêng khu vực kinh tế nhà nước trong khi toàn bộ nền kinh tế còn đang tiếp tục chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,trong khi thị trường ở nước ta đang hình thành còn rất sơ khai,them chí còn “hỗn loạn”,bộ máy và cơ chế vận hành của Nhà nước cũng đang từng bước được hoàn thiện.Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng,Nhà nước ta,và đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng.Song,cổ phần hoá không thể là “liều thuốc cấp cứu”,có thể làm “hồi sinh” các doanh nghiệp nhà nước,mà phải đặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới tổ chức quản lý,đa dạng hoá sở hữu khác.Bản thân việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng phải đật trong sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của toàn bộ nền kinh tế
Hiện nay những khó khăn trong đổi mới khu vực kinh tế nhà nước nói chung,doanh nghiệp nhà nước nói riêng không phải chủ yếu về mặt lý luận,phương pháp luận,mà chủ yếu ở những biện pháp cụ thể trong thực tiễn,trong đó có cả những người mưu lợi cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.Quá trình đổi mới khu vực inh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp nhà nước sẽ còn là một cuộc đấu tranh gay go,phức tạp,đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng,của quản lý nhà nước và của toàn xã hội,và không thể tính bằng thời gian vài quý,thậm chí vài năm,mà gắn lion với quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế,xã hội
Để hoàn thành bài tiểu luận này,tôi xin trân trọng cảm ơn giáo viên hướng dẫn cho tôi- Giảng viên Nguyễn Thanh Hiếu đã tận tình giúp đỡ.Tuy nhiên với hiểu biết còn nhiều hạn chế,khả năng phân tích chưa sâu,tài liệu nghiên cứu còn chưa hẳn mở rộng nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót,rất mong được sự giúp đỡ,góp ý của thầy cô nhằm giúp bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn
Hà Nội,ngày 2 tháng 3 năm 2005
Người viết
Nguyễn Thu Hà
Các tài liệu tham khảo:
Sách:Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước.Nhà xuất bản chính trị quốc gia,2001.Tác giả Ngô Quang Minh(chủ biên)
Bài “Cải cách doanh nghiệp nhà nước”trong Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 257 tháng 10/1999
Bài “Đổi mới,phát triển và quản lý doanh nghiệp nhà nước”trong Tạp chí Sinh hoạt lý luận tháng 3/1999
Bài “Quan điểm,phương hướng và giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước” trong Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 287-tháng4/2002
Sách “Bàn về cải cách toàn diện DNNN”Nhà xuất bản chính trị quốc gia,1996
Một số vấn đề của DN sau CPH và giải pháp tháo gỡ.Sách kinh tế và phát triển,7/2002
DNNN sau cổ phần hoá:Kết quả,bất cập và hướng tháo gỡ.Sách kinh tế và phát triển,7/2003
Cổ phần hoá-Đổi mới DNNN.Sách Nghiên cứu kinh tế 4/2003
Cổ phần hoá- chặng đường dài vẫn ở phía trước.Kinh tế và phát triển,3/2004
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I.Khái niệm Cổ phần hoá và Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
I.Khái niệm Cổ phần hoá và Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 2
II.Cơ sở, lý luận và thực tiễn của Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 2
Chương II.Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I.Tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 4
II.Đánh giá chung về quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 7
Chương III.Mục tiêu và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
I.Mục tiêu cơ bản Cổ Phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 15
II.Những phương châm khi tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 15
III.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay 16
Kết luận 22
Tài liệu tham khảo 23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0671.doc