Kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện đại, một mặt doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt mang tính sống còn với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước, mặt khác phải tuân thủ đầy đủ các định chế pháp luật trong kinh doanh của nhà nước. Sản xuất công nghệp là lĩnh vực sản xuất có tính phức tạp cao về công nghệ sản xuất và tính chất sản phẩm, tính chất cạnh tranh trong sản xuất công nghiệp cũng mang tính quyết liệt và tính toàn cầu hơn so với các ngành sản xuất vật chết khác.
Từ những vấn đề trên đây đặt ra cho cán bộ quản lý sản xuất công nghệi những nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn, họ chỉ có thể vượt qua được khi được trang bị một cách toàn diện và có hệ thống những kiến thức về khoa học quản lý, về chuyên môn của nghiệp vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, những kiến thức về pháp luật trong kinh doanh, những kiến thức xã hội cần thiết khác và phải nắm vững các quy luật kinh tế chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường (quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, .vv).
Sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế, trong điều kiện sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống xã hội, các kiến thức khoa học quản lý, các điều kiện về công nghệ sản xuất luôn luôn thay đổi đòi hỏi cán bộ quản lý sản xuất phải được cập nhật thường xuyên những kiến thức mới để thích nghi với những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội. Sự tồn tại hay phá sản của một doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ hiểu biết của cán bộ quản lý doanh nghiệp điều đó đặt ra cho cán bộ quản lý một trách nhiệm nặng nề là phải tự mình trang bị những kiến thức cần thiết để thực hiện và hoàn thành tốt những công việc của cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh.
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công việc cán bộ quản lý sản xuất cần thực hiện, hoàn thành và những kiến thức cần có của cán bộ quản lý sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp luật.
- Hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp là các hoạt động sản xuất sản phẩm hàng hoá để bán trên thị trường (bao gồm các loại sản phẩm hàng hoá là tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng), là các hoạt động cung cấp dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng xã hội và các hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nhằm mục đích thu lợi nhuận cho các chủ sở hữu vốn từ các hoạt động kinh doanh đó, đồng thời thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội và các quy định về bảo vệ môi trường của nhà nước.
- Khi tiến hành hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp (chủ thể kinh doanh) phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước thông qua việc thực hiện các Luật thuế hiện hành phù hợp với loại hình kinh doanh và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế tài nguyên, ...vv).
- Kinh doanh trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải tuân theo các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại (quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị và các quy luật khác của nền kinh tế hàng hoá), mặt khác doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường phải đảm bảo các quyền và lợi ích của người tiêu dùng theo các quy định của nhà nước và các thoả thuận của doanh nghiệp với người tiêu dùng (các quy định về bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, các thoả thuận về bảo hành sản phẩm, về các dịch vụ hậu bán hàng của doanh nghiệp, ...vv).
1.2. Quản lý sản xuất và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Xét trên góc độ quản lý, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay được quản lý từ hai góc độ là hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp (quản trị doanh nghiệp) và hoạt động quản lý của nhà nước về kinh tế.
- Quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp "Là phương thức tác động (bao gồm nguyên tắc, phương pháp, tổ chức và công nghệ tác động) của chủ thể (hay chủ thể lãnh đạo) quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm liên kết, phối hợp và điều hoà tất cả các bộ phận hợp thành của hệ thống sản xuất và kinh doanh để thực hiện mục tiêu chung đề ra một cách tốt nhất trong những điều kiện ràng buộc và hạn chế nhất định của hệ thống cũng như trong những điều kiện nhất định của môi trường của hệ thống".
Quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là các phương thức tác động của các nhà quản lý doanh nghiệp nên các đối tượng bị quản lý trong doanh nghiệp nhằm liên kết, điều hoà và phối hợp tất cả các bộ phận sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu chung của hoạt động sản xuất kinh doanh một cách tốt nhất trong điều kiện những giàng buộc của các định chế pháp luật hiện hành và các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường (quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, ...vv).
- Quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện đại là yêu cầu tất yếu đối với mỗi quốc gia. Nhà nước là một thiết chế quyền lực, thống trị và quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội, do vậy một nội dung quản lý quan trọng nhất của nhà nước là quản lý về kinh tế. Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế; đảm bảo phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trong mối quan hệ với việc thực hiện các chính sách xã hội và các vấn đề về an ninh quốc phòng; đảm bảo việc điều tiết thu nhập để thực hiện phân phối và phân phối lại trong nền kinh tế và trong toàn xã hội; đảm bảo xu thế phát triển, lộ trình hoà nhập kinh tế trong mối quan hệ cạnh tranh quốc tế. Công cụ của nhà nước để thực hiện quản lý các doanh nghiệp được sử dụng là hệ thống các chính sách, chế độ thể hiện dưới hình thức các định chế pháp luật (Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp quy khác) và các chính sách tài chính, tiền tệ của nhà nước trong từng giai đoạn; là hệ thống bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và các lực lượng kinh tế đặc thù khác của nhà nước (các doanh nghiệp nhà nước, lực lượng hàng hóa dự trữ, ...vv). Sự can thiệp bằng các công cụ quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp luôn mng tính hai mặt, nó kích thích, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển nếu sự can thiệp và các chính sách của nhà nước là đúng đắn; nó kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, làm dối loạn thị trường nếu sự can thiệp và các chính sách của nhà nước sai lầm và không đúng thời điểm.
II. Sản xuất công nghiệp và sản phẩm công nghiệp
Hoạt động quản lý nói chung và hoạt động quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng luôn gắn liền với lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gắn liền với đặc điểm và tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh và tính chất, đặc điểm sản phẩm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả mong muốn của hoạt động quản lý nói chung và quản trị sản xuất của doanh nghiệp chỉ đạt được khi chủ thể quản lý nắm vững nội dung cụ thể và chi tiết mang tính đặc trưng của đối tượng quản lý. Vì vậy trong công tác quản lý sản xuất, cán bộ quản lý sản xuất muốn cho hoạt động quản lý của mình đạt hiệu quả cao, trước hết phải nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải được trang bị những kiến thức một cách đầy đủ và có hệ thống về khoa học quản lý nói chung và quản trị kinh doanh nói riêng.
Sản xuất công nghiệp là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Ngành sản xuất công nghiệp cùng với các ngành sản xuất và kinh doanh khác hình thành nên cơ cấu kinh tế thống nhất của nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia.
Sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp là các loại tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhằm đáp ứng các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Xét theo tính chất tiêu dùng của sản phẩm, sản phẩm công nghệp chia thành sản phẩm công nghiệp là tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, phương tiện vận tải, ...vv) và sản phẩm công nghiệp là tư liệu tiêu dùng (các loại sản phẩm tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân).
Sản phẩm công nghiệp có tác dụng quan trọng trong nền kinh tế xét trên cả hai góc độ là tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho các nhu cầu cá nhân.
- Xét ở góc độ là tư liệu tiêu dùng cho sản xuất, sản phẩm công nghiệp bao gồm các loại máy móc thiết bị, vật tư kỹ thuật sử dụng trong tất cả các ngành kinh tế. Đối với ngành sản xuất nông nghiệp sản xuất công nghiệp cung cấp các loại máy móc thiết bị như: máy làm đất, máy bơm nước, phun thuốc trừ sâu, các loại máy để thu hoạch, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, ...vv và các loại vật tư kỹ thuật như thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn trong chăn nuôi, ...vv. Đối với ngành xây dựng cơ bản sản xuất công nghiệp cung cấp sản phẩm là các loại máy trộn bê tông, các loại máy đào đất, máy ủi, máy súc, các loại cần cẩu chuyên dùng, các phương tiện vận chuyển, ...vv và các loại vật tư thiết bị dùng trong xây dựng cơ bản như sắt, thép, xi măng, gạch, và các loại vật tư, thiết bị xây dựng khác. Đối với ngành giao thông vận tải ngành công nghiệp cung cấp sản phẩm là các loại phương tiện vận tải như: ô tô, tầu hoả, các loại tầu thuyền dùng cho vận tải biển, máy bay, và các thiết bị máy móc khác, ...vv và các loại nhiên liệu, động lực dùng cho phương tiện vận tải, các loại vật tư, phụ tùng thay thế khác. Đối với ngành khai thác khoáng sản, ngành công nghiệp cung cấp sản phẩm là các loại máy móc thiết bị dùng trong khai thác (máy đào, máy xúc, dây truyền công nghệ sàng tuyển, chế biến quặng, phương tiện và thiết bị vận chuyển, ...vv và các loại vật tư kỹ thuật khác (vật liệu nổ, các loại công cụ cầm tay, phụ tùng thiết bị thay thế, các loại nhiên liệu và động lực, ...vv). Đối với ngành thương mại và dịch vụ khác, ngành công nghiệp cung cấp lượng hàng hoá chủ yếu và ổn định đảm bảo cho các ngành này cung cấp đến tay người tiêu dùng và cung cấp các loại vật tư thiết bị công tác, ...vv để duy trì hoạt động của các ngành thương mại, dịch vụ. Sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp có vai trò quan trọng trong chính các ngành sản xuất công nghiệp thông qua việc cung cấp máy móc thiết bị và các loại nguyên vật liệu đầu vào, các loại phụ tùng thay thế, các loại nhiên , động lực lẫn nhau. Như vậy có thể thấy đối với các ngành sản xuất vật chất, các ngành thương mại, dịch vụ, sản phẩm công nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng và có tính quyết định đến trình độ sản xuất của các ngành này thông qua việc cung cấp các loại tư liệu sản xuất các loại vật tư kỹ thuật.
- Xét ở góc độ sản phẩm công nghiệp là tư liệu tiêu dùng cá nhân không thể thiếu trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong điều kiện nước ta, nền công nghiệp còn đang ở giai đoạn phát triển thấp so với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm công nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc cải thiện đời sống của nhân dân, định hướng tiêu dùng xã hội. Trong điều kiện thu nhập của đại đa số nhân dân lao động còn thấp việc nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp để phục vụ tiêu dùng của xã hội không chỉ góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn là điều kiện tiên quyết để các ngành sản xuất công nghiệp đứng vững trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh mở cửa ở nước ta.
ở Việt Nam, trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, các sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cho các lĩnh vực sản xuất xã hội, đáp ứng các nhu cầu về vật tư thiết bị cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho xã hội và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Cùng với sự phát triển kinh tế, nâng cao tỷ trọng đầu tư cho phát triển công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế, giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng gia tăng đáng kể, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế và từng bước cải thiện đời sống xã hội.
Ngành công nghiệp được cơ cấu bởi nhiều loại hình doanh nghiệp sản xuất, mỗi loại hình doanh nghiệp sản xuất sản phẩm khác nhau có tính chất và đặc điểm khác nhau. Để xác định những công việc cụ thể một cán bộ quản lý sản xuất công nghiệp cần làm, trước hết cán bộ quản lý cần tìm hiểu và nắm vững những tính chất, đặc điểm chung của sản phẩm công nghiệp và những đặc điểm đặc trưng của sản phẩm công nghiệp do doanh nghiệp mình sản xuất.
- Sản phẩm công nghiệp là những sản phẩm có tính năng tác dụng cụ thể, có yêu cầu kỹ thuật phức tạp đòi hỏi độ chính xác cao:
+ Sản phẩm công nghiệp có tính năng tác dụng cụ thể: Một sản phẩm công nghiệp thường chỉ nhằm đạt đến một hoặc một số mục đích tiêu dùng cụ thể nào đó, nếu doanh nghiệp sản xuất không đáp ứng được những tính năng tác dụng đó thì thị trường không thể chấp nhận và doanh nghiệp không thể tiêu thụ được sản phẩm của mình. Ví dụ một doanh nghiệp sản xuất ô tô, sản phẩm của họ chỉ có thể dùng cho các hoạt động vận tải hàng hoá và vận tải hành khách bằng đường bộ, doanh nghiệp có thể cải tiến về hình thức mẫu mã, công xuất vận chuyển, và tính năng tác dụng theo chiều hướng ngày càng tiện ích cho người sử dụng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện cơ sở hạ tầng của từng vùng mà không thể cải tiến sản phẩm theo hướng sử dụng đa chức năng hoặc để sử dụng sản phẩm vào hoạt động khác ngoài hoạt động vận chuyển hàng hoá và vận chuyển hành khách.
+ Sản phẩm công nghiệp có yêu cầu kỹ thuật phức tạp đòi hỏi độ chính xác cao: Về kết cấu sản phẩm, sản phẩm công nghiệp thường rất phức tạp, có tính chất lý hoá học mang tính đặc trưng. Mỗi sản phẩm công nghiệp được cấu tạo bởi nhiều chi tiết, nhiều bộ phận do vậy nếu các chi tiết sản phẩm, các bộ phận của sản phẩm không đảm bảo về quy cách, kích cỡ và những tiêu chuẩn chất lượng quy định thì không thể tạo ra một sản phẩm đồng bộ và có chất lượng như mong muốn. Ví dụ đối với doanh nghiệp sản xuất ô tô, một sản phẩm hoàn chỉnh là những chiếc xe ô tô xuất xưởng được kiểm định theo tiêu chuẩn quy định (tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành hoặc theo tiêu chuẩn của doanh nghiệp được chấp nhận), sản phẩm ô tô xuất xưởng được cấu tạo bởi nhiều bộ phận như: khung xe, vỏ xe, máy tổng thành, gầm xe, thiết bị truyền lực, thiết bị điều khiển, thiết bị giảm tốc độ (phanh, chân ga, ...) các thiết bị hỗ trợ và các thiết bị nội thất, ...vv trong mỗi bộ phận trên của sản phẩm lại được cấu tạo bằng nhiều chi tiết khác nhau (đối với phần máy tổng thành bao gồm các chi tiết như tay biên, trục cơ, chế hoà khí, bầu lọc gió, pitông, xi lanh, bộ phận làm mát, ...vv; đối với phần vỏ xe gồm các chi tiết bằng kim loại, các chi tiết bằng nhựa, sơn, ...vv); mỗi chi tiết, mỗi bộ phận đòi hỏi có tính chính xác nghiêm ngặt về kích cỡ, về mẫu mã, công xuất và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác để đảm bảo cho một sản phẩm cuối cùng là chiếc xe xuất xưởng có thể lưu hành được, một chi tiết không đảm bảo các tiêu chuẩn trên không những xe không hoạt động được bình thường mà còn phá vỡ các chi tiết khác.
- Sản phẩm công nghiệp được sản xuất trong điều kiện chuyên môn hoá cao so với các ngành sản xuất vật chất khác: Do yêu cầu chuyên môn hoá sản xuất, một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh đưa ra thị trường tiêu thụ đòi hỏi phải có sự liên kết sản xuất giữa nhiều đơn vị khác nhau, bằng nhiều công nghệ sản xuất khác nhau, một sản phẩm của hoàn chỉnh đảm bảo chất lượng trước khi đưa ra thị trường cần được lựa chọn và sản xuất từ những bộ phận, những chi tiết mang tính đồng bộ cao do các doanh nghiệp khác nhau sản xuất. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất hoặc lắp ráp xe ô tô không thể sản xuất tất cả các bộ phận của xe (hoặc sản xuất không có hiệu quả về kinh tế) do vậy muốn có một sản phẩm là xe ô tô xuất xưởng phải lựa chọn phương án tự sản xuất bộ phận nào của xe, bộ phận nào mua của doanh nghiệp khác về lắp giáp để đảm bảo được tính hiệu quả về kinh tế mà vẫn đảm bảo được công suất thiết kế và các yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm (doanh nghiệp có thể sản xuất khung xe, gầm xe, các thiết bị nội thất, ...vv và lựa chọn mua máy tổng thành của các hãng chuyên sản xuất máy, săm và lốp xe mua của các hãng chuyên sản xuất sản phẩm cao su, ...vv).
- Sản phẩm công nghiệp được sản xuất theo một công nghệ nhất định xác định trước, do vậy chất lượng, giá cả và sản lượng sản xuất sản phẩm phụ thuộc vào công nghệ sản xuất do doanh nghiệp lựa chọn.
+ Công nghệ sản xuất sản phẩm lạc hậu hay tiến bộ; tự động hoá, bán tự động hay công nghệ thủ công quyết định đến chất lượng và sản lượng của sản phẩm sản xuất ra. Do vậy việc lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật, phù hợp với trình độ điều hành và quản lý, phù hợp với trình độ của công nhân sản xuất có vai trò đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và sản lượng sản xuất của doanh nghiệp. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất ô tô phải căn cứ vào mục tiêu sản xuất vào tiêu chuẩn sản phẩm lựa chọn sản xuất để quyết định các công nghệ sản xuất như công nghệ chế tạo máy, công nghệ sản xuất cơ khí, công nghệ sơn, công nghệ lắp giáp và công nghệ kiểm tra chất lượng sản phẩm, ...vv đảm bảo tính tương thích của các công nghệ đó nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng của sản phẩm là xe ô tô xuất xưởng đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng với chi phí hợp lý và phù hợp với điều kiện phát triển của khoa học công nghệ và nhu cầu của thị trường.
+ Công nghệ sản xuất sản phẩm công nghiệp luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất ra đời sau có nhiều ưu thế cả về chất lượng và giá cả của sản phẩm do nó tạo ra, mặt khác công nghệ sản xuất thường có thời gian sử dụng dài và có chi phí đầu tư lớn, chi phí đầu tư công nghệ sản xuất được tính dần vào giá trị sản phẩm công nghiệp sản xuất ra (bằng cách tính khấu hao) do vậy giá thành sản phẩm sản xuất sản phẩm trực tiếp chịu ảnh hưởng của công nghệ sản xuất. Ví dụ, chọn công nghệ sơn vỏ xe trước hết phải căn cứ vào điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật để lựa chọn công nghệ tự động hoặc công nghệ bán tự động chọn công nghệ sơn phun bình thường, công nghệ sơn tĩnh điện hay công nghệ sơ âm cực, ...vv công nghệ được lựa chọn sẽ quyết định đến chất lượng sản phẩm sơn vỏ xe. Công xuất thiết kế của công nghệ sản xuất và kinh phí đầu tư cho công nghệ sản xuất (giá cả của công nghệ) được lựa chọn sẽ quyết định tới giá thành sản phẩm và sản lượng sản xuất. Như vậy, công nghệ sản xuất không chỉ quyết định đến chất lượng sản phẩm, sản lượng sản xuất mà còn quyết định tới chi phí đầu tư, từ đó ảnh hưởng tới giá thành sản xuất của sản phẩm.
- Sản phẩm công nghiệp được sản xuất từ một số loại vật tư nhất định, do vậy tổ chức sản xuất sản phẩm công nghiệp phải tính toán xác định trước nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Mỗi sản phẩm do ngành sản xuất công ghiệp sản xuất ra đều sử dụng một số loại nguyên vật liệu nhất định, ví dụ ngành công nghiệp chế tạo máy phải sử dụng các loại vật tư là kim loại (sắt thép, đồng, nhôm, các loại hợp kim, một số sản phẩm từ chất dẻo, ...vv; ngành chế biến cao su phải sử dụng nguyên liệu là mủ cao su và các loại hoá chất; ngành may mặc phải sử dụng các loại nguyên vật liệu của ngành dệt và hoá chất, ...vv), do vậy khi tổ chức sản xuất sản phẩm công nghiệp phải tính đến thị trường cung cấp nguyên vật liệu, phải tổ chức thu mua và dự trữ nguyên vật liệu phù hợp với sản phẩm sản xuất; mặt khác nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm công nghệp công phụ thuộc vào công nghệ sản xuất sản phẩm, do vậy phải căn cứ vào tính chất của quy trình công nghệ để xác định cơ cấu thu mua và dự trữ các loại nguyên vật liệu phù hợp. Ví dụ: ngành sản xuất và lắp giáp ô tô phải tính đến các nguồn nguyên vật liệu là các loại sắt thép để sản xuất khung xe, vỏ xe và các thiết bị truyền lực; các loại sắt thép đặc biệt, đồng và các loại hợp kim nhôm để sản xuất các chi tiết máy; các loại vật tư thiết bị điện để lắp giáp hệ thống điện và các vật tư thiết bị kỹ thuật khác dùng cho nội thất của xe, ...vv. Đối với ngành sản xuất giấy phải tổ chức thu mua và dự trữ nguồn nguyên liệu bột giấy, các loại hoá chất chuyên dùng, ...vv.
- Sản phẩm công nghiệp có chu kỳ sống phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Mỗi sản phẩm công nghiệp đều có một chu kỳ sống nhất định, sản phẩm công nghiệp có chu kỳ sống dài hay ngắn phụ thuộc vào những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khi khoa học kỹ thuật phát triển tạo ra công nghệ sản xuất mới để sản xuất ra những sản phẩm có tính năng tác dụng tương đương nhưng có những ưu thế hơn về chất lượng, về tính tiện ích, về giá cả, về hình thực mẫu mà và về nguồn năng lượng sử dụng, ...vv thì nó sẽ thay thế cho các sản phẩm sản xuất bằng công nghệ cũ. Điển hình về tính "chu kỳ sống" của sản công nghiệp là ngành sản xuất thiết bị điện tử, khi máy thu hình mới ra đời thì sản phẩm đưa ra thị trường là các máy thu hình có màn hình đen trắng, sau một thời gian khi khoa học kỹ thuật phát triển người ta nghiên cứu và cho ra đời công nghệ màn hình mầu thì các máy đen trắng dần dần bị mất chỗ đứng trên thị trường và nhường chỗ cho các máy thu hình mầu; khi khoa học phát triển, công nghệ màn hình phẳng ra đời thì hiện nay các máy thu hình có độ phân giải cao, âm thanh stereo màn hình phẳng đã và đang thay thế các máy thu hình thế hệ cũ; hiện nay xu thế sản xuất máy thu hình màn hình tinh thể lỏng đã ra đời và trong thời gian tới các máy thu hình tinh thể lỏng với tính năng nổi trội sẽ thay thế cho máy thu hình màn hình phẳng cồng kềnh hiện nay. Tính "chu kỳ sống" là đặc tính khác biệt của sản phẩm công nghiệp so với các sản phẩm của ngành nông nghiệp hoặc công nghiệp khai thác.
- Sản phẩm do ngành công nghiệp sản xuất có tính thích nghi cao với tập quán tiêu dùng của dân cư: Sản phẩm công nghiệp khi sản xuất đều tính đến yếu tố tập quán tiêu dùng của dân cư nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với điều kiện công việc, điều kiện kinh tế và phong tục tập quán của mỗi vùng. Đặc tính này được thể hiện rõ nét với ngành công nghiệp may mặc: sản phẩm may mặc tiêu thụ ở các vùng nông thôn phải đơn giản và có giá thành thấp hơn sản phẩm may mặc sản xuất để tiêu thụ ở thị trường thành phố; sản phẩm may mặc cho phụ nữ tiêu thụ ở vùng dân cư theo đạo hồi phải phải kín đáo, có màu sắc phù hợp với đặc điểm của những người theo đạo hồi không thể thiết kế như trang phục của dân cư các vùng khác
III. Những công việc cán bộ quản lý sản xuất cần thực hiện và hoàn thành
Từ những vấn đề lý luận về kinh doanh và doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường; từ những đặc điểm và tính chất của sản phẩm công nghiệp, có thể rút ra những công việc mà một cán bộ quản lý sản xuất công nghiệp cần thực hiện để đạt được mục đích kinh doanh mong muốn là: Xây dựng phương án kế hoạch kinh doanh khoa học và hợp lý trên cơ sở những nghiên cứu, dự đoán và phân tích một cách có hệ thống các thông tin liên quan tới sản phẩm, công nghệ sản xuất, tình hình cạnh tranh của các đối thủ khác... vv; tổ chức thực hiện kế hoạch, điều phối việc thực hiện kế hoạch kinh doanh và tổ chức kiểm tra việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Công việc chủ yếu mà cán bộ quản lý doanh nghiệp cần làm khi xây dựng phương án kế hoạch kinh doanh, bao gồm:
- Xác định những mục tiêu cụ thể mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần đạt được: Mục tiêu hoạt động quan trọng nhất mà một doanh nghiệp cần đạt được khi tổ chức hoạt động kinh doanh là mục tiêu về lợi nhuận. Khi thực hiện bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cán bộ quản lý doanh nghiệp phải trả lời được câu hỏi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu vốn là bao nhiêu khi đầu tư vào hoạt động kinh doanh đó ?, các hoạt động tiếp theo chỉ được tiến hành khi câu trả lời là một lợi nhuận lớn hơn việc đầu tư tương ứng vào một hoạt động khác. Để trả lời được câu hỏi này cán bộ quản lý phải tính toán, dự đoán những chi phí đầu tư cho hoạt động kinh doanh và doanh thu sẽ thu được từ hoạt động kinh doanh đó, từ đó xác định khoản lợi nhuận dự kiến có được của hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu cần được xác định cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp không thể bất chấp các vấn đề chính trị xã hội và vấn đề môi trường. Do vậy đồng thời với xác định mục tiêu về kinh tế, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải xác định những mục tiêu về chính trị xã hội cần đạt được phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước (về phát triển kinh tế theo vùng, miền; về lao động và việc làm, ...vv); phải xác định mục tiêu đạt được về chống ô nhiễm môi trường, bảo tồn các nguồn tài nguyên do những ảnh hưởng của quá trình sản xuất sản phẩm và do những ảnh hưởng trong quá trình sử dụng sản phẩm.
- Lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh cho doanh nghiệp: Lựa chọn đúng lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh là công việc có ý nghĩa quyết định để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải thực hiện các công việc sau:
+ Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, so sánh với lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh được lựa chọn để trả lời các câu hỏi: Lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm kinh doanh được lựa chọn có bị cấm kinh doanh hay không ?, có thuộc đối tượng kinh doanh có điều kiện hay không ?. Lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh chỉ được lựa chọn khi nó không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật và trường hợp lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp phải thoả mãn được đầy đủ các điều kiện đặt ra theo quy định của pháp luật.
Lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh cho doanh nghiệp ngoài việc căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, cần nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể và xu thế phát triển của thị trường quốc tế để tranh thủ giành những ưu thế từ phía nhà nước cho doanh nghiệp và tránh được rủi ro trong tiến trình hội nhập nền kinh tế.
+ Dự đoán nhu cầu thị trường về sản phẩm doanh nghiệp lựa chọn để kinh doanh tại thời điểm dự kiến doanh nghiệp đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường. Dự đoán nhu cầu thị trường là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ tồn tại khi sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được với giá cả dự kiến, trường hợp ngược lại doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ và phá sản. Dự đoán nhu cầu thị trường phải căn cứ vào mức thu nhập và tập quán tiêu dùng của dân cư của từng vùng (sản phẩm đưa ra thị trường phải có giá cả phù hợp với mức thu nhập của người tiêu dùng phù hợp với tập quán và thói quen tiêu dùng của dân cư ở từng vùng); dự đoán nhu cầu thị trường phải cụ thể theo thời gian và không gian của thị trường tiêu thụ, một sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường chỉ trong từng giai đoạn cụ thể theo từng khu vực cụ thể.
Doanh nghiệp là người cung cấp sản phẩm hàng hoá cho nhu cầu của thị trường, tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh quyết liệt vì vậy dự đoán nhu cầu thị trường phải dự đoán những đối thủ tham gia cạnh tranh khi sản phẩm được đưa ra thị trường, phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh để xây dựng chiến lược cạnh tranh hợp lý và lành mạnh nhằm tạo ra những ưu thế trong cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần cao cho doanh nghiệp.
Do những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật tác động đến các ngành sản xuất công nghiệp, khi dự đoán nhu cầu, cán bộ quản lý doanh nghiệp cần dự đoán chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường để tung sản phẩm ra thị trường ở những thời điểm thích hợp phù hợp với chu kỳ phát triển của sản phẩm; đồng thời phải tính đến những phương án cải tiến kỹ thuật, thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm và chuyển hướng sản xuất sản phẩm vào những thời điểm thích hợp nhất để luôn thích nghi xu thế phát triển của nhu cầu tiêu dùng.
+ Dự đoán nguồn cung cấp vật tư cho sản xuất sản phẩm để đảm bảo việc duy trì sản xuất thường xuyên và ổn định. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp là mỗi loại sản phẩm được sản xuất ra phải sử dụng một hoặc một số loại vật tư nhất định, vì vậy để đảm bảo cho sản xuất được duy trì ổn định với giá thành hợp lý cần phải tính toán đến các nguồn cung cấp vật tư cho sản xuất một cách chủ động, ổn định cả về lượng và về giá cả; đồng thời phải tính đến các nguồn vật tư dự phòng, vật tư thay thế để duy trì và ổn định sản xuất cho doanh nghiệp trong các tình huống không thuận lợi.
- Lựa chọn công nghệ sản xuất: Công nghệ sản xuất được sử dụng trong suốt quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp, là yếu tố quyết định đến quy mô, chất lượng và giá thành sản phẩm sản xuất ra, quyết định đến các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vật tư sử dụng). Đầu tư cho công nghệ sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư và tốc độ quay vòng vốn chậm, việc thay đổi hoặc cải tiến công nghệ sản xuất thường kéo theo những khoản chi phí đầu tư khác (chi phí cải tạo, nâng cấp tài sản cố định có liên quan, chi phí đào tạo nhân công, chi phí do thay đổi vật tư sử dụng, ...vv); mặt khác cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất không ngừng cải tiến và hoàn thiện làm cho những công nghệ sản xuất ra đời trước bị hao mòn vô hình một cách nhanh chóng, do vậy lựa chọn công nghệ sản xuất phải cân nhắc kỹ lưỡng đến các thông số kỹ thuật như: tính năng tác dụng, mức độ tự động hoá, công suất thiết kế, vật tư sử dụng, khả năng cải tạo và nâng cấp, mức độ ô nhiễm môi trường, ...vv để tính toán các phương án khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả.
- Lựa chọn địa điểm sản xuất: Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp được đầu tư lâu dài và ổn định ở một vị chí cố định, việc di chuyển địa điểm sản xuất ảnh hưởng rất lớn tới vốn đầu tư và sự hoạt động của doanh nghiệp, do vậy lựa chọ một địa điểm kinh doanh hợp lý trong một môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định là tiền đề để tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Khi lựa chọn địa điểm sản xuất phải tính đến các yếu tố thuận lợi về môi trường, về nguồn cung cấp lao động kỹ thuật, về nguồn cung cấp vật tư cho sản xuất, về điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, các dịch vụ điện, nước, thông tin liên lạc phục vụ sản xuất, các dịch vụ cho người lao động, ...vv), về tiêu thụ sản phẩm, ...vv, về môi trường pháp lý và các dịch vụ công khác có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá và lựa chọn mục tiêu kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm kinh doanh, công nghệ sản xuất và địa điểm sản xuất, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải xây dựng một lộ trình thực hiện kế hoạch kinh doanh, phân công nhiệm vụ cho các cá nhân phụ trách từng khâu công việc, tính toán nguồn vốn cho các hoạt động kinh doanh theo kế hoạch.
+ Về thời gian, phải xây dựng lộ trình thực hiện kế hoạch kinh doanh một cách khoa học và hợp lý, bao gồm: trình tự thực hiện các khâu công việc, tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh nói chung và tiến độ thực hiện từng khâu công việc trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh (tiến độ đào tạo nguồn nhân lực; tiến độ chuẩn bị nguồn vốn đầu tư; tiến độ đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho tàng; tiến độ lắp đặt dây truyền công nghệ sản xuất, tiến độ cung ứng vật tư; tiến độ sản xuất sản xuất sản phẩm; thời gian dự trữ sản phẩm hàng hoá và tiến độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, ...vv).
+ Về nhân sự, phải dự kiến những chuyên gia có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần thiết, dự kiến chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ để bố trí phụ trách những khâu công việc cụ thể phù hợp với năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng người (cán bộ phụ trách kỹ thuật, phụ trách các vấn đề về tài chính, kế toán và thống kê, phụ trách bộ phận cung ứng vật tư cho sản xuất, phụ trách bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm, phụ trách bộ phận tiếp thị, quảng cáo, bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng, ...vv); đồng thời dự kiến nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công nhân kỹ thuật để sử dụng phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp và các đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện các khâu công việc khác có liên quan đến các hoạt động kinh doanh.
+ Về tài chính, phải tính toán chính xác, chi tiết và cụ thể vốn đầu tư cho từng nội dung đầu tư, từng giai đoạn đầu tư, cho toàn bộ hoạt động kinh doanh các khoản đầu tư và nguồn vốn cho đầu tư một cách chi tiết theo từng giai đoạn thực hiện kế hoạch (vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư công nghệ sản xuất; cho thu mua và dự trữ vật tư; cho đào tạo nhân lực và trả lương cho công nhân viên; cho dự trữ sản phẩm, quảng cáo, tiếp thị, bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng; ...vv); xác định các nguồn vốn được huy động cho việc đầu tư kinh doanh, xác định tiến độ huy động vốn và các khoản chi phí về vốn đầu tư (lãi suất huy động vốn trả cho các chủ sở hữu vốn), đồng thời xác định điểm hoà vốn, thời điểm hoàn vốn và dự kiến lợi nhuận của hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, khi xây dựng kế hoạch kinh doanh, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải tính đến những biến, những thay đổi có thể xẩy ra và xây dựng các phương án điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh.
Sau khi lựa chọn một phương án kế hoạch kinh doanh cho doanh nghiệp được xây dựng một cách chi tiết, có cơ sở và căn cứ khoa học và có tính khả thi cao, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải triển khai các bước tiếp theo đó là tổ chức thực hiện kế hoạch, điều phối các hoạt động kinh doanh và tổ chức kiểm tra việc thực hiện kế hoạch kinh doanh.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh: Sau khi kế hoạch kinh doanh được xây dựng, được kiểm tra, cán bộ quản lý doanh nghiệp triển khai giai đoạn tiếp theo là tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh. Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh thực chất "Là liên kế các cá nhân, các đơn vị, các quá trình và các hoạt động trong doanh nghiệp dựa trên những nguyên tắc quản trị kinh doanh và nguyên tắc của khoa học tổ chức nhằm thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra của doanh nghiệp". Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh phải đi sâu vào các vấn đề cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề chủ yếu về phân công nhiệm vụ từng người ai làm việc gì và làm như thế nào không chỉ về quản trị kinh doanh mà còn về các lĩnh vực sản xuất cụ thể. Nội dung công việc cần thực hiện và hoàn thành trong giai đoạn này bao gồm:
+ Những công việc về tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp xét từ góc độ chủ thể quản lý gồm:
Tổ chức bộ máy quản lý gồm những vấn đề về: cơ cấu của bộ máy quản lý doanh nghiệp (gồm việc xác định mô hình cấu tạo của bộ máy quản lý với các khâu quản lý chức năng, các cấp quản lý và mối quan hệ giữa các bộ phận của bộ máy quản lý); chức năng nhiệm vụ và nhân sự cho công tác quản lý;
Tổ chức quá trình quản lý gồm tổng thể các hoạt động của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý theo một trình tự về thời gian và theo thứ tự về công việc cần phải giải quyết nhất định để đảm bảo kết quả tốt nhất cho doanh nghiệp (quản lý bằng các quyết định, quản lý công việc sản xuất - kinh doanh và quản lý con người).
+ Những công việc tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp xét từ góc độ phân hệ bị quản lý là sự tổ chức phối hợp giữa những người lao động với nhau và giữa những người lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Nội dung công việc của giai đoạn này bao gồm:
Tổ chức cơ cấu sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cơ cấu đội ngũ lao động sản xuất bao gồm: tổ chức cơ cấu sở hữu doanh nghiệp (cơ cấu một thành phần sở hữu doanh nghiệp, cơ cấu đa thành phần sở hữu doanh nghiệp); tổ chức cơ cấu sản phẩm và dịch của doanh nghiệp là căn cứ vào nhu cầu thị trường, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước, căn cứ vào chiến lược kinh doanh và thực lực của doanh nghiệp để xác định cơ cấu các chủng loại sản phẩm và dịch vụ được doanh nghiệp sản xuất và tỷ trọng của từng loại trong tổng giá trị sản phẩm làm ra; tổ chức cơ cấu nguồn lực của doanh nghiệp gồm: cơ cấu về vốn sản xuất kinh doanh (cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu sử dụng vốn), về cơ cấu về về tổ chức nhân lực (theo lĩnh vực sản xuất kinh doanh, theo lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ, theo trình độ nhân lực, theo tuổi đời tuổi nghề và giới tính, ...vv). cơ cấu về tổ chức công nghệ (theo chủng loại công nghệ, theo trình độ công nghệ, ...vv), cơ cấu vật tư cho sản xuất (cơ cấu về chủng loại vật tư, cơ cấu phân phối vật tư cho các bộ phận và các quá trình sản xuất kinh doanh, về cơ cấu chủng loại vật tư dự trữ và sử dụng cho sản xuất, ...vv), cơ cấu về thông tin (theo chủng loại thông tin, theo nguồn phát sinh và theo mức độ quan trọng của thông tin, ...vv).
Tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm các nội dung về tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm vật chất (tổ chức cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất, tổ chức quá trình gia công chế biến sản phẩm, tổ chức quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá); tổ chức quá trình lưu chuyển của tiền tệ (quá trình lưu chuyển tiền tệ trong giai đoạn đầu tư tài sản cố định, quá trình lưu chuyển của vốn lưu động trong giai đoạn sản xuất kinh doanh và quá trình lưu chuyển của các dòng tiền tệ khác), tổ chức quá trình thông tin (bao gồm các thông tin nói chung và thông tin cụ thể cho quá trình sản xuất kinh doanh).
- Chỉ đạo và điều phối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Chỉ đạo và điều phối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý một cách thường xuyên trong mquá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên các kế hoạch đã định trước và các tình huống xẩy ra đột xuất nhằm đạt được những mục tiêu đã được đề ra một cách tốt nhất. Thực chất của việc chỉ đạo và điều phối là quá trình điều khiển hoạt động theo kế hoạch. Nội dung công việc cần thực hiện của cán bộ quản lý doanh nghiệp trong khâu này bao gồm: việc nghiên cứu kỹ lưỡng những nhiệm vụ kế hoạch được giao, nghiên cứu tình hình thực tế và dự các biến cố đột xuất có thể xẩy ra trong quá trình hoạt động; đưa ra các mệnh lệnh thực hiện căn cứ vào các nhiệm vụ định trước trong kế hoạch kinh doanh hoặc đưa ra các mệnh lệnh thực hiện khi có các biến cố đột xuất; theo dõi và kiểm tra thường xuyên việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, đối chiếu, so sánh giữa thực tế thực hiện và kế hoạch để đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời; phối hợp, động viên và kích thích các bộ phận hợp đồng hành động theo một mục đích chung đã định trước trong kế hoạch. Để thực hiện tốt nội dung công việc trên đây, cán bộ quản lý doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng tới công tác thu thập thông tin và xử lý thông tin trong suốt quá trình thực hiện.
- Tổ chức công tác kiểm tra và tổng kết việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp: Nội dung công việc thực hiện trong khâu này của cán bộ quản lý là: Kiểm tra thực hiện kế hoạch kinh doanh và tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và kết quả thực hiện kế hoạch kinh doanh.
+ Kiểm tra thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh là việc so sánh giữa phương án kinh doanh đề ra trong kế hoạch kinh doanh với việc thực hiện kế hoạch kinh doanh theo thực tế để phát hiện kịp thời các sai lệch, từ đó đề ra các biện pháp điều chỉnh, sửa chữa kịp thời (bao gồm cả việc điều chỉnh và sửa chữa kế hoạch kinh doanh ban đầu nếu thấy cần thiết).
Công tác kiểm tra thực hiện kế hoạch kinh doanh nhằm giải quyết nhiệm vụ chung là đảm bảo tới mức tối đa sự phù hợp giữa thực tế và kế hoạch được xây dựng, đảm bảo sự điều chỉnh kịp thời kế hoạch đề ra và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; nhiệm vụ cụ thử của bộ phận kiểm tra là phát hiện những sai lệch giữa thực tế và kế hoạch, giải trình các sai lệch và đưa ra phương án xử lý các sai lệch đó một cách kịp thời và hợp lý nhất.
Công tác kiểm tra thực hiện kế hoạch kinh doanh cần được tổ chức từ khâu xây dựng chiến lược kinh doanh, kiểm tra việc lập kế hoạch kinh doanh, kiểm tra trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh (kiểm tra công tác tổ chức thực hiện kế hoạch, việc điều hành và phối hợp thực hiện kế hoạch kinh doanh. Quy mô kiểm tra có thể tổ chức kiểm tra toàn diện các hoạt động, có thể kiểm tra từng nội dung kế hoạch. Phương thức tiến hành kiểm tra có thể thực hiện kiểm tra theo phương thức tự kiểm tra, có thể tổ chức kiêm tra chéo giữa các bộ phận, có thể kiểm tra từ bên ngoài hoặc có thể theo phương thức tự kiểm tra. Kết quả kiểm tra là cơ sở để thực hiện việc điều hành, điều chỉnh kế hoạch để đạt được kết quả cao nhất cho hoạt động kinh doanh.
+ Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và kết quả thực hiện kế hoạch kinh doanh. Trong từng giai đoạn thực hiện kế hoạch kinh doanh, cần có sự tổng kết, đánh giá việc thực hiện kế hoạch của các bộ phận sản xuất kinh doanh để xem xét những việc đã làm được, những việc chưa thực hiện được hoặc thực hiện chưa tốt để có những biện pháp khắc phục. Sau khi hoàn thành quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh, phải đánh giá và tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh. Việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phải được thực hiện trên tất cả các mặt về hiệu quả đầu tư, hiệu quả quản lý sản xuất, hiệu quả kinh tế chung đạt được (bao gồm hiệu quả về kinh tế, hiệu quả về chính trị - xã hội, hiệu quả về môi trường); đánh giá về chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường; đánh giá hiệu quả đầu tư vốn, ...vv, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho các chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo và xác định chiến lược phát triển tiếp theo cho doanh nghiệp.
IV. Những kiến thức cần có của cán bộ quản lý sản xuất
Từ những nội dung công việc của cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặt ra cho một cán bộ quản lý doanh nghiệp sản xuất công nghiệp muốn thực hiện được tốt chức năng nhiệm vụ của mình, muốn đạt được hiệu quả quản lý kinh doanh đạt được những mục tiêu như mong muốn cần được trang bị một cách thường xuyên và có hệ thống các kiến thức chuyên môn về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, các kiến thức về khoa học quản lý kinh doanh, các kiến thức về pháp luật và các kiến thức khác có liên quan.
1. Kiến thức về chuyên môn về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Đối với cán bộ quản lý sản xuất trước hết phải có những kiến thức (những hiểu biết) đầy đủ về lĩnh vực, ngành nghề doanh nghiệp mình kinh doanh. Hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh là điều kiện tiên quyết để đề ra mục tiêu kinh doanh và tính toán các yếu tố cần thiết có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cụ thể nhằm xây dựng được chiến lược kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh và kế hoạch kinh doanh phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất thường sản xuất một hoặc một số sản phẩm có tính chất và đặc điểm tương đối đặc trưng vì vậy cán bộ quản lý phải hiểu biết sản phẩm đó có tính năng tác dụng như thế nào ?, được sản xuất bằng những công nghệ nào ?, sử dụng nguyên vật liệu gì để sản xuất sản phẩm ?, sử dụng nguồn lao động có trình độ như thế nào cho phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất ?, tổ chức quy trình sản xuất như thế nào để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất ?, ...vv. Trên cơ sở hiểu biết về tính năng, tác dụng của sản phẩm sản xuất, công nghệ sản xuất sản phẩm và nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm, ...vv, cán bộ quản lý sản xuất sẽ lựa chọn và quyết định phương án sản xuất sản phẩm, lựa chọn công nghệ sản xuất, lựa chọn nguyên liệu để sản xuất sản phẩm và tổ chức quy trình sản xuất sản phẩm, tổ chức đào tạo công nhân kỹ thuật, tổ chức dây truyền sản xuất sản phẩm, ...vv. Ví dụ, một cán bộ quản lý sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất xe ô tô, những kiến thức về chuyên môn anh ta cần có là sản phẩm ô tô do gồm có những loại gì (là xe tải, xe chở khách, xe du lịch hay các loại xe chuyên dùng), tính năng tác dụng và cấu tạo kỹ thuật của từng loại xe và sự khác nhau về tính năng tác dụng của từng loại xe đó như thế nào; anh ta cần phải có hiểu biết về công nghệ sản xuất ô tô hện nay trên thế giới và trong nước đang sử dụng (hiểu biết về mức độ tự động hoá của công nghệ, về công xuất thiết kế của công nghệ, về trình độ của công nhân kỹ thuật để sử dụng công nghệ, về chi phí đầu tư cho công nghệ, về khả năng cải tiến cải tiến công nghệ, về chất lượng sản phẩm do công nghệ tạo ra nghệ, về nguyên vật liệu và khả năng thay thế nguyên vật liệu do công nghệ sử dụng để sản xuất sản phẩm, ...vv) từ đó lựa chọn công nghệ phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật, phù hợp với khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, phù hợp với nguồn vốn đầu tư, với trình độ quản lý và sử dụng công nghệ của doanh nghiệp và phù hợp với khả năng cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất, ...vv.
2. Kiến thức quản lý kinh doanh: Kiến thức về quản lý có ý nghĩa đặc mbiệt đôío với cán bộ quản lý sản xuất, một cán bộ quản lý sản xuất giỏi không thể không nắm vững các kiến thức về kho học quản lý một cách có hệ thống. Nội dung kiến thức về khoa học quản lý cán bộ quản lý sản xuất cần nắm vững bao gồm:
+ Kiến thức về môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh là điều kiện không thể thiếu của hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh quyết định tính chất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá giản đơn là môi trường sản xuất và trao đổi hàng hoá giản đơn; môi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tự do, là môi trường cạnh tranh tự do, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị, ...vv; môi trường kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hoá được thực hiện theo kế hoạch tập trung của nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất không cần tính đến các yếu tố, các quy luật của thị trường; môi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ngoài việc tuân theo các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, ...vv các doanh nghiệp sản xuất còn phải tuân thủ các định chế pháp luật và các chính sách kinh tế của nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường và trong lộ trình hội nhập quốc tế, cán bộ quản lý sản xuất phải nắm vững các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường, phải có kiến thức đầy đủ về cạnh tranh trong cơ chế thị trường để tạo ra và giữ vững các ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm tiêu thụ được hàng hoá sản phẩm và tạo ra lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
+ Kiến thức về tổ chức và quản lý kinh doanh: Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp chỉ đạt hiệu quả kinh tế mong muốn nếu doanh nghiệp tổ chức và quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh. Các kiến thức về tổ chức và quản lý kinh doanh bao gồm các kiến thức về xây dựng kế hoạch kinh doanh, về tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, về điều hành phối hợp giữa các bộ phận có liên quan để thực hiện kế hoạch kinh doanh và các kiến thức về tổ chức kiểm tra thực hiện kế hoạch trong quá trình thực hiện và khi kết thúc quá trình thực hiện kế hoạch.
+ Kiến thức về quản lý tài chính: Hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường luôn lấy thước đo giá trị (tiền tệ) để tính toán và đo lường các yếu tố của quá trình sản xuất, để tính toán đo lường hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cán bộ quản lý kinh doanh ngoài các kiến thức về chuyên môn, kiến thức về tổ chức điều hành sản xuất còn phải có kiến thức về cần thiết về tài chính, tiền tệ và tín dụng để tính toán chi phí đầu tư cho sản xuất (đầu tư tài sản cố định, công nghệ sản xuất và đầu tư tài sản lưu động); tính toán các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất); tính toán giá thành sản phẩm dịch vụ; tính toán giá bán sản phẩm và các khoản nghĩa vụ phải nộp ngân sách nhà nước theo chế độ quy định; tính toán kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối kế quả kinh doanh. Những hiểu biết về tiền tệ, tín dụng và thành toán giúp cho cán bộ quản lý sản xuất có khả năng thích ứng với các quan hệ tín dụng, các quan hệ thanh toán với ngân hàng, với người cung cấp, với người mua và với ngân sách nhà nước, ...vv.
Kiến thức về quản lý của cán bộ quản lý phải thường xuyên được cập nhật để đảm bảo tính thích ứng trong hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp của cán bộ quản lý với những thay đổi, những biến động thường xuyên theo xu thế phát triển của khoa học quản lý và của môi trường kinh doanh.
3. Kiến thức về pháp luật: Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua các quy định pháp luật, vì vậy mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các định chế pháp luật của nhà nước. Cán bộ quản lý sản xuất cần có những hiểu biết đầy đủ về hệ thống pháp luật trong kinh doanh như Luật Doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp, các luật thuế (Luật thuế giá trị giá tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ...vv) và các văn bản pháp luật khác.
Ngoài những hiểu biết về hệ thống pháp luật trong kinh doanh, cán bộ quản lý sản xuất phải thường xuyên cập nhật những kiến thức có liên quan đến các chính sách chế độ của nhà nước trong từng giai đoạn để tranh thủ những điều kiện thuận lợi, những ưu thế từ những chính sách kinh tế xã hội của nhà nước và có sự chuyển hướng kịp trong sản xuất kinh doanh.
4. Kiến thức xã hội khác: Để quản lý tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài những kiến thức chuyên môn, kiến thức quản lý và các kiến thức về pháp luật, để tổ chức sản xuất có hiệu quả cán bộ quản lý sản xuất cần có những hiểu biết cần thiết về ckinh tế chính trị học, về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, kiến thức vềxã hội học, về tâm lý lao động, tâm lý tiêu dùng, ...vv để có được một cách nhìn tổng quan từ mọi góc độ khác nhau của các hoạt động kinh doanh.
Kết luận
Kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện đại, một mặt doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt mang tính sống còn với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước, mặt khác phải tuân thủ đầy đủ các định chế pháp luật trong kinh doanh của nhà nước. Sản xuất công nghệp là lĩnh vực sản xuất có tính phức tạp cao về công nghệ sản xuất và tính chất sản phẩm, tính chất cạnh tranh trong sản xuất công nghiệp cũng mang tính quyết liệt và tính toàn cầu hơn so với các ngành sản xuất vật chết khác.
Từ những vấn đề trên đây đặt ra cho cán bộ quản lý sản xuất công nghệi những nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn, họ chỉ có thể vượt qua được khi được trang bị một cách toàn diện và có hệ thống những kiến thức về khoa học quản lý, về chuyên môn của nghiệp vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, những kiến thức về pháp luật trong kinh doanh, những kiến thức xã hội cần thiết khác và phải nắm vững các quy luật kinh tế chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường (quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, ...vv).
Sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế, trong điều kiện sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống xã hội, các kiến thức khoa học quản lý, các điều kiện về công nghệ sản xuất luôn luôn thay đổi đòi hỏi cán bộ quản lý sản xuất phải được cập nhật thường xuyên những kiến thức mới để thích nghi với những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội. Sự tồn tại hay phá sản của một doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ hiểu biết của cán bộ quản lý doanh nghiệp điều đó đặt ra cho cán bộ quản lý một trách nhiệm nặng nề là phải tự mình trang bị những kiến thức cần thiết để thực hiện và hoàn thành tốt những công việc của cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh.
Trường đại học bách khoa hà nội
khoa kinh tế và quản lý
Tiểu luận môn học
Đề tài:
công việc cán bộ quản lý sản xuất cần
thực hiện, hoàn thành và những kiến thức cần có của cán bộ quản lý sản xuất
Học viên: Vương Văn Quang
Đơn vị công tác: Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ KTNN
Lớp: Cao học quản trị kinh doanh - K3
Hà nội, tháng 11 năm 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0125.doc