Tiểu luận Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế

Công ty cổ phần ra đời ở các nước tư bản phát triển từ thế kỷ XVII, còn ở Việt Nam nó mới có gần 20 năm phát triển. Tuy nhiên, công ty cổ phần đã thể hiện được rằng đây là hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp cho nền kinh tế tị trường bao gồm nhiều thành phần cùng hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp đúng đắn của Đảng và Chính phủ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này. Và từ đó doanh nghiệp nhà nước có thể vươn lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, giúp Nhà nước điều tiết nền kinh tế phát triển bền vững, hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân, báo hiệu một phương thức sản xuất mới đã gần kề. Công ty cổ phần là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, không phải là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Song trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản thì sự xã hội hóa dưới hình thức công ty cổ phần và quyền sở hữu dưới hình thái cổ phiếu chỉ có thể dẫn đến việc tập trung tư liệu sản xuất xã hội vào tay những tư bản lớn và cực lớn mà thôi. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến. Công ty cổ phần tất yếu sẽ phát triển bởi nó cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo doanh nghiệp. Nước ta cần nhanh chóng đưa ra những biện pháp để nâng cao vai trò của các công ty cổ phần và đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện được điều này thì nước ta sẽ rút ngắn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.

doc21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần muốn thu hút vốn thì lợi nhuận do kinh doanh phải lớn hơn khoản lợi tức ngân hàng hay lợi tức khi đầu tư vào lĩnh vực khác. Không những thế lợi nhuận này phải lớn hơn ở mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn sàng đầu tư vào công ty cổ phần. 1.4.cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần. Do công ty cổ phần có đặc điểm quan trọng là nó thuộc sở hữu của nhiều chủ cho nên các cổ đông của công ty không thể trực tiếp thực hiện vai trò làm chủ của mình. Trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối hoạt động của công ty. Các cổ đông thực hiện quyền chủ sở hữu của mình thông qua các tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý và điều hành công ty: đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và ban kiểm soát. Trong đó đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. 1.4.1.Đại hội cổ đông. Trong công ty cổ phần, đại hội cổ đông là đại hội của những người đồng sở hữu đối với công ty và là cơ quan có quyết định tối cao trong việc quản lý và điều hành công ty cổ phần. Có 3 hình thức đại hội cổ đông: Một là, đại hội cổ đông thành lập, được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập công ty, thảo luận và thông qua điều lệ của công ty. Đại hội cổ đông thành lập phải bao gồm những cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty và biểu quyết đa số quá bán. Hai là đại hội cổ đông bất thường. Đại hội cổ đông có thể được triệu tập bất thường theo yêu cầu của chủ tịch hội đồng quản trị hoặc trên 1/2 số thành viên của hội đồng quản trị; hoặc theo yêu cầu của trưởng ban kiểm soát hay đề nghị của số cổ đông đại diện cho trên 50% số vốn điều lệ của công ty. Đại hội cổ đông bất thường được triệu tập khi có nguy cơ đe dọa sự hoạt động bình thường của công ty chẳng hạn như khi công ty gặp khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lược kinh doanh, hay chấn chỉnh, kiện toàn Hội đồng quản trị và ban kiểm soát hoạt động kém hiệu quả... Nhiệm vụ và quyền hạn của đại hội cổ đông bất thường cũng tương tự như đại hội cổ đông thường kỳ nhưng nội dung của nó có thể hướng theo một vài mục tiêu đòi hỏi giải quyết cấp bách nhất. Ba là đại hội cổ đồng cổ đông. Đại hội đồng được triệu tập thường vào cuối năm tài chính hoặc bất kỳ lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc ban kiểm soát thấy cần thiết. Nhiệm vụ chủ yếu của đại hội đồng cổ đông chủ yếu là: quyết định phương hướng hoạt động của các bộ phận trong công ty, nhiệm vụ và kế hoạch kinh doanh của công ty, thảo luận và thông qua bảng tổng kết năm tài chính; bầu bãi miễn thành viên trong hội đồng quản trị và ban kiểm soát; quyết định thành lập, bổ sung, trích các quỹ của công ty; phân chia lợi nhuận; xác định thiệt hại đối với công ty ... 1.4.2.Hội đồng quản trị Đây là bộ máy quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tổ chức và quản lý giỏi. Các thành viên của Hội đồng quản trị phải có năng lực tốt để đảm bảo cho những công việc do đại hội cổ đông giao phó được hoàn thành ở mức tốt nhất. Số lượng thành viên của Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào Điều lệ của công ty. Thông thường, với những công ty nhỏ, Hội đồng quản trị có từ 3 – 7 người, từ 9 – 13 người với những công ty trung bình và từ 15 – 17 người đối với những công ty lớn. Một Chủ tịch được Hội đồng quản trị bầu ra và có thể thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu không trái với Điều lệ. Vì là người đứng đầu nên Chủ tịch hội đồng quản trị phải là người có kiến thức kinh tế và trình độ kinh doanh, hiểu rõ pháp luật và thông thạo các hoạt động thương mại. Hội đồng quản trị là cơ quan có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. 1.4.3.Giám đốc điều hành. Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Giám đốc điều hành được lựa chọn thông qua nhiều hình thức thi tuyển khác nhau để công ty lựa chọn được người thực sự có năng lực để điều hành công ty. Thưc chất, Giám đốcđiều hành công ty, là người điều khiển và quản lý tư bản của người khác, là người làm thuê cho Chủ tịch hội đồng quản trị theo hợp đồng được ký kết giữa hai bên. Giá cả lao động của Giám đốc điều hành được quy định trên thị trường lao động như bất cứ lao động nào khác. Giám đốc trực tiếp điều hành các hoạt động của công ty và phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền được giao. 1.5.vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế. Công ty cổ phần được hình thành và phát triển do sự đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó chế độ tín dụng và ngân hàng là đòn bẩy cho quá trình xã hội hóa sở hữu, tiền đề của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là hình thức kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vai trò lớn nhất của công ty cổ phần là nó đã góp phần đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sở hữu cả về tốc độ lẫn qui mô vì bản thân công ty cổ phần đã là sản phẩm của sự xã hội hóa sở hữu, được thể hiên qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Sự lớn lên tự nhiên của tư bản bằng con đường tích tụ và tập trung tư bản đã gặp phải những giới hạn. Chính nhờ sự ra đời của công ty cổ phần mà tư bản được tập trung nhanh chóng và làm xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ mà không một tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. C.Mác đã đánh giá rằng nếu như phải chờ cho đến khi tích lũy tư bản làm cho một số tư bản lớn lên đến mức có thể làm được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến nay thế giới vẫn chưa có đường sắt; ngược lại, với các công ty cổ phần, việc tập trung đã được thực hiện trong “nháy mắt”. Công ty cổ phần còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế, phân tán rủi ro cho những người đầu tư trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, nó cho phép mở rộng qui mô sản xuất nhanh, tạo điều kiện cho xã hội hóa sản xuất, và do đó nó làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và Nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt. Việc hình thành và phát triển của các công ty cổ phần đã mang hình thái tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân; còn các xí nghiệp của nó biểu hiện là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. C.Mác cho rằng đây là “sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”[3,305] và là “điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ” [3,305]. Chương 2: thực trạng về công ty cổ phần ở việt nam và vai trò của nó đối với nền kinh tế ở nước ta 2.1.tính tất yêu khách quan của việc hình thành công ty cổ phần ở nước ta Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới đối với nước ta khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được đặt ra từ năm 1991 và cho đến nay đã có rất nhiều công ty cổ phần được thành lập ở mọi thành phần kinh tế. Điều đó cho thấy sự hình thành các công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu, nó không phụ thuôc vào ý chí chủ quan của bất cứ một tổ chức nào. Thật vậy, công ty cổ phần ra đời là do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hóa phát triển. Nó sẽ hình thành và phát triển ở nước ta nếu hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết. 2.1.1.Nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần. Hiện nay khu vực doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 70% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong trong nền kinh tế, thu hút phần lớn lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... song chỉ tạo ra trên 40% tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Cho đến cuối năm 1997, nước ta có khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ có 50% doanh nghiệp có lãi, trong đó thực sự kinh doanh có lãi và lâu dài chỉ chiếm 30%. Thực tế doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 – 85% tổng số thu, nhưng nêu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước không tạo ra được tích luỹ. Những điêu trên cho phép khẳng định rằng khu vực kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Dẫn đến tình trạng trên, cơ cấu kinh tế và phương thức quản lý lạc hậu là một nguyên nhân cơ bản. Tình trạng sở hữu chung chung, vô chủ, duy trì cơ chế quản lý hành chính bao cấp là những cản trở lớn của quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, cải cách hệ thống các doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hóa sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là việc làm cấp bách. Các doanh nghiệp nhà nước cần phải nâng cao hiệu quả kinh tế, nếu không sẽ không thể vươn lên giữ vai trò chủ đạo, không thể hướng các thành phần kinh tế khác đi theo quĩ đạo xã hội chủ nghĩa, dẫn đến mất ổn định xã hội. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp cải cách các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vì vậy, việc hình thành các công ty cổ phần từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu. Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra trên qui mô lớn với nhiều hình thức phong phú ở rất nhiều nước trong cộng đồng thế giới. Chẳng hạn Anh, đầu năm 1988, đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ bảng, ở Pháp chưa đầy năm rưỡi đã thực hiện 1/3 chương trình cổ phần hóa thu 7 tỷ Franc; ở Tây Đức, năm 1984 – 1987 đã bán hoàn toàn hay một phần cổ phiếu khống chế của Nhà nước trong hơn 50 công ty với tổng giá trị hơn 5 tỷ Mác[12,37]. Trong bối cảnh quốc tế đó, sự giao lưu, hòa nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: trao đổi thương mại, đầu tư, hợp tác nghiên cứu, viện trợ, cho vay...và dưới nhiều hình thức khác nhau như: liên doanh liên kết, hợp tác, cho thuê, đại lý, đấu thầu ...Trong đó liên kết kinh tế dưới hình thức góp vốn kinh doanh hình thành công ty cổ phần đóng vai trò quan trọng vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hóa sản xuất cao, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Mặt khác việc cổ phần hóa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước giúp khu vực này thực hiện tốt vai trò điều tiết của mình. Như vậy, việc hình thành và phát triển của công ty cổ phần ở nước ta bằng cách đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và điều kiện thực tế của Việt Nam Nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên công nhiệp hoá - hiện đại hóa đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Tích luỹ vốn nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất và lao động thặng dư của của người lao động thuộc tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Muốn vậy phải ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để hợp lý hóa sản xuất. Ngoài việc nghiên cứu trong nước, chúng ta cần phải nắm bắt được các thành tựu khoa học mới của thế giới. Việc này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về vốn và thời gian. Cổ phần hóa là một giải pháp tốt, vừa là cơ sở để tiếp cận công nghệ mới trong thời gian ngắn vừa thu hút được đầu tư với qui mô lớn từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, để học tập được phương thức quản lý tiên tiến từ những nền kinh tế phát triển trên thế giới thì tổ chức doanh nghiệp theo hình thức công ty cổ phần là phù hợp nhất. Nói tóm lại, công ty cổ phần ra đời là tất yếu và nước ta cần phải nhanh chóng tạo ra những điêu kiện thuận lợi cho nó phát triển. Đây là việc cấp bách vì với công ty cổ phần, chúng ta có điều kiện tập trung vốn, đẩy mạnh khoa học công nghệ và thay đổi phương thức quản lý, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa đất nước. 2.1.2.Nước ta có đủ điều kiện để công ty cổ phần ra đời. Hiện nay, nền sản xuất nước ta đang dần chuyển đổi từ sản xuất bằng kỹ thuật thủ công sang sản xuất bằng kỹ thuật cơ khí, một bộ phận kỹ thuật tự động hóa, hiện đại, từ sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Từ đó, phân công lao động xã hội từng bước được mở rộng, các loại thị trường đang từng bước hình thành và phát triển như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, và đặc biệt là thị trường vốn... Kỹ thuật sản xuất đang từng bước được cải tiến, có những lĩnh vực ta đã tiếp cận được với kỹ thuật tiên tiến nhất như: công nghệ tin học, bưu chính viễn thông. Những điều trên chứng tỏ rằng trình độ xã hội hóa sản xuất nước ta đã phát triển đến một trình độ nhất định. Xã hội hóa sản xuất sẽ dẫn đến quá trình tập trung vốn không chỉ ở cá nhân mà còn ở những tập thể sản xuất kinh doanh, ở nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đây là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của công ty cổ phần. Ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sự đổi mới của hệ thống ngân hàng là những điều kiện ban đầu vô cùng quan trọng để công ty cổ phần ra đời. Các ngân hàng thương mại đang chuyển cơ chế hoạt động từ cho vay với lãi suất âm theo kiểu bao cấp trước kia sang hoạt động kinh doanh với lãi suất dương, thực hiện đầy đủ cơ chế hoạch toán kinh doanh và có lãi. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã ra đời, tăng cường khả năng huy động vốn rộng rãi cả trong lẫn ngoài nước. Các ngân hàng sẽ giúp đỡ các công ty cổ phần thành lập và phát hành cổ phiếu, các ngân hàng này cũng sẽ là các nhà đầu tư cổ phiếu lớn trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, sự cải tổ hoạt động ngân hàng sẽ làm cho việc phát hành, mua bán cổ phiếu trở nên thuận lợi hơn và công ty cổ phần sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong nhữn năm qua, nước ta đã chú trọng xây dựng một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật. Chỉ có những người được đào tạo cơ bản, có trình độ tổ chức, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ được khoa học kỹ thuật và công nghệ mới thì mới có thể tiếp cận và thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nền tảng rất quan trọng, đóng vai trò nguồn lực tiềm năng vô giá cung cấp các cán bộ tổ chức, quản trị và điều hành cho các công ty cổ phần. Nhà nước ta đang dần dần xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp (lụât, các văn bản duới luật) nhằm đảm bảo sự công bằng trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước cũng tạo môi trường chính trị ổn định, môi trường kinh tế lành mạnh, khuyến khích nhân dân đầu tư, mua bán cổ phiếu... tạo điều kiện thuận lợi cho công ty cổ phần ra đời và phát triển. 2.2.vai trò của công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh nhà nước ở nước ta hiên nay. Các công ty cổ phần, trong đó chủ yếu là các công ty được hình thành từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta. Cổ phần hóa đã đáp ứng phần nào những yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi, giải toả những khó khăn trong ngân sách Chính phủ, khuyến khích người lao động đống góp tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ của họ cho hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần ra đời và phát triển đã tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước, đồng thời huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ, việc đảm bảo nền tài chính quốc gia vững mạnh là yêu cầu cực kỳ bức thiết. Ngân sách nhà nước không chỉ cần được phân bổ một cách hợp lý, có lợi cho việc tái cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà tài sản nhà nước cũng cần được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã giúp chính phủ giải quyết phần nào những đòi hỏi trên. Chính phủ không những có thể điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách khống chế số cổ phiếu bán ra hoặc những biện pháp khác mà còn được hưởng cổ tức từ kết quả kinh doanh của công ty. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước nhờ cổ phần hóa thu hồi lại sẽ được phân bố cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, các công ty cổ phần dưới quền điều hành của chủ nhân mới, với động lực mới trong quản lý doanh nghiệp, phương hướng hoạt động thay đổi theo hướng lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu, không ngừng củng cố sức mạnh cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ huy động thêm nhiều nguồn vốn nhà rỗi từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Thực tế đã chứng minh rất rõ điều này. Vốn kinh doanh của công ty cổ phần cơ điện lạnh(Ree) tăng gần 3 lần, từ 16.295 triệu năm 1993 lên 49.921 triệu năm 1996. Năm tài chính 2000, tổng doanh thu của Ree đạt 299 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1999, lợi nhuận của công ty đạt 36,19 tỷ đồng. Ngay trong tháng 1/2001, công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương(Transimex Saigon) đạt doanh thu 4.183.306.187 đồng, lãi trước thuế 407.936.836 đồng[11,7]10. Các công ty cổ phần ở Việt Nam với khả năng tích luỹ vốn và thu hút các nguồn đầu tư khác nhau đã có thể dần dần đổi mới công nghệ - kỹ thuật, đồng thời tổ chức cơ cấu lao động theo hướng hợp lý hóa đã làm cho năng suất lao động của công ty tăng rõ rệt, sức sản xuất xã hội cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ rằng, cùng với sự phát triển của công ty cổ phần, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta đang được cải thiện. Công ty cổ phần phát triển trong nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể cho người dân. Thu nhập của người lao động trong các công ty cổ phần cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần, tăng khoảng 22 – 24%/năm. Hơn nữa, phía các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa cũng giải quết được tình trạng vô chủ của doanh nghiệp. Sự tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý, tổ chức trong công ty cổ phần đã đẩy lùi ý thức của người lao động cho rằng tài sản của doanh nghiệp nhà nước được coi là “tài sản chung”, mọi người đều có thể tuỳ tiện sử dụng mà không phải bận tâm. Các công ty cổ phần trở nên năng động hơn, hoạt động có hiệu quả hơn nhờ phương pháp và kinh nghiệm quản lý mới. Quyền lợi của người điều hành và lao động gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp, vì thế, tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của mình, lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong phú. Công ty cũng luôn phải thực hiện hạch toán kinh doanh một cách nghiêm túc, đồng thời quan sát kỹ những biến động của thị trường. Nói tóm lại, công ty cổ phần ra đời và phát triển đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong phương thức hoạt động của các doanh nghiệp nước ta. Công ty cổ phần đóng vai trò lớn trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho đầu tư phát triển; nó cũng là cầu nối cho chúng ta tiếp thu những kinh nghiệp mới trong việc hợp lý hóa quản lý và tổ chức sản xuất. Vấn đề vốn được giải quyết đã tạo diều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mặt khác nó đã cải thiện được một phần thu nhập cho người lao động. 2.3.thưc trạng về công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 2.3.1.Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước ta trước cổ phần hóa. Sau khi đất nước hòa bình, các doanh nghiệp nhà nước đã được thành lập ở Việt Nam. Do hậu quả của chiến tranh và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm khác nhau nên các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nước. Các doanh nghiệp nhà nước phần lớn có qui mô nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Đến năm 1992, cả nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động dưới 200 người. Số lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ trong khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội, khoảng 5 –6%. Do đã được thành lập từ khá lâu, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu nhưng chậm đổi mới, cho nên phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sử dụng công nghệ lạc hậu so với các nước từ 3 – 4 thế hệ. Có doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ được trang bị từ năm 1939 và trước đó. Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên thiếu đồng bộ nghiêm trọng. Mãi đến sau năm 1986 thì một số doanh nghiệp nhà nước(khoảng 18%) được đầu tư mới. Chính vì sự lạc hậu trong công nghệ mà khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước khó có thể cạnh tranh nổi ngay cả trong nưngười. Sự phân bố các doanh nghiệp nhà nước giữa các ngành, giữa các vùng chưa được hợp lý. Các doanh nghiệp nhà nước hầu như chỉ hoạt động trong các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp khai thác, và nông nghiệp, còn các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ thì quá yếu ớt, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hầu như bị bỏ ngỏ. Mặt khác, các doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn phía Bắc và phía Nam của đất nước. Trong các doanh nghiệp nhà nước trước đây, việc hạch toán kinh tế chỉ mang tính hình thức, các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất cho nhà nước, chứ không phải là một cơ cở sản xuất kinh doanh, không có quyền tự chủ trong kinh doanh, và như vậy nó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mặt khác, trong doanh nghiệp nhà nước, các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định rõ ràng nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước xa lạ đối với sở hữu toàn dân, thể hiện ở những hành động và quan niệm của họ: sở hữu chung thì không phải là của ai. Đây là nguyên nhân tham nhũng của những kẻ có chức có quyền và sự thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ luật của người lao động. Kết quả là năng suất thấp, chất lượng kém, thu nhập phân phối không đúng... Đi liền với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả là phương pháp quản lý lạc hậu và trình độ tổ chức thấp. Giám đốc trong doanh nghiệp nhà nước trước đây vừa giữ chức năng chủ sở hữu, vừa là người điều hành và họ giống quan chức hành chính hơn là một nhà kinh doanh thực thụ. Tình trạng các giám đốc, các nhà tổ chức và quản lý trong công ty nhà nước là những người không có kiến thức hoặc không được đào tạo một cách hệ thống khá phổ biến. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh và đổi mới công nghệ. Ngân sách nhà nước thì hạn hẹp. Các ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm bảo như là tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở trong vòng luẩn quẩn, vốn không có nhưng cũng chẳng có cách nào để huy động. 2.3.2.Quá trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 11/1991) được cụ thể hóa dần trong các Nghị quyết và thông báo tiếp theo của Hội nghị. Đây là một giải đúng đắn để huy động vốn lâu dài cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiều sâu. Quá trình thực hiện cổ phần hóa có thể chia thành 2 giai đoạn chính: ã Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995). Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 8/6/1992 về thực hiện thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau 4 năm thực hiện, nước ta đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần, bao gồm: ã Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải(1993). ã Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh(1993). ã Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp(1994). ã Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An(1994). ã Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(1995). Trong những năm thí điểm cổ phần hóa thì các doanh nghiệp nhà nước đều tập trung về phía Nam, trong đó có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc đĩa bàn tỉnh Long An. ã Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay. Ngày7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP xác định rõ giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu tiên cho người lao động trong doanh nghiệp, giúp Thủ tướng chỉ đạo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Đến tháng 9/1998, nước ta đã có 33 doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Tính từ năm 1992 đến năm 1998 thì cả nước mới có 38 doanh nghiệp đã hoàn thành quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, trong năm 1998 còn hơn 178 doanh nghiệp nhà nước đang chuẩn bị triển khai cổ phần hóa ở các bước khác nhau. Trong hai năm 1996 – 1997, nhờ thực hiện tốt những văn bản pháp qui về triển khai cổ phần hóa do Chính phủ ban hành nên công tác cổ phần hóa đạt được những kết quả khá cao. Số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trong hai năm này tăng gấp nhiều lần 3 năm trước và đã đưa tổng số doanh nghiệp nhà chuyển thành công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty lên 18 doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp này sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều phát triển tốt với chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm cao. Tuy vậy, tiến trình cổ phần hóa diễn ra chậm (chỉ có 18 doanh nghiệp trong 5 năm). Do đó, ngày 29/6/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1998 có tới 12 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành cổ phần hóa. Trong tháng 7/1998 có ít nhất 5 doanh nghiệp xong cổ phần hóa, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật công ty lên bằng tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong 5 năm công lại. Đến 1/9/1998, cả nước có 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Ngoài ra còn có hơn 90 doanh nghiệp khác đang tiến hành cổ phần hóa ở những giai đoạn khác nhau, trong đó có nhiều công ty sắp hoàn thành; một số doanh nghiệp đang đăng ký tiến hành cổ phần hóa. 2.3.3.Một số kết quả ban đầu sau khi thực hiên cổ phần hoá các doánh nghiệp nhà nước. Tính từ năm 1991 đến năm 1998, trong số 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Nói chung, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả và lợi nhuận cao hơn trước: vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước) tăng bình quân 19,06%/năm, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm; tỷ suât lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và tích luỹ) là 44%[6,126]. Quyền lợi của người lao động trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn liền với quyền lợi của công ty. Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm; ngoài ra, người lao động trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế từ 22 – 24%/năm [6,131]. Phương pháp quản lý, điều hành công ty thay đã được đổi, do đó trách nhiêm của Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn nhiều, hoạt động của công ty trở nên có tính hiệu quả cụ thể, rõ ràng hơn. Công ty cổ phần đã tạo điều kiện vho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, khai thác và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội vào hoạt động kinh doanh, bổ sung cho nguồn thu của Nhà nước. Tính từ năm 1992 đến năm 1997 có 18 doanh nghiệp được cổ phần hóa đem lại cho Nhà nước 37.724 triệu đồng, bao gồm: tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng, phần lợi tức của Nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng, lãi tiền vay mua chịu cổ phần của cán bộ công nhân viên 522 triệu đồng[5,33]. Tóm lại, các doanh nghiệp dã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng rõ rệt. Nhờ hiệu qua được cải thiện nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông(trong đó có Nhà nước và người lao động) vừa hưởng mức cổ tức cao, vừa tăng giá trị vốn góp tại công ty. Nhà nước không những tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức mà còn tăng cường được những khoản nộp ngân sách. 2.4.một số vấn đề còn tồn tại khi triển khai cổ phần hoá các doanhnghịêp nhà nước ở Việt Nam. 2.4.1.Một số vấn đề còn tồn tại Tuy tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa nói riêng và các doanh nghiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh, nhưng so với mục tiêu chuyển 150 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần năm 1998 và so với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn thì quá chậm, hơn nữa lại không đồng đều giữa các ngành, các địa phương. Cho đến năm 1998, cả nước còn 5 bộ, 35 tỉnh, thành phố và 11 Tổng công ty do Tủ tướng Chính phủ thành lập chưa triển khai cổ phần hóa một doanh nghiệp nào. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang dừng lại ở mức độ thử nghiệm mặc dù Nhà nước có khuyến khích động viên các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thông qua một số ưu đãi về thuế và các điều kiện tài chính khác nhằm làm cho việc cổ phần hóa mang tính chất tự nguyện. Trong khi đó các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ các quan điểm về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hóa làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế của quốc doanh, từ đó do dự, chần chừ chưa muốn cổ phần hóa. Nhà nước chưa có những văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý, các văn bản của Nhà nước vẫn chỉ là những Nghị định, Nghị quyết, Thông báo chứ chưa có những văn bản tầm cỡ luật, pháp lệnh về cổ phần hóa. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát. Cho đến năm 1998, nước ta chưa có cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Bộ phận chỉ đạo cổ phần hóa ở cả trung ương lẫn địa phương đều kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào các công tác chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến công ciệc cổ phần hóa trở nên chậm trễ, kéo dài. Ban chỉ đạo cổ phần hóa trung ương không đủ thẩm quyền quyết định trực tiệp các đề án, kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các bộ, ngành, địa phương thực hiện cổ phần hóa. Một số chính sách, chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ sức hấp dẫn, chưa lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hóa. Huy động vốn của toàn xã hội là mực tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài xã hội còn quá thấp, các công ty cổ phần hiện nay đại đa số là các công ty cổ phần nội bộ, vì thế thị trường tài chính hiện nay chưa có sự quan tâm của quảng đại quần chúng trong xã hội. Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân, người lao động trong doanh nghiệp. Chính vì những lẽ trên mà tiến trình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn rất chậm, do đó các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa không nhiều, công ty cổ phần vẫn chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. 2.4.2.Phân tích một số nguyên nhân chủ yếu. Để dẫn đến tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu mà chúng ta cần chỉ ra. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể tìm ra những biện pháp và phương hướng thích hợp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, trình độ xã hội hóa sản xuất ở Việt Nam còn thấp. Thật vậy, ở nước ta nền sản xuất vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, tản mạn, phân công lao đông kém phát triển (70% lao động làm nông nghiệp), kỹ thuật sản xuất chủ yếu ở trình độ thủ công, rất lạc hậu. Trong khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì có trên 50% doanh nghiệp vẫn sản xuất thủ công, khu vực ngoài quốc doanh còn lạc hậu hơn nữa. Trình độ người lao động còn rất hạn chế, đội ngũ công nhân có tay nghề cao không nhiều, hơn nữa lại không đồng đều trong cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó dẫn tới năng suất lao động rất thấp, tích luỹ ít, các doanh nghiệp đều rơi vào tình trạng thiếu vốn để đầu tư và khó có điều kiện đổi mới dây chuyền kỹ thuật công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề có khả năng làm chủ công nghệ mới, năng suất lao động không được cải thiện. Khi doanh nghiệp muốn trở thành công ty cổ phần thì phải phát hành cổ phiếu cảu mình, lúc đó cổ phiếu của công ty sẽ kém hấp dẫn các cổ đông. Người có vốn không thể quá mạo hiểm đầu tư vào một công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém ngay cả trên thị trường nội địa. Mặt khác, trình độ sản xuất thấp và năng suất lao động thấp cũng là nguyên nhân của thu nhập người lao động thấp. Vì thế khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng rất hạn hẹp, số người có tiền đầu tư mua cổ phiếu không nhiều. Hơn nữa, nước ta, do ảnh hưởng của lối sống trong cơ chế bao cấp, những người có thu nhập cao thường tích luỹ dưới dạng mua sắm cácđồ vật có giá trị như: đất đai, nhà cửa, xe cộ, vàng bạc... ít có thói quen tích luỹ theo cách mua cổ phiếu, trái phiếu... Cuối cùng là phía doanh nghiệp khó phát hành cổ phiếu do hoạt động sản xuất kinh doah kém hiệu quả, còn đông đảo các tầng lớp dân cư lại không có nhiều tiền để đầu tư vào cổ phiếu do thu nhập thấp. Thứ hai, trong những năm qua, sự thiếu vắng của thị trường chứng khoán là một nguyên nhân quan trọng cản trở quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường kéo theo nhiều thị trường mới hình thành và phat triển: thị trường công nghệ, thị trường dịch vụ thông tin, tư vấn pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, thị trường sức lao động... Công ty cổ phần ra đời tạo tiền đề và đòi hỏi phải có sự ra đời tương ứng của thị trường chứng khoán để trao đổi mau bán cổ phiếu, trái phiếu... nhằm khai thông dòng chảycủa vốn dưới dạng cổ phiếu, trái phiếu của công ty. Nếu không có thị trường chứng khoán thì vốn không được lưu chuyển, bị tắc nghẽn, làm cho các công ty thiếu vốn khó có thể huy động được, từ đó cản trở qua trình hình thành các công ty cổ phần. Thời gian qua(), nước ta đã có một trung tâm giao dịch chứng khoán ở quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có 5 công ty được niêm yết cổ phiếu tại trung tâm này. Đây là những bước đi đầu tiên để hình thành và phát tiển hệ thống thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần được thành lập và phát triển. Thứ ba, Việt Nam thiếu môi trường pháp luật, kiểm toán để hình thành công ty cổ phần. Luật Công ty ra đời tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của công ty cổ phần, tuy nhiên nhiều thể chế pháp lý, các chính sách khác nhau liên quan đến công ty cổ phần như: các qui chế về chế độ công khai tài chính, về viêc huy động vốn đối với nước ngoài, về tiêu chuẩn tối thiêu bắt buộc mỗi cá nhân phải có để được bầu vào Hội đồng quản trị, về quyền hạn và trách nhiệm của các quản trị viên, về số lượng cổ phiếu mà mỗi thành viến sáng lập bắt buộc phải mua, các qui chế và giải pháp bảo đảm việc quản lý và giám sát việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty cổ phần đều còn bỏ ngỏ hoặc thiếu đồng bộ. Mặt khác, Luật thương mại, Luật kiểm toán, Luật chứng khoán vẫn chưa được ban hành hoặc mới ban hành gần đây. Chế đọ kiểm toán bắt buộc chưa được pháp luậtqui định cụ thể, cho nên các bảng tổng kết tài sản cảu công ty thiếu sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư. Những chậm trễ và thiếu hụt trên đã gây những trở ngại không nhỏ cho tiến trình cổ phần hóa ở nước ta. Thứ tư, tư tưởng và tâm lý của đại bộ phận người Việt Nam chưa quen với hình thứcđầu tư bằng cổ phiếu, trái phiếu, có tâm lý e ngại sợ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa. Tâm lý này bắt nguồn từ việc đồng nhất hình thức kinh tế công ty cổ phần với chủ nghĩa tư bản của đông đảo công chúng nước ta do công ty cổ phần ra đời và phát triển trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, do tồn tại lâu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp nên người dân không quen với tâm lý làm giàu và không giám chấp nhận mạo hiểm để đầu tư cho cổ phiếu, trái phiếu. Các thông tin về chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiêp nhà nước, về việc sử dụng các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, kết quả của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa được phổ biên sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong các doanh nghiệp. Thứ năm, môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh và phát triển. Nước ta chưa có văn bản pháp lý có tầm luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hóa cũng như chưa có bộ máy tổ chức được giao đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương xứng để thay mặt Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa, do đó phần lớn các doanh nghiêp không muốn cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp có nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất dẫn đến tình trạng có tới hai hội đồng định giá nên cồng kềnh, tốn kém nhưng lại không có một cơ quan chịu trách nhiệm chính. Chương 3 Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa ở nước ta. ý nghĩa của việc nghiên cứu công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 3.1. Mục tiêu, phương hướng cổ phần hóa ở nước ta. Muốn cổ phần hóa thì chúng ta cần phải chỉ ra những mục tiêu của việc cổ phần hóa. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 19/6/1998 nêu rõ: ã Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ tạo viêc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức mạnh cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. ã Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Để huy động được vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Hiện nay, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử diụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hóa là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng vớing đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Nếu không có sự quản lý tốt, vốn huy động được cũng không mang lại hiệu quả mong muốn. Như vậy, mục tiêu hàng đầu của cổ phần hóa là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản. 3.2. Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Trước những thực tế về cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua, để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và nâng cao vai trò của công ty cổ phần ở nước ta, bài viết nay xin được đưa ra một số biện pháp: ã Đánh giá cụ thể năng lực hoạt động và hiệu quả kinh tế thực tế của từng doanh nghiệp để có biện pháp chấn chỉnh, tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần làm lành mạnh tài chính của các doanh nghiệp như: vấn đề vốn, xử lý công nợ dây dưa, đưa vào nề nếp chế độ kế toán, kiểm toán và công khai tài chính doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại thì Nhà nước phải đầu tư vốn và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp. Có thể cho phép các doanh nghiệp này phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đặc biệt để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh, đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư chiều sâu. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, không thể cổ phần hóa được thì Nhà nước cần phải kiên quyết giải thể hoặc sát nhập. Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và có khả năng phát triển thì Nhà nước cần xúc tiến cổ phần hóa. Tuỳ theo tính chất và khả năng thu hút vốn của từng doanh nghiệp mà quy định tỷ lệ cổ phiếu Nhà nước cần nắm giữ. Vốn cổ phần của Nhà nước chỉ nên mang tính hỗ trợ chứ không nên vì mục đích khống chế hay quản lý doanh nghiệp. ã Nước ta cần thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương để quản lý và theo dõi các doanh nghiệp được đưa ra cổ phần hóa. Các doanh nghiệp sau khi được các cơ quan chủ quan đưa vào thuộc diện phải cổ phần hóa được chuyển sang cho cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa quản lý. Cơ quan này có trách nhiệm thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng cổ phần hóa (từ việc xác định lại giá trị doanh nghiệp cho đến việc xây dựng các dự án, phương án cũng như tiến trình làm công tác cổ phần hóa, chỉ đạo và giúp đỡ hoạt động của các doanh nghiệp) cho đến khi các doanh nghiệp này tiến hành đại hội cổ đông lần thứ nhất. ã Để bảo đảm cho việc phát hành cổ phiếu được an toàn, bảo vệ quyền lợi của các nha đầu tư, cần phải có các tổ chức tài chính mạnh đứng ra bảo lãnh cho việc phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp. Các tổ chức này hoạt động như các công ty chứng khoán. Có cơ chế tài chính bắt buộc khi phát hành chứng khoán, các công ty phải được bảo lãnh, đảm bảo cho việc thanh toán và thanh khoản của các chứng khoán này. ã Nước ta cần đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán, không ngừng cải thiện nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán tập trung, có tổ chức hợp lý, được quản lý thống nhất. Việc này đóng vai trò quan trọng vì nó đưa hoạt động chứng khoán ra đại chúng, công chúng đầu tư có thể tham gia một cách rộng rãi. ã Tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và bổ sung sửa đổi, tiếp tục ban hành các luật cần thiết, theo hướng đảm bảo quyền , lợi ích và trách nhiệm của công dân, các tổ chức kinh tế xã hội đối với tài sản và sở hữu của mình. Lưu ý xem xét ban hành Luật cổ phần hóa để tạo cơ sở pháp lý và sự đồng thuận xã hội cho quá trình này, kèm theo đó có thể xem xét hình thành các thể chế hỗ trợ cho quá trình này(chẳng hạn lập quỹ đầu tư chung, thiết lập ngân hàng bảo hiểm cổ phần hóa...), ưu tiên bán cổ phần cho người lao động lam việc trong các doanh nghiệp được cổ phần hóa, các hiệp hội quần chúng... 3.3. ý nghiã của việc nghiên cứu công ty cổ phần. 3.3.1. ý nghĩa lý luận. Như vậy, công ty cổ phần đã có lịch sử ra đời và phát triển từ rất lâu nhưng nó vẫn là hình thức kinh tế mới đối với Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu để hiểu rõ nó. Công ty cổ phần ra đời đầu tiên trong nền kinh tế tư bản, gắn liền với quá trình tích tụ tập trung tư bản và nền đại công nghiệp cơ khí. Sự ra đời của công ty cổ phần không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ tổ chức hay cá nhân nào mà là do đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đây là một quá trình tất yếu khách quan phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cũng như các quá trình kinh tế khác, sự ra đời của công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số điều kiện quan trọng làm tiền đề: sự phát triển của các loại thị trường, trong đó thị trường vốn có vai trò quan trọng, sự phát triển của quan hệ tín dụng, sự tích tụ - tập trung tư bản và xã hội hóa tư bản ngày càng cao, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật... Công ty cổ phần ra đời đã giải quyết được vấn đề huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. Từ đó nó thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình tập trung tư bản, làm xuất hiện những xí nghiệp lớn mà không một tư bản riêng lẻ nào có thể đảm đương nổi. Ngày nay hình thức công ty cổ phần không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia nữa mà qui mô của nó là toàn cầu (công ty GMC của Mĩ năm 1992 có doanh số là 132 tỷ USD, sử dụng 876 ngàn lao động, 136 chi nhánh ở hơn 100 nước trên thế giới[3,356]. Công ty cổ phần với sự xã hội hóa sở hữu đã đối lập với các xí nghiệp tư bản tư nhân. 3.3.2. ý nghĩa thực tiễn. Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế cần phải thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp vì cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã làm sơ cứng các doanh nghiệp nhà nước, làm các doanh nghiệp này không rõ ai là chủ đích thực, từ đó hiệu quả kinh doanh kém. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với kinh tế thị trường và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng đắn để giải quyết vấn đề này, nhất là khi nước ta đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để công ty cổ phần ra đời và phát triển. Đến nay, số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa ở nước ta không nhiều nhưng những kết quả mà chúng đạt được đã chứng tỏ công ty cổ phần có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế nước ta, quan trọng nhất là nó đã tạo ra cơ hội thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, thay đổi công nghệ và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp Việt Nam. Công ty cổ phần đã tạo động lực mới cho người lao động phát huy năng lực trong sản xuất thông qua thu nhập từ tiền công và lợi tức cổ phần, qua đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã được bắt đầu từ năm 1991 nhưng tốc độ cổ phần hóa vẫn chậm. Vấn đề này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song để giải quyết chúng thì cần sự đóng góp của tất cả các cá nhân, các thành phần kinh tế và nhà nước. Mặt khác, cần thiết phải tuyên truyền sâu rộng trong xã hội về cổ phần hóa, để mọi người hiểu được cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa và công ty cổ phần tồn tại và phát triển ở Việt Nam là khách quan. Có như vậy chúng ta mới có cơ sở để đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Phần kết luận C ông ty cổ phần ra đời ở các nước tư bản phát triển từ thế kỷ XVII, còn ở Việt Nam nó mới có gần 20 năm phát triển. Tuy nhiên, công ty cổ phần đã thể hiện được rằng đây là hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp cho nền kinh tế tị trường bao gồm nhiều thành phần cùng hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp đúng đắn của Đảng và Chính phủ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này. Và từ đó doanh nghiệp nhà nước có thể vươn lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, giúp Nhà nước điều tiết nền kinh tế phát triển bền vững, hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân, báo hiệu một phương thức sản xuất mới đã gần kề. Công ty cổ phần là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, không phải là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Song trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản thì sự xã hội hóa dưới hình thức công ty cổ phần và quyền sở hữu dưới hình thái cổ phiếu chỉ có thể dẫn đến việc tập trung tư liệu sản xuất xã hội vào tay những tư bản lớn và cực lớn mà thôi. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến. Công ty cổ phần tất yếu sẽ phát triển bởi nó cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo doanh nghiệp. Nước ta cần nhanh chóng đưa ra những biện pháp để nâng cao vai trò của các công ty cổ phần và đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện được điều này thì nước ta sẽ rút ngắn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tài liệu tham khảo Dự thảo lần thứ hai kinh tế chính trị Mác – Lênin(giai đoạm II) 1997, chuyên đề II. Nguyễn ái Đoàn. Mục tiêu và điều kiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nghiên cứu kinh tế, số 209, tháng 3/1995. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin, tập I, trường ĐHKTQD – 1998. Trần Quang Hà. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán. Ngiên cứu kinh tế, số 241, tháng 6/1998. Đoàn Văn Hạnh. Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nxb Thống kê - 1998. Phạm Quang Huấn. Một số biện pháp cần làm để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhan nước. Thị trường tài chính tiền tệ 3/1998. Võ Đại Lược. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Nxb khoa học xã hội. Ha Nội – 1997. Phan Thanh Phố. Nhưng vấn đề vơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Nxb giáo dục. Hà Nội – 1996. Nguyễn Sơn. Về một số giải pháp thuc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Thị trường tài chính tiền tệ 6/1998. Anh Thi. Lợi nhuận từ công ty cổ phần đạt cao nhất. Thời báo kinh tế Việt Nam số 18(739)-9/2/2001. Đặng Cẩm Thuý. Bàn về con đường hình thành công ty cổ phần ở các nướctư bản và vận dụng vào Việt Nam. Nghiên cứu kinh tế, số 255, tháng 2/1997. Nguyễn Kế Tuấn. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; mục tiêu, thức trạng và kiến nghị. Kinh tế và phát triển, số 19, tháng 7-8/1997. ---------------------------------------------**********-----------------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0760.doc
Tài liệu liên quan