Tiểu luận Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam

Cổ phần hoá là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhưng lại là vấn đề hết sức mới mẻ, không ít những khó khăn, vướng mắc trên bước đường đi tới. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đi kèm với sự thành lập nhiều công ty cổ phần mới sẽ đóng vai trò quan trọng xác lập nền kinh tế thị trường vững chắc ở Việt Nam trong tương lai. Sự nhanh hay chậm hay thành bại của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tuỳ thuộc vào quyết tâm và khả năng thực tế của chính phủ. Để khắc phục tình trạng chậm trễ trong tiến trình cổ phần hoá cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sở hữu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho khu vực kinh tế Nhà nước thực sự nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường. Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển cảu các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành. Như vậy về lịch sử cũng như về logic, tín dụng có trước khi thành lập công ty cổ phần, tín dụng là cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Tóm lại, công ty cổ phần là một quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản. Hiện nay các công ty cổ phần phát triển rộng khắp và trở thành một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. 2. Lịch sử hình thành công ty cổ phần Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá cao đặc biệt là xã hội hoá về vốn. Do đó việc nghiên cứu lịch sử hình thành công ty cổ phần trong lịch sử là hết sức cần thiết cho việc hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam. Phát triển công ty cổ phần trên thế giới chia ra 4 giai đoạn: 2.1. Giai đoạn I: Giai đoạn mầm mống Trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản chủ yếu xuất thân từ thợ cả, người chủ phường hội thương nhân, người cho vay nặng lãi và người Fec – mi - ê tư bản chủ nghĩa. Lúc đầu họ lập ra các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa riêng lẻ, kinh doanh độc lập, thuê mướn công nhân và bóc lột lao động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân và chữ tín, họ đã góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành doanh nghiệp góp vốn. Đặc điểm của công ty cổ phần trong giai đoạn đầu này là được thành lập bằng vốn cổ phần của thương nhân do thương nhân đứng ra tổ chức. Mục đích hoạt động của công ty là lợi dụng những phát kiến lớn về địa lý thế kỷ XV, XVI để đi ra tìm kiếm thị trường mới có tỷ suất lợi nhuận cao và thu về những nguồn lợi lớn cho thương nhân. Công ty cổ phần chỉ được thành lập khi lĩnh vực hoạt động kinh tế có khả năng đem về nguồn lợi lớn. Thực tế lịch sử đã xác định vai trò nổi bật của thương nghiệp với khả năng làm giàu một cách nhanh chóng trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản và theo đó, chủ nghĩa trọng thương đã trở thành học thuyết kinh tế dẫn đường cho giai cấp tư sản. Thương nghiệp đã trở thành hình thức đầu tiên nảy sinh công ty cổ phần. * Giai đoạn II: Giai đoạn hình thành Trước và sau cuộc cách mạng công nghiệp, chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XIX, các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Ví dụ năm 1806 phát triển thương mại của Pháp đã có những quy định cơ bản về công ty cổ phần. Giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX công ty cổ phần xuất hiện trong lĩnh vực giao thông vận tải: đường sông, đường sắt; đến năm 1837 công ty cổ phần đường sắt là 46. Thời kỳ đầu số cổ phiếu ở công ty này chủ yếu bán thông qua cơ quan nhận mua có tính chất địa phương như công ty chứng khoán địa phương và ngân hàng đầu tư bán cho người buôn. Cùng thời gian này công ty cổ phần cũng được thành lập tương đối rộng khắp trong ngành chế tạo nhiều nước. Thực ra bấy giờ Anh là nước có nhiều công ty cổ phần nhất. Một khoản đầu tư tư bản riêng lẻ ban đầu không đủ để xây dựng xí nghiệp lớn chu kỳ xây dựng dài (nhất là đường sắt). Bấy giờ việc xây dựng đường sắt, các công trình lớn tại đại đa số các nước đều huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu đường sắt bấy giờ (Các Mác gọi là “giấy chứng nhận quyền sở hữu”) có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có trường hợp vượt biên giới quốc gia, phát hành được bán ra ngoài, thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức đinh kỳ. Một số doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân cũng bắt đầu phát hành cổ phiếu, dùng tiền của người khác để làm giàu, đồng thời dần dần tách người đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm hai. Đặc biệt là công ty xuất nhập khẩu hàng hoá như công ty Đông An là doanh nghiệp cổ phần bóc lột thuộc địa. Đồng thời cùng với sự phát triển của các công ty cổ phần, các sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên một cách phổ biến tại các nước phương Tây. Tuy nhiên trước những năm 70 của thế kỷ XIX, công ty cổ phần còn ít và hình thức cũng chưa đa dạng như sau này, quy mô cũng nhỏ. * Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, công ty cổ phần phát triển rất nhanh, mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy, các tổ chức độc quyền ra đời như Các ten, Xanh đi ca, Tờ rớt. Hầu như tất cả cácd doanh nghiệp lớn đều áp dụng hình thức cổ phần, hơn nữa các doanh nghiệp lại xâm nhập vào nhau, hình thành “chế độ tham dự” với “chế độ tập trung”. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu chuỗi: Công ty mẹ – công ty con – công ty cháu, hình thành một tập đoàn doanh nghiệp vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Lúc này tư bản tài chính đã trở thành hình thái chủ thể tài sản xã hội, ngân hàng kiểm soát công nghiệp, thương nghiệp đầu sỏ tài chính ra đời. Đây là cái mà chúng ta gọi là “thời đại chủ nghĩa đế quốc”. Tương ứng với nó thị trường giao dịch cổ phiếu mọc lên khắp các nước, hình thành trung tâm tài chính quốc tế; giao dịch chứng khoán cực kỳ sôi động đến mức trở thành cái hàn thư biểu về giao động kinh tế và chính trị, đồng thời còn là sân chơi của các nhà đầu cơ. Có điều thị trường chứng khoán có tác dụng rất lớn trong việc khơi thông nguồn vốn. Các nước đều ban hành các quy định, để đảm bảo chắc chắn cho các công ty cổ phần và sở giao dịch chứng khoán hoạt động bình thường. Cùng với thời gian này công ty cổ phần cũng được thành lập tương đối rộng khắp trong ngành chế tạo ở nhiều nước. * Giai đoạn IV: Giai đoạn trưởng thành Sau chiến tranh thế giới thứ 2 doanh nghiệp cổ phần có những đặc điểm mới: - Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và công ty đa quốc gia để liên hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần, hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế. - Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần, thực hiện cái gọi là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, vừa để làm dịu mâu thuẫn lao động và tư bản vừa để thu hút vốn một cách thuận lợi. - Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có đặc điểm riêng. Tóm lại, trải qua vài trăm năm công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước tư bản theo xu hướng từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia. 3. Sự cần thiết phải hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam 3.1. Sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam * Tính tất yếu phải chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường - Nền kinh tế kế hoạch bộc lộ nhiều khuyết điểm - Nền kinh tế thị trường là bước đi tất yếu để quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: Phải thừa nhận kinh tế thị trường là bước đi tất yếu của nền kinh tế và nền văn minh nhân loại. Nó là sự cần thiết khách quan để xây dựng nền sản xuất tiến bộ, là trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lại là bước phát triển cao hơn sau kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam: + Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. + Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. + Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. + Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường: + Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần nền kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. + Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được với giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. + Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó, kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. + Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. + Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. * Sự hình thành nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: - Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: + Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, đó là chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. + Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và quan hệ với nhau tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. + Nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, thông minh nhưng thất nghiệp còn nhiều. Cần phải tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác nhau ngoài thành phần kinh tế nhà nước để giải quyết việc làm cho người lao động. - Các thành phần kinh tế và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước: + Có 6 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế cá thể, tiểu chủ Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài + Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: Giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, vừa là yếu tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, vừa là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. 3.2. Do yêu cầu củng cố nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước - Kinh tế nhà nước hiện nay chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Những nhược điểm và khuyết điểm trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu từ khâu quản lý. Sở dĩ kinh tế nhà nước chưa làm tốt vai trò chủ đạo là do chưa nhận thức và cũng chưa có đủ những biện pháp cần thiết, có hiệu quả để củng cố và nâng cao vai trò đó .Những nhược diểm và khuyết diểm trong hoạt dộng của Doanh nghiệp nhà nước hiện nay là có thật, thậm chí ở một số bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, những khuyết điểm và nhược điểm đó là nghiêm trọng. Song, đó tuyệt nhiên không phải là khuyết tật mang tính bản chất của kinh tế nhà nước, mà ngược lại, cũng do những khuyết điểm của ta trong quản lý. - Cần có những chủ trương cụ thể để củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả đã tăng lên. Tuy nhiên, công việc tiến hành còn chậm, cổ phần hoá chính là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này. Cổ phần hoá cho phép tách quyền sở hữu và quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp, nhằm đưa lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Nhờ cổ phần hoá sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ngày càng có vốn lớn từ đó có điều kiện trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, mở rộng sản xuất. Đồng thời đồng vốn ngày càng sử dụng tốt lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho nhau sẽ thúc đẩy lưu thông tiền vốn. Mặt khác, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để bổ sung thêm vốn khi cần thiết. Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hoá sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa. II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Ngay từ năm 1990, cùng với sự đổi mới các chính sách kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương cổ phần hóa, chuyển một số bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Đây là chủ trương lớn được các ngành, các cấp triển khai thực hiện nhằm huy động nguồn vốn trong dân để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội nâng cao vai trò làm chủ, gắn thực sự người chủ quản lý với người chủ sở hữu, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính: 1.1. Giai đoạn 1 (giai đoạn thí điểm): Giai đoạn này được đánh dấu bằng quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn làm thí điểm nên còn thiếu kinh nghiệm. Để củng cố và phát triển chủ trương này, thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành quyết định 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và Chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá nói trên đã triển khai thực hiện được một số năm và một số doanh nghiệp tự nguyện đăng ký xin cổ phần hoá, nhưng thực tế chỉ có rất ít đề án có khả năng thực hiện ở các mức độ khác nhau. Trong giai đoạn thí điểm 1992 – 1995 có 5 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần là: - Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải (năm 1993). - Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (năm 1993). - Xí nghiệp Giày Hiệp An, thuộc Bộ công nghiệp (năm 1994). - Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An (năm 1995). - Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (năm 1995). Trong 5 doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Long An. 1.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn mở rộng thêm từ năm 1996 đến nay Đây là giai đoạn cổ phần hoá được tiến hành trên quy mô rộng lớn hơn với việc ban hành hàng loạt văn bản về cổ phần hoá. Các văn bản pháp lý đã quy định một cách tương đối đồng bộ các chính sách, trình tự, thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ giá trị doanh nghiệp: chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Trong vòng 5 năm (1992 – 1998) các ngành, các địa phương trong cả nước mới chỉ cổ phần hoá xong có 38 doanh nghiệp là còn quá ít và quá chậm. Các nguyên nhân của sự chậm chạp đã được chỉ ra và khắc phục từng bước tạo lên một sự chuyển biến ngày càng mạnh mẽ cả về sự bổ xung, sửa đổi, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật, quy trình, thủ tục và việc thực hiện cổ phần hoá. Bước chuyển biến lớn nhất và quan trọng có thể nói bắt đầu từ đầu năm 1998, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị 20/1998/CT – TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/06/1998 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã giải quyết được một cách căn bản các vấn đề liên quan đến thủ tục cổ phần hoá, như: định giá tài sản, chính sách đối với người lao động, giảm bớt một số thủ tục hành chính, v.v. Từ khi có Nghị định 44/1998/NĐ - CP đến tháng 1/1999, sau thời gian hơn 1 năm thực hiện, cả nước đã cổ phần hoá thêm 250 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp cổ phần hoá lên 280. Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá đã trải rộng trên phạm vi cả nước. Tính đến 31/12/1999 đã có 370 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Cho đến nay, số doanh nghiệp cổ phần hóa đã tăng lên rất nhiều. Chất lượng và hiệu quả của các công ty cổ phần cũng tăng đáng kể. Có thể lấy ví dụ như: công ty sứ Bát Tràng, công ty Giầy Hà Nội, công ty xuất nhập khẩu Namsimex, công ty xe khách Hải Phòng, công ty tàu thuyền Bình Minh, công ty Giày Hiệp An, công ty hàng hải Việt Nam… Quá trình cổ phần hoá được tiến hành từ địa phương đến các doanh nghiệp thuộc Bộ, các Tổng Công ty. 2. Những thành tựu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 2.1. Những thành tựu mang tính định lượng Từ năm 1992 đến tháng 6/1998: Trong giai đoạn này cả nước đã cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, 5 doanh nghiệp được cổ phần hoá theo cơ chế, chính sách thí điểm, 25 doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế chính sách quy định tại Nghị định 28/CP của Chính phủ. Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 2/6/1998 đến ngày 31/12/1999 đã có thêm 340 doanh nghiệp nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần. Riêng năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp. Như vậy về mặt số lượng, tốc độ cổ phần hoá sau khi có Nghị định 44/1998/NĐ - CP được đẩy mạnh. Nhiều Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty nhà nước đã tích cực thực hiện và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Điển hình là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định 44/1998/NĐ - CP đã quy định các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá một cách rõ ràng, cụ thể hơn; có sự quan tâm hơn đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt chú ý tới người lao động nghèo. Điều đó khiến chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp trở lên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như đối với người lao động và các đối tượng trong xã hội do vậy mà cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã có được những tiến bộ đáng kể. Từ tháng 1/2000 đến cuối tháng 11/2002, cả nước đã cổ phần hoá được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hoá lên tới 907 đơn vị. Chỉ riêng năm 2002 có 427 doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại. Và cho đến nay số doanh nghiệp được cổ phần hoá đã tăng lên rất nhiều. Như vậy, có thể thấy, càng về sau, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước càng được đẩy mạnh. Hơn nữa càng về sau, quy mô các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá hoặc chuyển đổi dưới những hình thức khác càng lớn hơn. Trước năm 2003, số doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 7,9% thì sau năm 2003 là 15%. Điều này cũng chứng tỏ sự kiên quyết cũng như tính nhất quán trong việc chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta. 2.2. Tác động của cổ phần hóa đối với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng, việc chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội: - Về hiệu quả sản xuất, kinh doanh Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước sau khi chuyển sang cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1999 công ty này đạt 178 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 lần so với doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hoá là 46 tỷ đồng; công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An có số vốn tăng lên 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong có số vốn tăng lên 2,4 lần. Các doanh nghiệp nộp ngân sách bình quân tăng hai lần so với trước khi cổ phần hóa, điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh tăng gần ba lần. Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá là những công ty cổ phần đầu tiên được niêm yết trên thị trược chứng khoán Việt Nam. Điều này không những nâng cao uy tín và vị thế của các doanh nghiệp Nhà nước mà còn chứng minh tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như một biện pháp quan trọng để thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. - Về huy động vốn Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội đầu tư phát triển sản xuất. Chỉ tính riêng 370 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá tính đến hết ngày 31/12/1999, giá trị phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ phần hóa đã thu hút thêm 1432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần. Đồng thời, Nhà nước cũng thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp khác và giải quyết một số chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Khi thực hiện cổ phần hoá, vốn nhà nước không những không mất đi mà ngược lại được bảo toàn và tăng thêm từ 10 – 15%; vốn nhàn rỗi từ ngoài xã hội được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp cổ phần hoá. - Về việc làm và thu nhập cho người lao động Hầu hết trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có chiều hướng tăng lên. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thoả đáng. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá tăng bình quân 12%. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm gần 20%. Điển hình là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Thu nhập của lao động trong doanh nghiệp này đạt 4 triệu đồng/người/tháng trong năm 1999, bằng gần 3 lần so với 1,4 triệu đồng trước khi cổ phần hoá. Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và xã hội. Tóm lại, cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. 3. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần giải quyết của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Bên cạnh những thành công như trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng tồn tại khá nhiều bất cập, những khó khăn vướng mắc, trở ngại cần giải quyết. 3.1. Những bất cập còn tồn tại - Bất cập rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là quá trình cổ phần hoá còn chậm và nhỏ lẻ. Điều này thể hiện ở việc thực hiện cổ phần hoá luôn thâp hơn chỉ tiêu đề ra. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá tăng lên, nhưng so với kế hoạch đề ra lại có xu hướng giảm xuống. Theo dự kiến, trong ba năm (2000 – 2002) sẽ tiến hành cổ phần hoá 1.056 doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhiên, đến tháng 12 năm 2002, chúng ta mới chỉ thực hiện cổ phần hoá được 523 doanh nghiệp tức là chỉ gần bằng 50% so với dự kiến. Trong năm 2002 chỉ thực hiện cổ phần hoá được 120 doanh nghiệp, trong khi con số đề ra là 374 doanh nghiệp. Các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 nhìn chung đều có đề án tổng thể sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của mình nhưng đa số chưa có lộ trình và kế hoạch hàng năm cụ thể về cổ phần hoá. Khi Chính phủ yêu cầu, các Bộ, tổng cục chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá một cách đối phó, nặng nề hình thức nên kết quả còn hạn chế. - Xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc cổ phần hoá chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực. Do số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá không cao, hơn nữa, các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên 90% công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng, trong đó khoảng trên 75% có vốn dưới 5 tỷ đồng. Cụ thể năm 1999 tỷ lệ doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn trên 10 tỷ chiếm 11%, năm 2000 là 10%, năm 2001 là 14%, năm 2002 là 22%, năm 2003 là 19%. Mặt khác, Nhà nước vẫn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các công ty cổ phần, nên việc cổ phần hoá nhìn chung chưa tác động đáng kể đến cơ cấu lại vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Về cơ bản, chỉ có những doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hoá. Các doanh nghiệp Nhà nước quy mô và các tổng công ty hầu như chưa được đề cập. - Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn có những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Chẳng hạn, trong ngành nông nghiệp, có một số doanh nghiệp nhiều năm không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ. Không những thế, gần đây, các nhà quản lý đã nhận thấy một số doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không lớn song đây là một hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều đến uy tín của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. 3.2. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần tháo gỡ - Khó khăn đầu tiên đối với quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là phản ứng từ một bộ phận lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước. Những người này sợ bị mất chức, mất quyền, sợ trách nhiệm, sợ phải đối mặt với thị trường nên đã không hăng hái thực hiện cổ phần hoá. Ngoài ra, còn có một số quy định chưa đồng bộ và không khuyến khích người lãnh đạo doanh nghiệp tham gia cổ phần hoá như việc xếp lương. Do vậy , họ không muốn cổ phần hoá bộ phận hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. - Người lao động có tâm lý chung sợ mất việc làm sau khi doanh nghiệp cổ phần hoá, sợ sự phân biệt đối xử khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước… Thực tế, người lao động trong doanh nghiệp nhà nước được chia lợi tức của doanh nghiệp thông qua việc họ được hưởng tiền thưởng và các khoản phúc lợi từ lợi tức của doanh nghiệp dù họ không phải đóng góp vốn, nhưng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người lao động không được chia lợi tức nếu họ không góp vốn. Việc sa thải lao động trong doanh nghiệp nhà nước khó hơn nhiều so với việc sa thải lao động ở các doanh nghiệp khác. Đây là những lý do quan trọng để người lao động không muốn cổ phần hoá doanh nghiệp. - Nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, địa phương đã không tích cực triển khai việc cổ phần hoá bởi vì họ không muốn mất đầu mối quản lý, giảm quyền lực đối với những doanh nghiệp này. - Một số quy định ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù có quy định doanh nghiệp cổ phần hoá tiếp tục được vay vốn tín dụng ngân hàng theo cơ chế và lãi suất như doanh nghiệp nhà nước, nhưng thực tế doanh nghiệp cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực này. Ví dụ: trong một số trường hợp khi doanh nghiệp cổ phần hoá muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh thì phải có ý kiến xác nhận của cơ quan chủ quản nhưng doanh nghiệp đã cổ phần hoá nên không có cơ quan chủ quản và như vậy doanh nghiệp không thể vay được vốn ngân hàng. - Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần của doanh nghiệp còn nhiều điểm bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị doanh nghiệp mới tính đến giá trị tài sản và lợi thế kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trên thực tế, bên cạnh doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh, còn có doanh nghiệp có lợi thế nhưng quy định hiện hành không khấu trừ bất lợi vào trong giá trị doanh nghiệp. Hiện tại, việc xác định giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với xác định giá bán. Do đó, giá bán mang tính áp đặt, mới chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp tham gia định giá. - Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá và các doanh nghiệp khác trong diện cổ phần hoá. - Quy định việc phân bổ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm nay không thấp hơn năm trước đã gây khó khăn đối với doanh nghiệp cổ phần hoá bộ phận hoặc tổng công ty cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên. - Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. 3.3. Nguyên nhân Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc thực hiện cổ phần hoá vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần giải quyết để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó là: - Một là, cơ chế chính sách về cổ phần hóa chưa đủ sức hấp dẫn, chậm được ban hành đồng bộ, lại thiếu cụ thể, quy định triển khai quá phức tạp. Nhiều nội dung còn chưa phù hợp với thực trạng quản lý của doanh nghiệp cũng như trình độ nhận thức về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của người lao động; chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp. - Hai là, các bộ ngành trung ương, các địa phương và bản thân các doanh nghiệp nhà nước chưa nhận thức đầy đủ mục đích và ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm huy động vốn toàn xã hội vào việc phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho người lao động được góp vốn và thực sự làm chủ, góp phần làm thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy một số bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp còn do dự, chần chừ chưa kiên quyết triển khai thực hiện, trong khi đó các cơ quan chức năng lại trông chờ vào sự tự nguyện của giám đốc và người lao động. - Ba là, việc phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chưa mạnh mẽ và thường xuyên, phần đông người lao động còn quen nếp dựa vào cơ chế bao cấp, không muốn xáo trộn công ăn việc làm, bản thân lại chưa hiểu rõ mục đích yêu cầu và tác dụng của cổ phần hoá, do đó chưa tạo thành phong trào quần chúng thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. - Bốn là, chưa tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy khi chuyển đổi hình thức sở hữu, doanh nghiệp còn so sánh thiệt hơn. - Năm là, chưa giải quyết vấn đề sở hữu, xác định người chủ đích thực của doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế Chính phủ chỉ phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện một số quyền của chủ sở hữu Nhà nước. Trên thực tế, giám đốc doanh nghiệp nhà nước có rất nhiều quyền của chủ sở hữu, tuy không bỏ ra một đồng vốn nào, vì vậy đây là một sức cản lớn trong việc triển khai chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp. Nhìn chung, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những thành công. Các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên, tăng thêm được việc làm và thu nhập cho người lao động, các khoản nộp ngân sách. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Những tồn tại này làm giảm hào hứng chuyển sang công ty cổ phần. Vì vậy trong thời gian tới cần phải có những giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực sự là một bước đi đúng đắn mà Đảng và Nhà nước đã chọn. III. Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Tiến độ cổ phần hoá trong những năm qua tuy có những bước phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng được. Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín, đã đưa ra những mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới: “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa…” “Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm”. Cổ phần hoá đề ra những mục tiêu cụ thể: - Thu hồi lại vốn của nhà nước để phân bổ nguồn lực này hợp lý hơn, hiệu quả cao hơn. - Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. - Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, nhờ đó người lao động có thu nhập cao hơn, có cơ hội làm giàu theo phương châm “dân giàu, nước mạnh”. Với những mục tiêu đặt ra như vậy cần những định hướng thực hiện để đạt được mục tiêu. Những định hướng cho tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong đó chủ yếu là cổ phần hoá trong giai đoạn trước mắt bao gồm: - Thị trường hoá giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất. - Sử dụng rộng rãi việc phát hành cổ phần ra công chúng, nhất là phải niêm yết trên thị trường chứng khoán; khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. - Chuyển các doanh nghiệp nhà nước 100% vốn của Nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Xoá bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý và khắc phục tình trạng bao cấp như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước thông qua các công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. - Khẩn trương xoá bỏ đặc quyền và độc quyền không cần thiết của doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước và chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con trên cơ sở đó hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh do tổng công ty nhà nước làm nòng cốt. 2. Kế hoạch cổ phần hoá Việc đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức cổ phần hoá được xác định theo lộ trình rất cụ thể. Bên cạnh việc cho xây dựng và thông qua các đề án cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo ngành và theo các tỉnh, Chính phủ cũng đã xác định lộ trình cổ phần hoá dưới đây: Hình thức 2003 2004 2005 Tổng Cổ phần hoá 907 765 394 2066 Các tỉnh 582 454 214 1250 Các Bộ 259 222 128 609 Các tổng công ty 66 89 52 207 Như vậy, theo lộ trình cổ phần hoá năm 2005 sẽ tiếp tục cổ phần hoá 394 doanh nghiệp nhà nước, trong đó, cổ phần hoá ở các tỉnh là 214 doanh nghiệp, các Bộ là 128 doanh nghiệp, ở các tổng công ty là 52 doanh nghiệp đưa số doanh nghiệp nhà nước trên cả nước được cổ phần hoá lên tới 2066 doanh nghiệp. 3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua tuy có những bước phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng được. Để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá được nhanh hơn, mang lại lợi ích cho xã hội và người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước thì trong thời gian tới cần có một số giải pháp như sau: 3.1. Cần phải có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất. Hiện tại vẫn còn sự can thiệp sâu, trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là thói quen được hình thành từ thời bao cấp. Việc can thiệp này lại thường gắn với lợi ích kinh tế nên chính nó là lực cản cho quá trình cổ phần hoá. Để các doanh nghiệp tự chủ trong việc kinh doanh, để tận dụng thời cơ, thời điểm kinh doanh thích hợp nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho cả công ty, cơ quan cấp trên, tức cơ quan quản lý Nhà nước, chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, chỉ can thiệp khi có những trục trặc cần thiết. 3.2. Về việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá Doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá phải thuộc diện Nhà nước cho phép chuyển đổi thành công ty cổ phần. Trong vấn đề này, Chính phủ là người có đủ thẩm quyền quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá, quyết định các cơ chế chính sách có liên quan đến việc cổ phần hoá, quy định phạm vi doanh nghiệp được phép cổ phần hoá và quy định mức độ tham gia cổ phần hoá trong các lĩnh vực quan trọng, xác định mục tiêu dài hạn và giao chỉ tiêu số doanh nghiệp phải cổ phần hoá hằng năm cho các Bộ, ngành, các địa phương và các tổng công ty. Những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá phải có những điều kiện bắt buộc nhất định để tạo ra các công ty cổ phần có chất lượng, các điều kiện đó là: - Được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền đưa vào chương trình cổ phần hoá. - Về mặt pháp lý, doanh nghiệp đó thuộc sở hữu của Nhà nước. - Về kinh doanh, doanh nghiệp đó phải đang trên đà phát triển, không có khó khăn về khả năng thanh toán, công nợ, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có năng lực, uy tín… bởi chỉ có các doanh nghiệp có khả năng tài chính lành mạnh mới làm người mua có thể tin tưởng được. Đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, không có khả năng thanh toán thì áp dụng các chính sách cho phá sản theo luật phá sản, cho sáp nhập hoặc giải thể. 3.3.Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp Không nên duy trì các “đặc ân riêng” cho bộ phận hoạt động kinh doanh nào (trừ doanh nghiệp hoạt động vì lợi ích công cộng) như ưu đãi về sử dụng đất, về thuế xuất khẩu, về quyền vay, trả lãi cho các tổ chức tín dụng, quyền miễn giảm các khoản thuế phải nộp, các khoản tài trợ, bù lỗ…, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần giải quyết vấn đề công nợ, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi chuyển sang công ty cổ phần. Công khai thông tin tài chính là thông báo cho các nhà đầu tư những thông tin quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư quan tâm xem xét, đánh giá giá trị công ty và đưa ra các quyết định đầu tư. Việc công khai thông tin tài chính đảm bảo tính công bằng trong mua bán từ đó bảo vệ nhà đầu tư và hình thành lên giá cổ phiếu. Về mặt tài chính, công khai thông tin bao gồm thông tin về cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản, hiệu quả kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu nhập, dự đoán xu hướng vận động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng trong tương lai. 3.4. Xây dựng các chính sách đối với người lao động Thay đổi các tiêu chí về xếp lương, thưởng đối với người lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng như chính sách phân bổ quỹ lương, quỹ phúc lợi. Không nên sử dụng các tiêu chí trung gian như hiện nay mà nên sử dụng tiêu chí đánh giá trực tiếp, đó là kết quả cuối cùng về hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, về mức độ phức tạp và hiệu quả quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp. Cần nâng tổng giá trị ưu đãi cho người lao động ở những doanh nghiệp có vốn nhà nước nhỏ, số lượng lao động lớn để đảm bảo giá trị ưu đãi cho người lao động theo quy định. Có các chính sách tạo việc làm hoặc trợ cấp mất việc làm một cách đặc biệt khi doanh nghiệp cổ phần hoá. Nguồn này có thể lấy từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để ổn định đời sống, tư tưởng người lao động và ổn định tình hình xã hội. Nghiên cứu để người lao động bị dôi ra hoặc tự nguyện thôi việc khi doanh nghiệp cổ phần hóa được hưởng chế độ như trợ cấp mất việc làm, mỗi năm công tác được hưởng một tháng lương hoặc chính sách trợ cấp mất việc, khuyến khích thành lập các trung tâm đào tạo tuyển dụng lại lao động dôi dư. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho hoạt động này. 3.5. Về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục Các cơ quan chức năng, các ngành, đoàn thể phối hợp triển khai mạnh mẽ việc tuyên truyền phổ biến mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá. Việc tuyên truyền, giáo dục có thể qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các cuộc hội thảo, khảo sát tại doanh nghiệp nhà nước để chính sách cổ phần hoá đến người lao động để mọi người biết và đồng tình tham gia một cách tích cực. Đặc biệt phải giúp những người lao động hiểu rõ mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp là giúp họ có cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp thông qua việc mua cổ phần. Nêu rõ những lợi ích của người lao động khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần để cán bộ công nhân viên không e ngại và lo lắng, tích cực ủng hộ và đồng tình với việc cổ phần hoá doanh nghiệp. 3.6. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách cổ phần hoá - Về quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Quy chế thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, trước hết phục vụ cho việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước tới mọi người dân trong cộng đồng, nhất là đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá; hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá nhưng hiện còn bị thua lỗ để tiến lên làm ăn có lãi; tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề hoặc đào tạo nghề mới cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá; trợ cấp một phần hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi để người lao động có điều kiện tìm nơi làm việc mới. Đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung nguồn hình thành quỹ. - Về quy trình cổ phần hoá, cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết quy trình chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Cần quy định thời gian thực hiện cho từng bước và quy định các cơ quan chức năng trong khoảng thời gian làm các thủ tục về cổ phần hoá (thành lập Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, quyết định giá trị thực tế của doanh nghiệp, quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần…) để doanh nghiệp tránh mất quá nhiều thời gian chờ đợi các thủ tục làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Mặt khác, cũng để làm rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng và của các đơn vị thực hiện trong khung thời gian nói trên. - Về nguyên tắc định giá doanh nghiệp phải theo nguyên tắc thị trường, cần phải tuân thủ đúng nguyên tắc thị trường và cần tổ chức đấu thầu công khai. - Về vấn đề sở hữu, cần sớm ban hành quy định của Chính phủ về thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối với doanh nghiệp, có sự phân cấp quyền của chủ sở hữu Nhà nước cho các Bộ, ngành trung ương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Hội đồng quản trị các tổng công ty, công ty có hội đồng quản trị, khắc phục tình trạng quy định không thống nhất và sự quản lý chồng chéo đối với doanh nghiệp nhà nước. 3.7. Tạo môi trường thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Các cơ quan chức năng, các ngành, đoàn thể cần triển khai mạnh mẽ việc tuyên truyền, phổ biến mọi chủ trương và chính sách cụ thể về cổ phần hoá đến tận người dân, trên các phương tiện thông tin đại chúng, để tạo thành phong trào quần chúng hưởng ứng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. - Phát triển nhanh hơn nữa thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua, bán cổ phiếu doanh nghiệp. - Thành lập một số trung tâm dịch vụ tư vấn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để trợ giúp cho việc triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 3.8. Về tổ chức thực hiện Đề nghị Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương tăng cường tổ chức tập huấn, hướng dẫn cụ thể các doanh nghiệp nhà nước các bước, các thủ tục một cách kỹ càng để các doanh nghiệp cần chuyển thành công ty cổ phần đỡ lúng tong khi thực hiện cổ phần hoá. Thực tiễn đã chứng tỏ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là chính sách đúng đắn, hữu hiệu, làm đổi mới căn bản hệ thống doanh nghiệp nhà nước, làm bật dậy những tiềm năng to lớn trong các ngành kinh tế quan trọng, nhất là trong công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ… Có được kết quả trên khâu mấu chốt có ý nghĩa quyết định thực hiện thành công chính sách cổ phần hoá là quyết sách vĩ mô, đạt được sự nhất trí từ trên xuống dưới và trong đội ngũ quản lý doanh nghiệp, người lao động và quảng đại quần chúng về mục tiêu và giải pháp lớn. Trên đây là một số giải pháp cơ bản để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian tới. ở đây các giải pháp chính sách trong và sau cổ phần hoá đối với người lao động, xử lý phần lao động dôi dư do tổ chức lại sản xuất sau cổ phần hoá là khâu khó nhất. Làm tốt vấn đề này sẽ tạo ra sự ổn định, đồng tình của toàn xã hội và đẩy nhanh được tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. C. Kết luận Cổ phần hoá là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhưng lại là vấn đề hết sức mới mẻ, không ít những khó khăn, vướng mắc trên bước đường đi tới. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đi kèm với sự thành lập nhiều công ty cổ phần mới sẽ đóng vai trò quan trọng xác lập nền kinh tế thị trường vững chắc ở Việt Nam trong tương lai. Sự nhanh hay chậm hay thành bại của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tuỳ thuộc vào quyết tâm và khả năng thực tế của chính phủ. Để khắc phục tình trạng chậm trễ trong tiến trình cổ phần hoá cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sở hữu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho khu vực kinh tế Nhà nước thực sự nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế chính trị, NXB Chính trị quốc gia, 2003 2. Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị – Quốc gia 3. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị – Quốc gia 4. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản toàn tập, Tập 4 năm 1995 5. Tư bản, Quyển 3, Tập 3 6. Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, NXB Thống kê 1998 Và một số tạp chí có liên quan: 1. Tạp chí kinh tế và dự báo 2. Tạp chí kinh tế phát triển 3. Tạp chí công nghiệp 4. Tạp chí tài chính 5. Tạp chí nghiên cứu lý luận 6. Tạp chí chứng khoán 7. Tạp chí quản lý nhà nước Mục lục A. Lời mở đầu 1 B. Nội dung 2 I. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần chủ nghĩa tư bản 2 1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan 2 2. Lịch sử hình thành công ty cổ phần 5 2.1. Giai đoạn I: Giai đoạn mầm mống 5 2.2. Giai đoạn II: Giai đoạn hình thành 6 2.3. Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển 7 2.4. Giai đoạn IV: Giai đoạn trưởng thành 7 3. Sự cần thiết phải hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam 8 3.1. Sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam 8 3.2. Do yêu cầu củng cố nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước........ 11 II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam………………………………………………………………….. 12 1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 12 1.1. Giai đoạn 1: Giai đoạn thí điểm 12 1.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn mở rộng thêm từ năm 1996 đến nay 13 2. Những thành tựu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước……… 14 2.1. Những thành tựu mang tính định lượng…………………………… 14 2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa………………………………………….. 15 3. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần giải quyết của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 17 3.1. Những bất cập còn tồn tại 17 3.2. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần tháo gỡ 18 3.3. Nguyên nhân 20 III. Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 22 1. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 22 2. Kế hoạch cổ phần hoá 23 3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 24 3.1. Cần phải có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất 24 3.2. Về việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá 24 3.3. Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp 25 3.4. Xây dựng các chính sách đối với người lao động 25 3.5. Về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục 26 3.6. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách cổ phần hoá 26 3.7. Tạo môi trường thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 27 3.8. Tổ chức thực hiện 28 C. Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0644.doc
Tài liệu liên quan