Tiểu luận Cổ phiếu trong Doanh nghiệp

MỤC LỤC Trang I. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 5 II. Tác động của thị trường chứng khoán 5 III. Cổ phiếu là gì? Tác dụng của việc phát hành cổ phiếu 7 IV. Đặc điểm và phân loại cổ phiếu 8 V. Chức năng của cổ phiếu 12 VI. Mục đích mua cổ phiếu của nhà đầu tư, quyền lợi của cổ đông 13 và phân loại cổ đông. VII. Nơi mua bán cổ phiếu và quy trình giao dịch cổ phiếu. Các 14 thành phần tham gia VIII. Định giá cổ phiếu 17 IX. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 25 X. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiểu 26 XI. Cổ phiếu mang lại lợi ích gì cho chúng ta 30 XII. Ưu và nhược điểm của các công ty chứng khoán trong việc phát 33 hành cổ phiếu hiện nay XIII. Khó khăn, thách thức và thực trạng hiện nay 34 XIV. Kiến nghị 36 Tài liệu tham khảo 37 I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Trên thế giới - Thị trường chứng khoán xuất phát từ các cuộc thương lượng của các thương gia ở các nước phương Tây về: nông lâm sản, khoán sản, ngoại hối, các giấy tờ có giá, - 1453, phiên “chợ” đầu tiên tổ chức với quy mô lớn đã diễn ra tại lữ quán của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ). - 1547, giao dịch chứng khoán được chuyển tới thị trấn Anvers (Bỉ). - Từ thế kỷ 16-19, TTCK hình thành và phát triển ở Anh, Pháp, Ý, Đức, Mỹ và một số nước Bắc Âu.niêm yết trên HNX. HCM. - 1875-1913, TTCK phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền kinh tế. - 1929, TTCK lâm vào khủng hoảng. - Sau chiến tranh TG lần 2, TTCK bắt đầu phục hồi, nhưng 1987 TTCK lâm vào khủng hoảng nặng nề hơn lần trước, nhưng sau đó 2 năm thị trường chứng khoán lại phục hồi và đi vào ổn định. - Hiện nay, TTCK phát triển mạnh mẽ ở các nước phát triển và trên thế giới hiện có trên 160 TTCK lớn nhỏ đang hoạt động. 2. Ở Việt Nam - Thời gian đầu Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp.HCM chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch một tuần, biên độ giao động giá là 2%. - Ngày 01/03/2002, TTGDCK tăng phiên giao dịch từ 3 phiên lên 5 phiên/tuần - 08/03/2005 Khai trương trung tâm GDCK Hà Nội. - Sau đó, Chính phủ ký quyết định 599/QĐ-TTG ngày 11/05/2007 chuyển đổi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM thành Sở giao dịch chứng khoán TP - 08/08/2007, Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức khai trương. - Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTG ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1876 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phiếu trong Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những yếu tố như tình hình thị trường và triển vọng của công ty (điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời hạn hoạt động cuả công ty, hệ số chiết khấu trong công thức tính DCF); Những yếu tố liên quan đến tài sản vô hình của công ty như trình độ quản lý của ban giám đốc, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm được thể hiện theo các tiêu chuẩn ISO... 4. Một số trường hợp khác a. Tính giá cổ phiếu tại thời điểm chốt - Theo nguyên tắc của Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM, giá tham chiếu của những ngày chốt trả cổ tức hoặc phát hành cổ phiếu mới một mã chứng khoán sẽ được điều chỉnh sao cho thị giá đóng cửa ngày hôm trước sẽ bằng thị giá tham chiếu của ngày hôm sau. Công thức cụ thể là: Q1*P1 = Q2*P2 Trong đó : Q1: Khối lượng cổ phiếu vào ngày trước ngày chốt. P1: Giá đóng cửa cổ phiếu vào ngày trước ngày chốt. Q2: Khối lượng cổ phiếu đã được điều chỉnh tăng, tương ứng với số cổ phiếu phát hành thêm hoặc lượng trả cổ tức. P2: Giá tham chiếu điều chỉnh của cổ phiếu vào ngày chốt. - Khi đó giá tham chiếu của mã chứng khoán vào ngày giao dịch không hưởng quyền sẽ được tính theo công thức: P2 = Q1*P1/Q2 Ví dụ: Áp dụng cho cổ phiếu STB, trả cổ tức vào ngày 22/7 theo tỷ lệ 15%. Có nghĩa là cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu cũ sẽ được tặng thêm 15 cổ phiếu mới. Như vậy, giá tham chiếu của STB trong ngày giao dịch không hưởng quyền là: Q1: Khối lượng cổ phiếu STB vào cuối phiên 22/7. P1: Giá đóng cửa STB phiên 22/7, bằng 28.000 đồng một cổ phiếu. Q2: Khối lượng cổ phiếu STB vào 23/7 (đã chia cổ tức bằng Cổ phiếu). P2: Giá tham chiếu điều chỉnh của STB vào 23/07. Ta có: Q2= Q1*(1+15/100)= Q1*1,15. Khi đó giá tham chiếu của STB ngày 23/7 sẽ được tính theo công thức: P2 = Q1*P1/Q2 = Q1*P1/(Q1*1,15) = P1/1,15 = 28/1,15 = 24,35 Vậy mức giá tham chiếu đúng của ngày 23/7 sẽ là 24,35. Khi đó cộng trừ 3% của giá tham chiếu điều chỉnh, ta sẽ có được mức giá trần, sàn của ngày 23/7 là 25 và 23,7. Như vậy việc chia cổ phiếu thưởng hay phát hành cổ phiếu thực tế chỉ làm tăng lượng cổ phiếu mà nhà đầu tư sở hữu chứ không làm thay đổi giá trị của số cổ phiếu đó. Nói nôm na, nếu nhà đầu tư đầu tư 2 đồng và mua được 1 cổ phiếu thì sau khi chia, họ sẽ có 2 cổ phiếu nhưng giá mỗi cổ phiếu chỉ còn là 1 đồng. b. Cách tính lại giá cổ phiếu khi công ty phát hành thêm Giá tham chiếu của cổ phiểu sẽ được điều chỉnh khi xảy ra một trong các sự kiện sau: - Công ty phát hành thêm quyền mua cổ phiếu - Công ty chi trả cổ tức bằng tiền mặt - Công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu - Công ty chia cổ phiếu thưởng - Công ty chia thưởng bằng tiền mặt   * Công thức tổng quát để tính giá tham chiếu trong những ngày đặc biệt:   PR t-1 + (I1 x Pr1 ) + (I2 x Pr2 ) + (I3 x Pr3 ) –TTHcp- Divcp- TTHt -Divt  Ptc  = ----------------------------------------------------------------------------------------   {1+ I1 + I2 + I3} Trong đó : Ptc: : Giá tham chiếu của ngày không hưởng quyền PR t-1: : là giá chứng khoán phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền I1 : Tỷ lệ vốn tăng theo phát hành quyền mua cổ phiếu I2 : Tỷ lệ vốn tăng do chia thưởng bằng cổ phiếu I3: Tỷ lệ vốn tăng do chi trả cổ tức bằng cổ phiếu TTHcp: Giá trị thưởng bằng cổ phiếu Divcp : Giá trị cổ tức bằng cổ phiếu TTHt: Giá trị tiền thưởng bằng tiền Divt  : Giá trị cổ tức bằng tiền Pr1 : Giá cổ phiếu bán cho người có quyền mua cổ phiếu Pr2  : Giá cổ phiếu tính cho người được thưởng bằng cổ phiếu Pr3: Giá cổ phiếu tính cho người được nhận cổ tức bằng cổ phiếu Trong thực tế, chúng ta có thể dùng công thức tổng quát này để tính toán cho tất cả các trường hợp. Đối với những nhân tố không xảy ra ta để giá trị bằng 0. * Giá tham chiếu của cổ phiếu trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn Trong trường hợp này giá tham chiếu của cổ phiếu ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu mới (Ptc) được tính theo công thức:    PR t-1 + (I x PR )   Ptc  = ------------------------   1+ I Trong đó : Ptc :  là giá tham chiếu cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền mua cổ phiếu trong đợt phát hành mới để tăng vốn, đây là giá cần xác định PR t-1:  là giá chứng khoán phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền. I :  là tỷ lệ vốn tăng PR :  là giá cổ phiếu sẽ bán cho người nắm giữ quyền mua cổ phiếu trong đợt phát hành mới.  Ví dụ: Giả sử ta muốn tính giá tham chiếu của cổ phiếu Hapaco (HAP) vào ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu mới trong đợt phát hành thêm cổ phiếu lần đầu để huy động vốn đầu tư xây dựng Nhà máy giấy Craft. Thông tin chúng ta có được như sau: Tổng vốn huy động mới là 20 tỷ đồng (tổng vốn Hapaco trước lúc phát hành quyền mua cổ phiếu là 10 tỷ đồng). Tức là mỗi cổ phiếu cũ được mua thêm 2 cổ phiếu mới. Giá tham chiếu của cổ phiếu này vào phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền là 50.000 đồng cho mỗi cổ phiếu (PRt-1). Tỷ lệ vốn tăng là gấp 2 lần vốn hiện có (I=2). Giá cổ phiếu sẽ bán cho cổ đông là 32.000đồng/cổ phiếu (PR). Ptc = 50.000+2 x 32.000 = 38.000 (đồng) 1 + 2 Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng chỉ số giá nói chung là xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh sự biến động của giá theo thời gian. Chỉ số giá cổ phiếu cũng vậy nó là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi của giá cổ phiếu theo thời gian. Ý tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng chỉ số giá là phải cố định phần lượng, loại bỏ mọi yếu tố ảnh hưởng về giá trị để khảo sát sự thay đổi của riêng giá. Có như vậy chỉ số giá mới phản ánh đúng sự biến động về giá. Mọi công thức, phương pháp không thực hiện được ý tưởng này đều sai với lý luận và chắc chắn chỉ số giá không phản ánh đúng sự biến động của giá. Để thực hiện được mục tiêu và ý tưởng trên, có 3 vấn đề cần giải quyết trong quá trình xây dựng chỉ số giá cổ phiếu, đó là: - Chọn phương pháp - Chọn rổ đại diện - Tìm biện pháp trừ khử các yếu tố về giá trị để đảm bảo chỉ số giá chỉ phản ánh sự biến động của riêng giá. Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng khoán chia cho số chứng khoán tham gia tính toán: Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm yết khá đồng đều, hay độ lệch chuẩn (s) của nó thấp. 5. Chọn rổ đại diện - Một nhiệm vụ thứ hai quan trọng trong việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán là việc chọn rổ đại diện. Ở Sở giao dịch chứng khoán New York có trên 3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồm 65 cổ phiếu. Trong đó, chỉ số Dow Jones công nghiệp (DJIA) chỉ bao gồm 30 cổ phiếu, Dow Jones vận tải (DJTA) bao gồm 20 cổ phiếu và Dow Jones dịch vụ (DJUA) bao gồm chỉ 15 cổ phiếu. - Tuy chỉ bao gồm một số lượng cổ phiếu niêm yết rất nhỏ như vậy trong tổng thể nhưng các chỉ số Dow Jones vẫn trường tồn qua năm tháng, vì nó phản ánh được xu thế, động thái của quá trình vận động của giá cả. Rổ đại diện này là tiêu biểu, đại diện được cho tổng thể vì họ thường xuyên thay những cổ phiếu không còn tiêu biểu nữa bằng cổ phiếu tiêu biểu hơn. Ví dụ tháng 11/1999, họ đã thay 4 cổ phiếu trong rổ đại diện, công ty IBM cũng có lúc phải loại khỏi rổ đại diện khi thị trường PC nói chung phát triển và lấn át. - Ba tiêu thức quan trọng để xác định sự tiêu biểu của cổ phiếu để chọn vào rổ đại diện là số lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị niêm yết và tỷ lệ giao dịch, mua bán chứng khoán đó trên thị trường (khối lượng và giá trị giao dịch). - Đối với Việt Nam, hay bất kỳ thị trường nào khi mới ra đời, số lượng các cổ phiếu niêm yết chưa nhiều, thì rổ đại diện nên bao gồm tất cả các cổ phiếu. Tuy nhiên cũng nên chú ý đến khối lượng và giá trị giao dịch. Nếu một cổ phiếu nào đó trong một thời gian dài không có giao dịch hoặc giao dịch không đáng kể thì nên tạm loại khỏi phạm vi tính toán. - Có như vậy chỉ số chúng ta tính ra mới phản ánh được động thái vận động thực sự của giá cả thị trường. 6. Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu - Trong quá trình tính toán một số nhân tố làm thay đổi về khối lượng và giá trị của các cổ phiếu trong rổ đại diện sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của chỉ số. Ví dụ như phạm vi, nội dung tính toán của ngày báo cáo không đồng nhất với ngày trước đó và làm cho việc so sánh bị khập khiễng, chỉ số giá tính ra không phản ánh đúng sự biến động của riêng giá. Các yếu tố đó là: Thêm, bớt cổ phiếu khỏi rổ đại diện, thay cổ phiếu trong rổ đại diện; nhập, tách cổ phiếu; thưởng cổ phần, thưởng tiền, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới; bán chứng quyền; cổ phiếu trong rổ đại diện bị giảm giá trong những ngày giao dịch không có cổ tức... - Để trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu, làm cho chỉ số giá cổ phiếu thực sự phản ánh đúng sự biến động của riêng giá cổ phiếu mà thôi người ta dùng kỹ thuật điều chỉnh hệ số chia. Đây là một đặc thù riêng của việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán. - Để hiểu bản chất của kỹ thuật này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ đơn giản sau: Chỉ số tính theo phương pháp bình quân giản đơn (phương pháp Dow Jones). Giá 3 cổ phiếu hình thành như sau: Cổ phiếu Giá ngày giao dịch 1 Giá ngày giao dịch 2 Giá ngày giao dịch 3 A B C 17 13 15 19 13 16 19 13 8 Tổng giá 45 48 30 DJA ngày 1 là 45/3 = 15 (ngàn đồng, hay điểm) DJA ngày 2 là 48/3 = 16 (ngàn đồng, hay điểm), tăng 1 điểm hay 6.7% Ngày thứ 3 cổ phiếu C tách làm hai và giá coi như không có gì thay đổi (cổ phiếu C giảm còn 8 không coi là giảm giá, mà chỉ vì cổ phiếu tách đôi). Về nguyên tắc, nếu giá không có gì thay đổi, thì chỉ số vẫn giữ nguyên. Ta không thể lấy tổng mới chia cho 3: 30/3=10 để kết luận chỉ số giá đã giảm 5 ngàn (điểm) được. Vì thực chất giá không hề thay đổi. Bởi vậy chỉ số giá mới tính ra phải bằng 15 như ngày 2. Đây là cốt lõi của kỹ thuật tính toán lại hệ số chia. Kỹ thuật hết sức đơn giản: áp dụng quy tắc tam suất mà chúng ta đã học từ lớp 4. Cụ thể là: 48 =======> Hệ số chia là 3 (Do) 30 =======> Hệ số chia là D1 Từ đây suy ra D1 = (30 x 3)/48 = 1.875 và DJA ngày thứ 3 là 30/1.875 = 16 không có gì thay đổi. Chỉ số này phản ánh đúng động thái của giá (không đổi). Trong thực tế giá thường có thay đổi nên chỉ số sẽ có dao động. Nhưng khi tính lại hệ số chia, người ta luôn giả định giá không đổi. Tức là hệ số chia của ngày giao dịch được xác định trước khi xảy ra giao dịch. Chỉ số VN INDEX thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP.HCM. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày. Chỉ số VN INDEX so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28/07/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Công thức tính chỉ số VN INDEX: Chỉ số VN INDEX = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x 100 = (Pit x Qit)/(Pi0 x Qi0) x100 Trong đó: Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i I= 1,n Định giá CP áp dụng phương pháp P/E là phương pháp thông dụng và phổ biến nhất, phù hợp với tất cả nhà đầu tư (NĐT), đặc biệt rất hiệu quả đối với các NĐT cá nhân vì phương pháp này có ưu điểm dễ tính và dễ hiểu. NĐT cần xác định liệu một CP của Cty có giá trị gấp bao nhiêu lần thu nhập hiện tại của nó, giá CP trên thị trường là đắt hay rẻ có phản ánh đúng giá trị nội tại của CP. * Các nhân tố ảnh hưởng tới P/E - EPS (thu nhập trên mỗi CP): Tỉ lệ tăng trưởng EPS càng cao thì hệ số P/E có xu hướng cao theo. - Hệ số đòn bẩy tài chính: Nguồn vốn của Cty được hình thành từ vốn nợ và vốn chủ sở hữu, nên khi một Cty có hệ số đòn bẩy tài chính cao thì P/E của Cty đó sẽ thấp hơn so với một Cty khác tương đương trong ngành. - P/E toàn thị trường: P/E toàn thị trường có ảnh hưởng rất lớn tới P/E riêng lẻ của từng loại CP. Điều này chúng ta có thể thấy rất rõ tại TTCK VN khi TTCK điều chỉnh tăng hay giảm thì đa số các Cty đơn lẻ cùng tăng hoặc cùng giảm dẫn đến P/E của các Cty này tăng giảm theo. - P/E của các CP cùng ngành: Phần lớn CP của các Cty trong cùng một ngành thường có xu hướng biến động cùng chiều. Cách so sánh nhanh nhất để biết CP một Cty trong ngành là cao hay thấp là so sánh P/E của Cty với P/E trung bình ngành. - Lĩnh vực kinh doanh đa dạng: Một Cty có nhiều mảng hoạt động kinh doanh thì đồng nghĩa với việc phân tán rủi ro, ổn định thu nhập và sự đa dạng này sẽ giúp làm giảm sự biến động mạnh về thu nhập mỗi CP của Cty đó. Những Cty đa dạng hoá họat động kinh doanh thường được NĐT đánh giá cao. - Lãi suất thị trường: Giá cả các loại CK chịu tác động nhiều từ yếu tố lãi suất. Nếu lãi suất thị trường cao sẽ dẫn đến giá CK và hệ số P/E thấp hơn vì giá trị hiện tại của các khoản thu nhập tương lai của Cty sẽ thấp hơn do phải chiết khấu ở mức lãi suất cao. Lựa chọn P/E trong định giá CP Khi sử dụng phương pháp định giá bằng P/E ta có thể lựa chọn một trong các cách sau: * Xác định hệ số P/E theo công thức: Với: Re- tỉ lệ chiết khấu; g- tốc độ tăng trưởng thu nhập; b- tỉ lệ chia cổ tức. D1: Cổ tức tại năm dự đoán. Sau đó nhân hệ số P/E này với thu nhập dự kiến của Cty để đạt được mức giá dự kiến hợp lý. * Xác định hệ số P/E bình quân của nhóm Cty tương đương trong ngành về kỹ thuật, mạng lưới khách hàng, quy mô, cơ cấu vốn và nhân hệ số này với thu nhập dự kiến của Cty để có mức giá hợp lý. * Xác định hệ số P/E trung bình các Cty tương đương cùng ngành các nước trong khu vực và nhân hệ số này với thu nhập dự kiến để có mức giá hợp lý. Xem xét CP có ý định đầu tư đắt hay rẻ không chỉ đơn thuần dựa vào hệ số P/E mà cần phải kết hợp nhiều yếu tố và phương pháp khác để có kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể sử dụng hệ số P/E như một phương pháp tham khảo để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.  IX. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK Theo chúng ta biết thị truờng chứng khoán biến động không đồng đều và rất phức tạp. Để cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất công bằng cho các bên giao dịch. Nên để khắc phục điều đó thì thị trường chứng khoán thống nhất hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai. - Nguyên tắc trung gian: Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị truờng chứng khoán đều đuợc thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư... Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh. -Nguyên tắc đấu giá: Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động. Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu giá. Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch với khối luợng cao nhất. -Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán. àCác nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nuớc trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất nuớc đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm dân cư). Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt. X. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU Sự tác động của các nhân tố  tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Rất khó để có thể xác định nhân tố nào sẽ ảnh hưởng tới giá cổ phiếu trong một trường hợp nhất định. Giá của cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố vĩ mô và vi mô. Sau đây là tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Giá cổ phiếu được quyết định bởi thị trường nơi mà cung - cầu gặp nhau, cung nhiều cầu ít thì giá sẽ thấp và ngược lại. Tuy nhiên cũng chẳng thể tìm được một công thức đầy đủ diễn tả chính xác sự di chuyển giá cả của các cổ phiếu, nhưng ít nhất chúng ta cũng biết được một số nguyên nhân khiến giá cổ phiếu lên hoặc xuống. Các nguyên nhân ấy được xếp thành 3 nhóm chính: yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế và xúc cảm của thị trường. Các yếu tố kinh tế a/ Về tăng trưởng kinh tế. Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển. Ví dụ: các bạn có thể thấy rõ nét nhất khi nền kinh tế thế giới khủng hoảng năm 2008, đến nay đang dần hồi phục. Giá cổ phiếu trên hầu hết các thị trường chứng khoán thế giới giảm mạnh xuống đáy và hiện nay đang tăng trưởng trở lại. Thị trường chứng khoán là thị trường của “hi vọng” nên diễn biến của thị trường chứng khoán thường là “la bàn” cho cả nền kinh tế .Các chuyên gia kinh tế cho rằng TTCK thường diễn biến tăng giảm trước nền kinh tế khoảng chừng vài tháng. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty. b/ Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh. Ví dụ: giá cổ phiếu của các công ty thường thay đổi rất nhiều ở thời điểm trước và sau báo cáo kết quả kinh doanh hàng quý hàng năm của mỗi công ty. c/ Thu nhập công ty: những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu. chúng ta nên quan tâm đến thu nhập của công ty trong một thời gian dài khoảng 2 đến 5 năm trong quá khứ. d/ Cổ tức: những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu. e/ Lãi suất: mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau: Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức. Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn. Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn. Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất. f/ Giá cả hàng hoá: Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II. g/ Lạm phát: Chúng ta đã nhắc đến lạm phát như một trong các yếu tố đầu vào của hệ số nhân giá trị. Thế nhưng ngoài ra lạm phát còn có một sức điều khiển to lớn toàn bộ bối cảnh kỹ thuật. Thực tế đã chứng minh, lạm phát thấp có tương quan nghịch khá rõ ràng đối với việc giá trị cổ phiếu (lạm phát thấp, hệ số nhân giá trị cao và ngược lại). h/ Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm. i/ Các yếu tố kinh tế khác .Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản. Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ. Nhóm yếu tố phi kinh tế Những yếu tố phi kinh tế bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v… Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động. Nhóm yếu tố thị trường Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v… cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm. Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau: a/ Yếu tố tâm lý “bầy đàn”: thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Hiện tượng này biểu hiện qua giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng/giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo. b/ Các yếu tố về nhân khẩu học: Một vài nghiên cứu quan trọng được thực hiện để nghiên cứu yếu tố cơ bản về nhà đầu tư (các nghiên cứu nhân khẩu học) đã cho thấy: Trong khi các nhà đầu tư từ trẻ đến trung niên là những nhà đầu tư rất háo hức kiếm tiền, họ có khuynh hướng thích đầu tư vào cổ phiếu bởi vì đây được xem là mảnh đất màu mỡ, thì các nhà đầu tư lớn tuổi hơn lại có khuynh hướng muốn rút ra khỏi thị trường cổ phiếu, tìm kiếm những cơ hội đầu tư an tòan hơn nhằm phục vụ cho kế hoạch hưu trí. Lý thuyết trên cũng cho biết khi tỷ lệ những nhà đầu tư từ trẻ đến trung niên chiếm tỷ lệ lớn hơn trong dân chúng đầu tư thì mức cầu cổ phiếu cũng gia tăng và hệ số nhân giá trị cũng cao hơn. c/ Khả năng thanh khoản: Thanh khoản là một yếu tố rất quan trọng và đôi khi được xem là yếu tố quan trọng nhất. Thanh khoản cho thấy mức độ quan tâm và chú ý của nhà đầu tư đối với một cổ phiếu nào đó. Cổ phiếu của Wal- Mart là cổ phiếu có tính thanh khoản rất cao, các công ty nhỏ hơn, có mức vốn hóa thấp thì có tính thanh khỏan thấp hơn. Mức độ giao dịch cũng là một thước đo thanh khoản. Thanh khoản cũng là mục tiêu mà hoạt động truyền thông doanh nghiệp hướng tới (đó chính là mức độ thu hút nhà đầu tư). d/ Xúc cảm của thị trường: Xúc cảm của thị trường là muốn nói đến tâm lý của những người tham gia thị trường. Đây là yếu tố khó đo lường nhất. Xúc cảm thị trường thường có là tính chủ quan, sự a dua hùa theo hay còn gọi là tâm lý đám đông và sự cố chấp. Ví dụ: bạn có thể thực hiện một nhận định quan trọng về viễn cảnh tăng trưởng tương lai của cổ phiếu và tương lai thậm chí cũng ủng hộ bạn nhưng vào lúc đó, thị trường có thể đã nghĩ về những tin tức đang giữ giá cổ phiếu cao hoặc thấp và đôi khi bạn phải đợi một thời gian dài để các nhà đầu tư khác cũng chú ý đến những giá trị cơ bản như bạn. Xúc cảm thị trường được phát hiện ra thông qua một lĩnh vực mới trong tài chính có tên gọi: tài chính hành vi. Nó bắt đầu với giả định rằng các thị trường không phải lúc nào cũng hiệu quả và sự không hiệu quả này có thể được giải thích bằng tâm lý học và các khoa học xã hội khác. Rất nhiều ý kiến trong tài chính hành vi cho thấy rằng nhiều nhà đầu tư phản ứng mạnh hơn đối với nỗi đau khi bị thua lỗ hơn là niềm hạnh phúc khi kiếm được tiền lời và do đó nhà đầu tư có khuynh hướng cứ cố chấp mãi trong sai lầm. Sai lầm tiếp nối sai lầm! XI. CỔ PHIẾU ĐEM LẠI LỢI ÍCH GÌ CHO CHÚNG TA? Ø Lợi ích của việc đầu tư qua cổ phiếu - Được chia lời dưới hình thức cổ tức Mua vàng bạc, đá quý và bất động sản chỉ có lợi khi giá tăng, không có cổ tức và mệnh giá tăng như mua cổ phiếu. Cổ phiếu được hưởng lợi tuỳ theo kết quả kinh doanh của công ty phát hành, không có sự bảo đảm chắc chắn như trái phiếu. Nhưng cổ phiếu có thể được chia lời nhiều hơn cả trái phiếu khi công ty làm ăn phát đạt, và mệnh giá cổ phần gia tăng bởi tích luỹ nội bộ của công ty. - Giá cổ phiếu trên thị trường tăng cao hơn mệnh giá. Thực tế cho thấy, những nước đang trong giai đoạn phát triển thường cổ phiếu tăng giá rất nhanh, nên nó trở thành một công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Ttong thời gian từ 1969-1980, cổ phiếu công ty Schlumberger tăng từ 3,50 USD lên 131 USD, chưa kể sau 5 lần tách cổ phiếu từ 100 thành 160, và cổ tức tăng từ 0,09 USD lên 0,97 USD…Trong thập niên 70, giá cổ phiếu tăng chậm hơn so với giá vàng, kim cương, bất động sản…Nhưng chính giá cổ phiếu tăng chậm hơn giá các thứ hàng hoá đó, cổ phiếu lại hấp dẫn đối với người mua vì nhiều người tin rằng giá cổ phiếu sẽ tăng lên sau đó. - Với một lượng cổ phiếu trong tay, các cổ đông được quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty. Thậm chí khi đạt tới một mức độ sở hữu quy định, cổ đông đó được quyền quản trị, kiểm soát công ty. - Cổ phiếu có thị trường rộng lớn, nên việc mua bán dễ dàng và nhanh chóng. Bán nhà, bán đất, bán xe hơi khó khăn hơn nhiều so với bán cổ phiếu. Cổ phiếu có thể giúp nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, không cần thiết phải có sự hiểu biết về kỹ thuật công nghệ của lĩnh vực đó. Một khi không bằng lòng ở lĩnh vực này sẽ bán cổ phiếu đó đi để mua cổ phiếu của lĩnh vực khác. - Một ưu điểm đáng chú ý nữa là ngành chứng khoán hiện nay đang rất được chính phủ của các nước khuyến khích nên có nhiều ưu đãi về thuế thu nhập. Luật thuế thu nhập thường đánh rất thấp hoặc có thời kỳ được miễn hẳn cho số lợi nhuận thu được từ đầu tư chứng khoán. - Mua cổ phiếu có lợi như vậy, nhưng đó là trường hợp mua đúng. Nếu mua không đúng loại cổ phiếu cần mua, mua phải những cổ phiếu công ty đang trong thời kỳ khủng hoảng hoặc phá sản…thì không những không có lợi mà còn bị mất luôn cả vốn đầu tư. Vì vậy, việc mua bán cổ phiếu phải có sự lựa chọn. Ø Lựa chọn mua cổ phiếu Trong việc lựa chọn ta phải tìm hiểu quá trình hoạt động của công ty cũng như ngành nghề kinh tế liên quan đến loại cổ phiếu đó. Đồng thời cũng cần theo dõi và tìm hiểu trào lưu giá cả lên xuống trên thị trường, để quyết định lúc nào nên mua, lúc nào nên bán. Để cho vấn đề trở nên dễ hiểu, có thể chọn một số cách thức phân tích theo nguyên tắc cơ bản sau: Chọn công ty tốt. Công ty tốt thường là công ty ít nợ trong thời gian đã qua (thời gian càng dài càng tốt), và có lợi nhuận cao, hiện tại có lãi và triển vọng tương lai sáng sủa. Chọn thời điểm mua cổ phiếu: Giá cổ phiếu thường không đứng yên, mà lúc lên lúc xuống. Vậy nếu ta chịu khó theo dõi trào lưu, mua vào khi giá ở mức thấp nhất và bắt đầu đi lên, và bán ra lúc thị trường ở mức cao nhất và bắt đầu đi xuống thì sẽ có lời cao. Đây cũng là nguyên tắc thông thường trong kinh doanh. Giá một loại cổ phiếu luôn luôn chịu ảnh hưởng của những trào lưu lên xuống giá của TTCK. Trong thời kỳ lên giá, thị trường thường kéo theo 70-80% loại cổ phiếu cũng lên. Khi xuống giá cũng tương tự. Bởi vì cũng giống như thị trường hàng hoá, khi có nhiều người cùng mua một món hàng nào đó thì giá hàng đó sẽ lên, kéo theo các hàng hóa khác cũng lên. Giá một loại chứng khoán sẽ lên khi có nhiều người cùng mua, và giá sẽ tụt xuống khi có nhiều người cùng bán. Mua cổ phiếu được chia lợi nhuận. Thông thường cứ 6 tháng một lần, công ty lại tiến hành trả cổ tức. Đây là khoản thu nhập định kỳ của Cổ phiếu. Mức chi trả cổ tức căn cứ vào tình hình hoạt động và lợi nhuận của công ty trong kỳ cũng như các chính sách phát triển của công ty ØLợi ích của việc mua cổ phiếu - Nhà đầu tư nào nếu nắm vững được Quyền mua cổ phiếu sẽ có những thuận lợi lớn trong toàn bộ quá trình đầu tư. Họ có thể chủ động hơn trong các hoạt động của mình trên thị trường chứng khoán. Quyền mua cổ phiếu cho phép người nắm giữ có quyền (nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua một số lượng cổ phiếu xác định trước với một giá đã xác định trước và thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu đó trên thị trường. - Quyền mua được dành cho các cổ đông của tổ chức phát hành muốn phát hành bổ sung cổ phiếu. Thông thường, cứ ứng với một cổ phiếu đang nắm giữ, cổ đông sẽ có được một quyền mua tương ứng. Quyền mua có giá trị tách biệt và có thể được giao dịch trên thị trường thứ cấp trong khoảng thời gian trước khi quyền mua được thực hiện. Chỉ những người đang nắm quyền mua mới mua được cổ phiếu phát hành bổ xung với giá thấp hơn giá thị trường, những người không giữ quyền mua thì hoặc không thể mua được cổ phiếu đó hoặc phải mua cổ phiếu đó với giá hiện hành trên thị trường. Quyền mua mà công ty đưa ra cho các cổ đông là đặc quyền ngắn hạn (thông thường từ 30 - 45 ngày) và chỉ được dành cho mỗi cổ phiếu thường mà cổ đông sở hữu. - Quyền mua cổ phiếu được giao dịch trên thị trường trong thời hạn hiệu lực của cổ phiếu đó và những cổ đông không có ý định thực hiện quyền mua có thể tách quyền mua để bán riêng. Số quyền mua cần có để mua 1 cổ phiếu mới sẽ được căn cứ vào số lượng cổ phiếu hiện hành và số lượng cổ phiếu mới được chào bán. Ví dụ, Công ty A có 5 triệu cổ phiếu đang lưu hành và muốn phát hành thêm 1 triệu cổ phiếu nữa, khi đó mỗi một cổ phiếu hiện hữu sẽ được trao 1 quyền, như vậy sẽ có 5 triệu quyền mua được phát hành. Những quyền này chỉ mang đến cho cổ đông 1 triệu cổ phiếu mới, vì vậy 5 triệu quyền chia cho 1 triệu cổ phiếu mới, nghĩa là cứ có 5 quyền mua sẽ được mua 1 cổ phiếu mới. Ø Thực hiện quyền mua như thế nào? Khi nhận được thông báo phân phối quyền mua và chứng nhận quyền mua từ tổ chức phát hành, cổ đông nhận quyền mua có thể thực hiện theo một trong ba cách sau: 1. Thực hiện quyền mua: điền vào mẫu đăng ký mua CP mới và gửi kèm chứng nhận quyền mua cùng với tiền mua CP đến đại lý bảo lãnh phát hành CP mới (trường hợp tổ chức phát hành có đại lý bảo lãnh phát hành CP) hoặc đến CTCK, nơi nhà đầu tư có tài khoản giao dịch (trường hợp chứng khoán niêm yết). 2. Bán quyền mua: vì chứng chỉ quyền mua là chứng khoán giao dịch được, nên cổ đông có thể bán quyền mua trên thị trường thứ cấp và thu lãi từ giá thị trường (mặc dù bằng cách bán quyền, cổ đông đã từ bỏ lợi nhuận tiềm năng có thể có từ việc thực hiện quyền và sở hữu CP). 3. Không thực hiện quyền mua: cổ đông có thể không thực hiện quyền mua cho tới khi quyền mua hết hiệu lực và họ cũng bị mất nhiều quyền lợi do bị giảm tỷ lệ sở hữu trong công ty. Ø Thủ tục thực hiện quyền mua. 1. Trường hợp phân bổ quyền mua cho cổ đông hiện hữu: Khi quyết định phát hành bổ sung cổ phiếu mới, Ban giám đốc phải thông báo cho Uỷ ban chứng khoán và kèm theo lịch trình phát hành và bản tóm tắt nội dung quyết định của Ban giám đốc, hồ sơ đăng ký phát hành bổ sung... Sau khi được UBCK chấp thuận, Ban giám đốc sẽ thông báo việc phát hành cổ phiếu bổ sung và thời hạn đăng ký mua cho các cổ đông. 2. Trường hợp phân bổ quyền mua cho bên thứ ba: Cũng giống như trường hợp trên nhưng đơn giản hơn nhiều. Cụ thể là không cần đệ trình hồ sơ đăng ký phát hành bổ sung và báo cáo sau phát hành cho UBCK, không cần chốt sổ cổ đông. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hữu, cổ phiếu bổ sung thường được phát hành với giá cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu đó. Đại lý bảo lãnh phát hành cổ phiếu mới bổ xung cũng có thể đồng thời làm luôn công việc trợ giúp thực hiện quyền mua, tức là giúp tổ chức phát hành lưu giữ danh sách người sở hữu quyền mua và khi quyền mua được bán thì đại lý bảo lãnh giúp ghi lại tên chủ sở hữu mới của quyền mua. Phí dịch vụ của bên bảo lãnh phát hành sẽ do 2 bên thỏa thuận với nhau, thường thì bên bảo lãnh sẽ nhận được khoảng 3% trên tổng giá trị số cổ phiếu phát hành bổ sung . Ngoài ra, nếu lượng cổ phiếu không bán hết thì bên bảo lãnh phát hành sẽ phải mua lại tất cả số cổ phiếu đó nhưng với một mức giá thỏa thuận trước, thường là khoảng 97% của giá cổ phiếu chào bán. ØGiá trị của quyền mua . Từ lúc quyền mua cổ phiếu được công bố cho đến khi được phát hành thì cổ phiếu đó chỉ có giá trị trên lý thuyết. Giá trị này là số thu được của nhà đầu tư khi thực hiện quyền mua cổ phiếu bổ sung với giá thấp hơn giá thị trường. Ví dụ sau giúp xác định được giá trị quyền mua như thế nào: Công ty A chào bán quyền mua cho cổ đông, giá thị trường cổ phiếu A là 40 USD. Theo quy định quyền mua, cứ ứng với mỗi 5 quyền mua (ứng với 5 cổ phiếu hiện có) sẽ được mua 1 cổ phiếu mới với giá 25 USD. Khi đó, để có 5 quyền mua, nhà đầu tư phải mua 5 cổ phiếu với giá 5 x 40 USD = 200 USD. Với 5 quyền mua vừa có được, nhà đầu tư sẽ mua được 1 cổ phiếu mới với giá 25 USD. như vậy, nhà đầu tư có tất cả 6 cổ phiếu (6 cổ phiếu này đều không còn quyền mua kèm theo) với tổng số tiền bỏ ra là 225 USD. như vậy, giá mới của mỗi cổ phiếu là 225 USD/6 = 37,5 USD. Khi đó, giá 1 quyền mua là (40 USD - 37,5 USD) = 2,5 USD. ØNgày giao dịch cổ phiếu không có quyền mua kèm theo. Trong ngày giao dịch không có quyền mua, giá cổ phiếu sẽ rớt xuống một mức giá trị chính bằng giá trị của quyền mua. Tại nhiều nước, nếu tổ chức phát hành có phát hành bổ sung cổ phiếu mới thì giá cổ phiếu trên thị trường sẽ được điều chỉnh ngay theo mức giá mới của cổ phiếu (cổ đông hiện hữu vẫn không bị thiệt vì phần giá trị cổ phiếu cũ mất đi cũng chính bằng giá trị của quyền mua mà họ đã nhận được trước đó). Trường hợp có một số cổ phiếu không còn quyền (do cổ đông nắm giữ cổ phiếu đó đã tách quyền mua ra để bán riêng trên thị trường) thì số cổ phiếu này cũng vẫn được giao dịch bình thường trên thị trường, nhưng sau đó khi thực hiện thủ tục thanh toán bù trừ thì bộ phận thanh toán bù trừ chứng khoán sẽ trừ lại của người bán cổ phiếu đó một khoản tiền đúng bằng giá trị của quyền mua mà họ đã tách ra để bán riêng trên thị trường chứng khoán. XII. Ưu và nhược điểm hiện nay của các công ty chứng khoán trong việc phát hành cổ phiếu Ưu điểm: - Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Khả năng sinh lời của các loại CK gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. - Công cụ đảm bảo thanh khỏan cho sổ tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn: Vai trị của TTCK bảo đảm cho việc nhanh chĩng chuyển tiền mặt của các chứng khoán có giá. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK, với một TTCK hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khỏan càng cao. - Công cụ đo lường giá trị các tích sản của doanh nghiệp: Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên TTCK qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai từ 3 đến 5 năm đã phần nào lượng giá được tích sản của doanh nghiệp khách quan và khoa học. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của TTCK, sự lên xuống gía cả chứng kháon trên thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào - Thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả: với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên TTCK là công khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chứng kiểm tra đánh giá. TTCK vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp không những phải hoạt động sản xuất kinh doanh đúng pháp luật mà còn phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả - Vai trị chống lạm phát của TTCK: TTCK còn làm giảm áp lực lạm phát, Ngân hàng TW với vai trị điều hịa hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc bán trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền lưu hành, nhờ đó số tiền sẽ giảm bớt và áp lực lạm phát cũng giảm đi. - Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: có thể nói, hai loại định chế tài chính này đi đơi với nhau như hình với bĩng. Thật vậy, TTCK là điều kiện không thể thiếu trong việc đưa cổ phiếu ra công chứng giúp cho quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả. Nhược điểm - Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua chứng khoán với hy vọng là giá chứng khoán sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó thu đ ược lợi nhuận. Yếu tố đầu c ơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. - Hoạt động giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán. Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt những thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các thông tin đó cho giao d ịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn tin nội gián sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình. Điều này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Như vậy sẽ tác động tiêu cực tới tích luỹ và đầu tư. - Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song khi có tin đồn không chính xác hoặc thông tin lệch lạc về hoạt động của một doanh nghiệp, điều n ày gây tác động đến tâm lý của những người đầu tư, dẫn tới thay đổi xu hướng đầu tư, ảnh hưởng đến thị giá chứng khoán của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại cho đại đa số người đầu tư. Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thực hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán thực sự phát huy hay bị hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia trên thị trường XIII. KHÓ KHĂN THÁCH THỨC CỦA THỰC TRẠNG HIỆN NAY Ở VN a/ Bất ổn từ các báo cáo tài chính “Hàng loạt doanh nghiệp niêm yết đang giải trình về chênh lệch số liệu trong Báo cáo tài chính năm 2009 sau khi có kiểm toán làm các nhà đầu tư hoang mang vì không biết tin vào đâu”èHiện tượng phổ biến này hiện nay xuất phát từ việc “trích lập dự phòng” mới ban hành theo thông tư số 13/2006 tuy nhiên việc quy định chưa rõ ràng khiến các doanh nghiệp hiểu và vận dụng thông tư theo cách riêng tùy theo mục đích của từng đối tượng. b/ Nhiều chiêu làm giá chứng khoán Nhiều đối tượng muốn bán cổ phiếu với giá cao đã đặt nhiều lệnh mua cổ phiếu với khối lượng lớn với giá trần hoặc sát trần trong nhiều phiên liên tiếpè điều này tạo nên cầu ảo khiến giá tăng trần liên tục mục đích là thu hút các nhà đầu tư khác tham gia mua theo, khi giá đạt đến ngưỡng kỳ vọng các đối tượng này sẽ thu lợi. Đây chỉ là thủ thuật làm giá “kinh điển” trên thị trường, muốn gom cổ phiếu thì làm giá xuống, muốn bán cổ phiếu thì làm giá lên. Đặc biệt các cổ phiếu sắp có thông tin tốt sẽ có nhiều cơ hội làm bơm đẩy thành công hơn. Để thực hiện việc này, nhóm nhà đầu tư sẽ áp dụng chiến thuật “rải đinh” hay che giá trên bảng điện tử. Vì bảng giá chỉ thể hiện ba mức giá từ giá trần xuống nhưng mỗi lệnh chỉ mua số lượng không lớn, khi đó, toàn bộ các lệnh mua khác bị che khuất đi và nhà đấu tư không thể biết số lượng mua đó là bao nhiêu, nghĩa là không biết cầu thưc sự của cổ phiếu đó như thế nào. Việc “che giá” sẽ được thực hiện theo kiểu nhà đầu tư bán ra tới tấp ở mức giá thấp ngay từ khi thị trường mở cửa nhằm tạo tâm lý bất an cho những nhà đầu tư khác để họ bán ra với giá thấp hơn. Trong khi đó cũng chính nhà đầu tư này sẽ âm thầm đặt lệnh mua gom lại ở giá thấp.Thủ thuật này nếu được thực hiện vào những phút cuối cùng của khớp lệnh định kỳ trên sàn sẽ mang lai hiệu quả cao cho đối tượng. c/Lệnh ma Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay đều lơi lỏng trong việc để nhân viên môi giới nhận lệnh khách hàng qua điện thoại di động mà không có băng ghi âm nhất là “ưu ái” đối với khách hàng VIP mua trả chậm. Đây là một hình thức cho sử dụng đòn bẩy tài chính theo kiểu T+ và các khách hàng VIP nhanh chóng thu được một khoảng lợi nhuận khổnh lồ mà không cần có tiền trong tài khoản. Khi sử dụng dịch vụ mua hàng trả chậm này, thông thường khách hàng VIP phải gọi điện thoại thẳng cho nhân viên môi giới của mình để được phép đặt lệnh giao dịch( vì các hình thức khác như giao dịch qua internet, gọi số điện thoại bàn chung của công ty chứng khoán để đặt lệnh.v.v…. thì tài khoản khách hàng phải có đủ số tiền để mua theo khối lượng cổ phiếu yêu cầu)èĐây chính là rủi ro đến cho cả hai phía công ty chứng khoán và nhà đầu tư trong trường hợp nếu giá cổ phiếu giảm mạnh và nhà đầu tư không đủ tiền trả hoặc nhân viên môi giới đưa ra khối lương giao dịch, giá mua/bán cổ phiếu không đúng ý nhà đầu tư….Ngoài ra hiện nay cũng có không ít nhà đầu tư giao tài khoản của mình cho nhân viên môi giới tự quyết định mua bán. â Chính những ưu nhược điểm trên đã làm cho thị trường chứng khoán luôn gặp vấn đề rắc rối, thông tin không chính xác gây ảnh hường đến nhiều đối tượng trong đó có công ty chứng khoán XIV. Kiến nghị Thị trường chứng khoán sẽ ngày càng phát triển, sẽ có tác dụng tốt cho nền kinh tế nhưng rất cần sự can thiệp, hướng dẫn, quản lý nhà nước thông qua Luật Chứng khoán, thông qua việc kiểm tra kiểm soát các cơ quan tài chính trung gian, yêu cầu thông tin trung thực, kịp thời, đầy đủ từ các công ty sản xuất phát hành cổ phiếu. Việc tăng cường quản lý sẽ tránh được các đổ vỡ dây chuyền và làm cho thị trường vận hành đúng hướng có tác dụng tích cực. Người tham gia thị trường chứng khoán, mua hoặc bán cổ phiếu cần am hiểu, tìm hiểu cặn kẽ luật pháp; có tiền đưa vào đầu tư là rất tốt nhưng mua đi, bán lại cổ phiếu chỉ thuần túy kiếm lời là rất mạo hiểm. Chớ nên đem tiền thật đi mua ảo vọng. Là người lao động sản xuất cần mua cổ phần để tăng vốn cho đơn vị mình, là người kinh doanh cổ phiếu phải tuân thủ luật pháp không được lừa dối, không được cung cấp thông tin giả. Bạn là người có tiền không nên cất giữ mà nên mua công trái, trái phiếu, gửi tiết kiệm, liên doanh góp vốn vào sản xuất. Nếu dư dật qua thị trường chứng khoán cũng không nên say sưa quá mức. Cái gì cũng có điểm dừng, dừng đúng lúc là khôn ngoan là hiểu biết. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính, các cơ quan ngôn luận rất nên thông tin đầy đủ, huấn luyện, đào tạo để nhiều tầng lớp nhân dân thông suốt về thị trường mới mẻ này tránh những xáo trộn bất ổn trước khi muộn. Cần thiết bổ sung nhanh những chế tài để quản lý thị trường này chẳng hạn xử lý nghiêm minh những sai phạm, thu thuế thu nhập những người có thu nhập cao từ hoạt động chứng khoán v.v... Yếu tố “tâm lý của nhà đầu tư” có ảnh hưởng rất lớn tới giá cổ phiếu do vậy từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường.. Sở giao dịch được tổ chức tốt sẽ thật sự là trung tâm thu hút vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế,đồng thời là nơi đảm bảo các hoạt động mua bán chứng khoáng diễn ra an toàn-công bằng và đúng pháp luật,từ đó củng cố niềm tin đối với người đầu tư. Vì vậy sở giao dịch cần được tổ chức tốt và hiện đại. â Tóm lại, các yếu tố kinh tế, phi kinh tế, thị trường luôn ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu luôn được các nhà đầu tư và các công ty quan tâm. Vì vậy, mỗi cá nhân con người phải có nét văn hóa trong cách hành xử, có sự suy luận, phân tích vấn đề một cách logic và chính xác, không bị ảnh hưởng bởi trào lưu,biết nắm bắt cơ hội kịp thời cũng như biết thích ứng với tình hình kinh tế… song song đó phải có một luật pháp chặt chẽ và hoàn chỉnh giúp bảo vệ lợi ích của từng nhà đầu tư, của các công ty phát hành cổ phiếu, giúp cho nền kinh tế phát triễn, mang lại lợi ích cho xã hội một cách công bằng và thiết thật. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo thanh niên. Đề cương bài giảng môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ - Giảng viên: ThS. Phan Anh Tuấn. www. Google.com www. Saga.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_co_phieu_doanh_nghiep_7538.doc
Tài liệu liên quan