Qua khuôn khổ bài tiểu luận này, với kiến thức còn hạn chế em mạo muội trình bày sự cần thiết phải có sự điều tiết của chính phủ để hướng nền kinh tế đạt được những mục tiêu mà mọi nền kinh tế luôn theo đuổi là: hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Đặc biệt đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường chứ không phải giảm nhẹ vai trò và chức năng quản lý của chính phủ. Bởi vì chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, đi sâu vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị-kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của chính phủ càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa. Vấn đề then chốt ở đâylà ở chỗ phương thức quản lý như thế nào để vận dụng đầy đủ các yêu cầu, quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường nhưng lại đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế vận động theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, đất nước ta đang trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “thì sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của chính phủ là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của nền kinh tế nước ta.
40 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cụ thể hoá vị trí kinh tế của chính phủ ở nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn từng bước công nghiệp hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n luật quy định riêng cho các loại hình kinh doanh khác nhau mà còn đề nghị cho phép hình thành các mối quan hệ đối tác, cho phép các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoạt động như công ty. Bộ luật mới gửi tới khu vực tư nhân một thông điệp quan trọng, đó là Chính phủ thực sự khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. Thực hiện luật này một cách hiệu quả là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, trước mắt các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và như vậy làm chậm lại quá trình cải cách.
Nếu Chính phủ muốn chuyển một cách hiệu quả sang một nền kinh tế hướng về thị trường nhiều hơn, ngay cả khi các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực nhất định, thì khuôn khổ pháp lý cần được tiếp tục tăng cường hơn nữa để cho phép khu vực tư nhân gánh vác trách nhiệm của nó và trở thành động lực tăng trưởng của đất nước. Một khu vực tư nhân thịnh vượng có thể là lối thoát và con đường để thu nhận những công chức dư thừa vào các hoạt động kinh tế. Bằng cách đó nó hỗ trợ cho công cuộc cải cách hành chính và tinh giản bộ máy Nhà nước. Chuyển giao cho khu vực tư nhân một số chức năng hiện đang được đảm nhiệm bởi Chính phủ với chi phí cao không những tạo động lực cho khu vực tư nhân mà còn tiết kiệm và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn kinh phí công cộng.
Thách thức chủ yế đối với Chính phủ trong việc khuyến khích khu vực tư nhân là làm sao đảm bảo đối xử công bằng giữa khu vực này với khu vực Nhà nước. Khi nguyên tắc này đã được đưa vào trong khuôn khổ pháp lý, thì vấn đề cấp bách là đối xử công bằng phải được thực hiện trên thực tế, chẳng hạn trong lĩnh vực cho vay tín dụng.
3. Xã hội dân sự.
Nâng cao quyền lực và sự tham gia của dân.
Bên cạnh việc cải tổ cơ cấu và chức năng của Chính phủ và tạo môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân, việc nâng cao chất lượng quản lý quốc gia còn phụ thuộc vào việc tăng cường sự tham gia của dân ở tất cả các cấp. Để thực hiện điều này, Chính phủ đã giành ưu tiên cao cho việc nâng cao tính công khai minh bạch trong các cơ chế và chức năng của mình cũng như việc tăng cường sự tham gia của những công dân bình thường vào công tác quản lý quốc gia. Nghị định 29/CP về quy chế dân chủ ở cơ sở (1998) đã giao cho chính quyền cấp xã nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo việc thực hiện các quyền của công dân. Nghị định cũng hướng tới việc tăng cường tính minh bạch của chính quyền cấp cơ sở, yêu cầu cung cấp cho các hộ gia đình các thông tin về hoạt động của chính quyền cơ sở và tài chính. Việc thực hiện nghị định này mới ở bước đầu và vẫn còn nhiều lĩnh vực phải triển khai trong việc tăng cường sự tham gia cũng như nâng cao quyền lực của công chúng, đặc biệt đối với những người trước đây không có điều kiện tham gia đóng góp ý kiến và tiếp cận với các hệ thống quản lý quốc gia. Yếu tố mấu chốt đề xây dựng các hệ thống quản lý quốc gia có hiệu quả và bền vững là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của xã hội dân sự cũng như sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong xã hội, kể cả phụ nữ và đồng bào các dân tộc ít người.
Chính sách mở cửa của Việt Nam và một số kết quả đổi mới quan trọng gần đây cũng đang góp phần tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho sự lớn mạnh của xã hội dân sự. Những kết quả đổi mới đó bao gồm:
- Việc xây dựng hệ thống pháp quyền, đặc biệt là bộ luật Dân sự.
- Xu hướng tiến tới xây dựng một Chính phủ có tính trách nhiệm, công khai minh bạch và dựa vào sự tham gia của dân ở mức độ cao hơn.
- Cải cách các doanh nghiệp Nhà nước làm cho người lao động và các nhà quản lý trở thành những người chủ của doanh nghiệp.
- Sự xuất hiện của một xã hội thông tin.
- Hội nhập kinh tế thế giới; và
- Xu hướng tăng cường dân chủ ở cơ sở.
Kết quả của những chuyển biến đó là tạo ra ngày càng nhiều các nhóm ngoài quốc doanh hay các tổ chức bán phi chính phủ (các tổ chức phi Chính phủ Việt Nam) đóng vai trò trụ cột chính của xã hội dân sự ở Việt Nam. Hầu hết các nhóm này được thiết lập sau năm 1990 và được củng cố thông qua công cuộc đổi mới. Song hầu hết do tầng lớp trí thức ở đô thị thành lập, trong khi đó chính các vùng nông thôn và vùng khó khăn là nới có xu thế tập trung nhiều hơn những nhóm đối tượng có cùng sở thích và nhu cầu. Mặc dù chưa có nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động ở nông thôn, song các nhóm tiết kiệm và các hợp tác xã kiểu mới, xuất hiện sau khi ban hành Luật Hợp tác xã năm 1997, điều đó có chung một số mục đích phục vụ và hoạt động trên cơ sở phân nhóm đối tượng có cùng sở thích và nhu cầu.
Sự xuất hiện của rất nhiều tổ chức phi Chính phủ ở Việt Nam là một bước chuyển biến đáng khích lệ, song những tổ chức này còn trẻ và còn bị hạn chế bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội cũng như bởi việc thiết một môi trường pháp lý phù hợp. Vì vậy các tổ chức này chưa phát triển được hết các tiềm năng của nó để tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước.
Sự nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam phụ thuộc vào mối quan hệ tương hỗ mang tính cực và xây dựng giữa Chính phủ, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Xã hội dân sự ở Việt Nam chỉ có thể thực sự phát triển nếu chính phủ coi đó như là một đối tác quan trọng trong quá trình phát triển và tạo ra môi trường thuận lợi để xã hội dân sự phát huy vai trò của mình.
Vấn đề giới trong vai trò quản lý quốc gia.
Bình đẳng – một khái niệm cơ sở về quản lý quốc gia tốt – là coi trọng sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong các cơ quan quản lý cũng như các biện pháp quản lý mang tính nhạy cảm về giới. Sự bình đẳng nam nữ về mọi phương diện đã từ lâu được hiến pháp Việt Nam chính thức công nhận. Về phương diện tham gia vào cơ cấu chính trị. Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu của Chính phủ về việc tăng số lượng cán bộ nữ ở tất cả các cấp chính quyền. Hiện nay, số đại biểu nữ trong Quốc hội đã tăng từ 18,5% (trong khoá trước) lên 26,2%, cao hơn so với một số nước phát triển. Mặc dù vị thế của phụ nữ cũng như mức độ công nhận vai trò tham gia và quyền lợi của phụ nữ trong cơ cấu quản lý quốc gia đã được nâng cao nhờ có quyết tâm chính trị mạnh mẽ và nhất quán, song vẫn tồn tại một khoảng cách khá lớn giữa nam và nữ. Tuy sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của Đảng cũng như các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đã tăng lên, song nam giới vẫn chiếm hầu hết những vị trí có mức độ ảnh hưởng lớn nhất. Trong công tác quản lý công cộng, tỷ lệ tham gia của nữ cũng rất thấp. Điều đáng lưu ý là càng xuống gần cấp cơ sở ở dưới thì sự tham gia của phụ nữ vào các cơ cấu quản lý càng giảm. Cần phải tiếp tục thay đổi các thể chế và thái độ nhằm đáp ứng những kỳ vọng nêu ra trong kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Bên cạnh việc giải quyết tình trạng bất cân đối về giới trong cơ cấu quản lý quốc gia, còn phải lưu ý các vấn đề giới liên quan tới quy trình quản lý quốc gia. Các chương trình phát triển của quốc gia cần phải mang tính nhạy cảm về giới trên cơ sở cải tiến việc thiết kế và xác định mục tiêu của chương trình, các hoạt động dự án cụ thể, cơ chế cũng như tổ chức thực hiện. Những chương trình này cũng cần phải khuyến khích sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trong các hoạt động lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, giám sát và đánh giá.
4.Vấn đề cần giải quyết.
- Tiếp tục làm rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, củng cố vai trò định hướng, ra chính sách và giám sát (cầm lái) của Nhà nước và chuyển một phần chức năng thực hiện (chèo thuyền) cho các khu vực khác để Nhà nước có thể tập trung đưa ra định hướng rõ ràng hơn cho quá trình cải cách.
- Khuyến khích đối thoại chính sách nhiều hơn giữa các trụ cột trong hệ thống quản lý quốc gia để các bên có thể hiểu rõ hơn nữa vai trò của mình trong một nền kinh tế hướng nhiều hơn nữa về thị trường và đảm đương tích cực trách nhiệm với sự phát triển và tăng trưởng của đất nước.
- Tăng cường năng lực của các bên để thực hiện các nghĩa vụ xã hội của mình.
a) Nhà nước.
- Xây dựng và thực hiện một chiến lược cải cách hành chính chung để tiếp tục sắp xếp lại tổ chức, tinh giản và tăng cường hiệu quả tính công khai minh bạch của bộ máy chính phủ, đặc biệt chú trọng đến việc nghiên cứu toàn diện về thể chế, tính hiệu quả về chi phí, phân cấp và chất lượng cung ứng các dịch vụ công cộng ở cả trung ương và địa phương.
- Thúc đẩy phân cấp qua việc trao quyền ra quyết định, và trao các nguồn lực cần thiết để thực hiện các quyết định đó, tới các cấp chính quyền thích hợp, đơn giản hoá thủ tục báo cáo, và tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương.
- Tăng cường chất lượng phân tích chính sách, hoạch định chính sách và lập kế hoạch ở trung ương và địa phương.
b) Khu vực tư nhân.
- Công nhận và khẳng định một cách chính thức rõ ràng vai trò đặc biẹt quan trọng của khu vực tư nhân đối với công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm trong nước và sự phát triển bền vững trong tương lai là cần thiết để xoá bỏ các rủi ro và tính không ổn định mà công tác kinh doanh đang phải đối mặt.
- Cải cách và phát triển một hệ thống ngân hàng dựa và thị trường và có tính hiệu quả nhằm bảo đảm tín dụng được phân bổ vào các doanh nghiệp bền vững, hoạt động có lãi và tạo ra được công ăn việc làm.
- Tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là hạn chế việc cung cấp tín dụng ngân hàng theo chỉ đạo của Nhà nước cho các doanh nghiệp này nhằm giải phòng vốn, đất đai và nguồn nhân lực có tay nghề cao cho khu vực tư nhân.
- Tăng đáng kể đầu tư vào công tác đào tạo các kỹ năng kinh doanh và các khoá đào tạo thực hành liên quan tới vấn đề này.
- Qua việc tiếp tục hỗ trợ chính sách, soạn thảo và thực thi luật, tạo một môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài và khuyến khích vai trò của khu vực tư nhân như là động lực tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.
- Tăng cường năng lực của các tổ chức của khu vực tư nhân như Phòng Thương mại và Công nghiệp để tham gia một cách tích cực vào các cuộc thảo luận chính sách.
- Thúc đẩy quan hệ đối tác giữa Chính phủ và các tổ chức thuộc khu vực tư nhân.
c) Xã hội dân sự.
- Tăng cường vai trò và năng lực của các tổ chức xã hội dân sự, như các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức ngành nghề, công đoàn, các viện nghiên cứu và các trường đại học.
- Khuyến khích đối thoại và nhất trí trên cơ sở hợp tác giữa Nhà nước và xã hội dân sự, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội hoá các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Đầu tư vào các phương tiện thông tin và truyền thông ở cấp địa phương, ví dụ thông qua hỗ trợ các phương tiện thông tin đại chúng và các tờ báo tiếng địa phương ở cộng đồng, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý quốc gia.
- Thể chế hoá các cơ cấu đảm bảo nam nữ ở mọi cấp (từ cấp xã lên cấp trung ương) và từ tất cả các nguồn gốc – dân tộc thiểu số, người tàn tật, và người rất nghèo - được tham gia vào thiết kế và thực hiện các hoạt động phân cấp và quản lý quốc gia.
* Tiếp tục củng cố Nhà nước pháp quyền bằng cách:
- Tăng cường năng lực của cơ quan lập pháp (Quốc hội) và tư pháp (Toà án và Viện kiểm sát).
- Cải thiện chất lượng của quá trình soạn thảo luật, đặc biệt là hình thành các mối quan hệ trực tiếp với quá trình phân tích chính sách nhờ tham khảo ý kiến bên ngoài, và cải tiến quá trình thẩm định và đánh giá.
- Giảm phạm vi hiểu luật một cách tuỳ tiện của cơ quan Nhà nước nhờ những hướng dẫn rõ ràng hơn cách áp dụng luật ở các cấp, và giám sát chặt chẽ hơn của Quốc hội.
- Cải tiến việc phổ biến pháp luật, khuyến khích sự tuân thủ pháp luật và củng cố việc thực thi pháp luật.
* Tăng cường tính công khai và trách nhiệm giải trình trước dân đối với mọi cấp chính quyền thông qua việc cải thiện các công cụ lập kế hoạch, giám sát và báo cáo (chẳng hạn như chương trình đầu tư công cộng, đánh giá chỉ tiêu công và khuôn khổ chi tiêu trung hạn), cải tiến công tác thu thập và xử lý số liệu, tăng cường công tác kiểm toán một cách có hệ thống và qua việc chia sẻ thông tin dữ liệu cho công chúng thường xuyên. Đồng thời tiếp tục đấu tranh chống tham nhũng và sai phạm trong quản lý để xây dựng lòng tin vào hệ thống quản lý quốc gia.
II. Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn"Công Nghiệp và hiện đạI hoá -" đất nước:
1. Vai trò Chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ra.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, Chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thư hai, chính phủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của Chính phủ, phi nhà nước hoá. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế , dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 1929 – 1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của Chính phủ chính là lạm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh tế phát triển có hiệu quả. Từ đó liên hệ tới vai trò của Chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá”.
Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế” của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NICs. Có người đã nhấn mạnh đến yêu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản. Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật Bản. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của Chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu Chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục”. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở Châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giàu nhất Châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đô la Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia Châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tại hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say”.
Các quốc gia như Nhật Bản và NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của Chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một Nhà nước mạnh, Nhà nước đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của Chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, lụat pháp v.v...
Thực tế ở Việt Nam cho thấy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế Nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; ptkt kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường v.v... Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rời vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoàng sâu sắc. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hoá hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp, v.v... nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lên thoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của Chính phủ đặc biệt quan trọng. Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của Chính phủ là mạnh và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá” này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một Chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của Chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chiến lược đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ Chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng như nội dung quản lý mà Chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay Chính phủ thực hiện vai trò vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau:
- Điều khiển vĩ mô nền kinh tế.
- Quản lý ngân sách Nhà nước.
- Hoạt động kinh tế.
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường.
Nghiên cứu về vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở các nước đang phát triển, hai nhà nghiên cứu người Anh là Helen Shapiro Lance Taylor đã khái quát chiến lược quản lý của Chính phủ đối với công nghiệp trong 11 điểm sau:
- Trong mọi trường hợp, Chính phủ chỉ nên định hướng chung mà không trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp.
- Chính phủ tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc cho các doanh nghiệp.
- Chính phủ cung cấp vốn liên doanh cho các xí nghiệp mới, thường là ở các lãi suất thuận lợi đối với họ.
- Chính phủ hỗ trợ cho “các ngành công nghiệp đột phá”.
- Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Chính phủ phải có quyền lực (và cả ý chí) cắt bỏ sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn đề ra.
- Bản thân các tiêu chuẩn phải rõ ràng và không phức tạp.
- Lợi ích của những người gánh chịu các khoản chi phí do thực hiện các chính sách cần phải được chú ý.
- Có sự phân công sản xuất giữa xí nghiệp công cộng, xí nghiệp tư nhân và cá thể các công ty xuyên quốc gia. Xí nghiệp công cộng tốt nhất là hoạt động trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các ngành công nghiệp “cơ sở” và các lĩnh vực có những đặc biệt trong thực hiện.
- Chú ý tới đào tạo và y tế.
- Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của Nhà nước phải được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân.
- Tránh mọi sự không rõ ràng.
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được phát triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động đang có xu hướng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá như là một phương thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nước có một sứ mạng hết sức quan trọng trong việc phát huy nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn chưa được toàn dụng và đang trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào những ngành sản xuất và dịch vụ cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức ép về công ăn việc làm đang căng thẳng trong xã hội, để rồi khi sức ép này không còn gay gắt nữa , trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào các ngành khác, loại công nghệ khác. Quan điểm như vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.
Chính phủ hướng vào cơ cấu nghiên cứu nhiều tầng với sự định hướng vào những công nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Quá trình công nghiệp hoá đất nước một mặt hướng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp bách hiện tại , nhưng đồng thời cũng phải hướng tới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho tương lai gần (10-20 năm) và tương lai xa (20-30 năm). Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hướng hiện đai. Cơ cấu xã hội, phân công lao động xã hội không chỉ là chất kết dính các ngành kinh tế với nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và định hướng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản xuất còn nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm trọng, 75% lực lượng lao động xã hội tập trung ở nông thôn và mức độ trang bị công cụ lao động, trình độ tay nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong những năm trước mắt vẫn cần phát triển những công nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội nhanh. Những công nghệ như vậy được kết hợp với nguồn lao động xã hội còn đang dư thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản phẩm đáp ứng ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trường trong nước.
Chính phủ đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Khác với trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiển diện về cơ bản chỉ một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nước ta đang tiến hành dưới tác động của cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong nhiều năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến bên ngoài thì một môi trường đầu tư phát triển công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài. Kinh nghiệm quốc tế và nước ta cho thấy rằng, một đồng vốn ngoại tệ đầu tư bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tương đương tiền trong nước đi kèm.
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường đặt ra một loạt vấn đề xã hội cần được xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phương thức để phát triển kinh tế. Sự phát triển có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho mọi người trong xã hội nhất là những người nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá là phân phối kết quả của phát triển kinh tế thông qua công nghiệp hoá đến được với mọi người dân trong xã hội, mọi vùng, mọi khu vực của đất nước. Quan điểm về sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu nâng cao vai trò tích cực của Nhà nước trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hoá.
2. Quá trình chuyển đổi
Sau thống nhất hai miền Nam Bắc, đất nước đã phải đương đầu với hai thách thức to lớn: Khắc phục hậu quả chiến tranh và thống nhất về kinh tế. Trong những năm sau đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung, đã từng thực hiện ở miền Bắc, được mở rộng trong cả nước với ý kiến tư vấn và hỗ trợ của Liên Xô (cũ) và các nước khác trong Hội đồng tương trợ Kinh tế.
Đến giữa thập kỷ 80, những yếu kém của mô hình kế hoạch hoá tập trung đã bắt đầu hiện rõ. Đất nước bước vào một thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình hình ngày trở lên nghiêm trọng hơn vì nguồn viện trợ từ các nước trong Hội đồng tương trợ Kinh tế dần dần bị cạn kiệt. Để đối phó với cuộc khủng hoảng này, năm 1986 Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định đưa Việt Nam vào con đường đổi mới, nhằm cải tổ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và phân cấp quản lý Nhà nước.
Về mặt kinh tế, quá trình đổi mới có hai trọng tâm chính:
- Thực hiện tự do hoá thị trường ở mức độ đáng kể và thực hiện chính sách mở cửa về thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức.
13 Năm sau khi phát động sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế được kích thích bởi những biện pháp cải cách theo định hướng thị trường đã giúp Việt Nam khắc phục được cú sốc sau khi các nước trong Hội đồng tương trợ Kinh tế chấm dứt viện trợ, vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng trong những năm 80 và đi vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những năm 90. Đối với nhân dân Việt Nam, sự nghiệp hiện đại hoá, tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá nhìn chung đã góp phần nâng cao mức sống của họ. Đáng ghi nhận nhất là tình trạng nghèo đói đã giảm từ mức khoảng 70% vào giữa thập kỷ 80 xuống còn 58% năm 1993 và còn khoảng 38% năm 1998, tính theo mức chuẩn nghèo quốc tế của Ngân hàng thế giới. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, với mức GDP tính theo đầu người là 352 USD năm 1998. Mức sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng chênh lệch, miền núi và vùng xa nơi các dân tộc ít người sinh sống được hưởng rất ít từ công cuộc phát triển.
3. Chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô
Chủ trương cải cách kinh tế vĩ mô nhằm tao điều kiện cho chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước bắt đầu khởi sắc từ năm 1989. Về đối ngoại, từ đó đến nay những biện pháp cải cách cơ bản được khởi xướng bao gồm tự do hoá đáng kể ngoại thương, phá giá đồng tiền, thống nhất tỷ giá hối đoái và thông qua một bộ luật mới nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Về đối nội, nông nghiệp đã chuyển hướng mạnh mẽ từ chế độ canh tác tập thể sang canh tác theo hộ gia đình. Những cải cách chủ yếu về tài chính và ngân sách bao gồm tự do hoá hầu hết giá cả, phát triển hệ thống ngân hàng hai cấp, thực hiện lãi suất dương nhằm khuyến khích tiết kiệm trong nước, xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), và cắt giảm bao cấp và thâm hụt ngân sách Nhà nước. Về mặt pháp lý, những khiếm khuyết lớn khắc phục, ví dụ bằng việc thông qua bộ luật mới về đất đai, luật lao động, luật khuyến khích đầu tư trong nước và xây dựng một hệ hệ thống thuế hiện đại.
Nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng khá cao trong phần lớn thập kỷ 90, với mức GDP tính theo đầu người tăng bình quân hơn 6%/ năm trong cả thập kỷ. Đồng thời, thâm hụt ngân sách và tỷ lện lạm phát đã giảm xuống mức có thể chấp nhận được. Tăng trưởng kinh tế được hỗ trợ mạnh mẽ bởi sự tham gia tăng đầu tư, mở rộng ngoại thương và thu hút được những khối lượng lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức. Sản xuất nông nghiệp cũng được cải cách và Việt Nam đã từ một nước nhập khẩu lúa gạo trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn thứ hai trên thế giới. Những biện pháp cải cách , cùng với đà tăng trưởng kinh tế đã tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho đại bộ phận nhân dân Việt Nam.
Mặc dù đạt được những thành quả kinh tế vĩ mô đầy ấn tượng. Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế và còn cần cải cách nhiều hơn nữa để bảo đảm nền tăng pháp lý và thể chế hco hệ thống kinh tế mới và tạo điều kiện dễ dàng cho sự tăng trưởng của khu vực tư nhân. Chính phủ tiếp tục xây dựng chiến lược để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế theo định hướng thị trường.
Hơn nữa đã xuất hiện dấu hiệu đáng lo ngại về tính bền vững của đà tăng trưởng kinh tế sau khi nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bị giảm sút từ năm 1996. Sự lo ngại này ngày càng tăng lên sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á. Việt Nam đã tránh được phần lớn tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng này - do được bảo vệ bởi tình trạng ít lệ thuộc vào nguồn vốn thanh khoản của nước ngoài, đồng tiền bản địa chưa chuyển đổi và các quy chế về thương mại và đầu tư nước ngoài. Nhưng người ta đã cảm nhận được những tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng. Vốn đầu tư ít hơn, nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm sút và khả năng cạnh tranh với các "đối thủ" Châu á suy yếu, kết hợp với sự dè dặt về chiều hướng và tốc độ của tiến trình cải cách - tất cả đã góp phần làm suy giảm đáng kể đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Những yếu kém nội tại về cơ cấu, khó nhìn thấy bởi tỷ lệ tăng trưởng cao trong những năm vừa qua, có thể sẽ bộc lộ ngày càng nhiều hơn cùng với đà tăng trưởng kinh tế giảm dần. Cùng với tình trạng ngày càng khan hiếm "đồng vốn dễ dàng" của các nhà đầu tư và cho vay nước ngoài, những xu hướng xấu này có thể làm nguy hại đến lợi ích lâu dài. Tình hình đó nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư nguồn vốn quý hiếm một cách cẩn thận hơn và cần tiếp tục cải cách nhăm bảo đảm cho đà tăng trưởng kinh tế được bền vững và nhằm duy trì những thành quả đã đạt được về phát triển con người.
Đặc biệt, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thấp hơn càng khẳng định sự cần thiết phải cải cách ngành ngân hàng và tài chính. Điều này là rất cần thiết để tránh tình trạng tích tụ những khoản vay nợ không có hiệu quả, cải thiện sự phân bổ các nguồn vốn, hỗ trợ sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân và tạo kinh tế mở cửa dần dần để đón nhận các dòng chu chuyển tài chính quốc tế. Cần phải thực hiện kiểm toán nghiêm ngặt hơn đối với các DNNN cũng như các ngân hàng trong nước, nhằm đánh giá một cách khách quan chất lượng các khoản đầu tư và cho vay hiện nay, và để xác định mức vốn phù hợp và để xử lý các khoản cho vay kém hiệu quả (UNDP, 1998).
Cũng cần phải cải cách tài chính công nhằm bảo đảm cho hệ thống thuế không gây tác hại đối với môi trường kích thích phát triển doanh nghiệp và đầu tư, đồng thời để bảo đảm cho hệ thống thuế cung cấp đủ nguồn thu ngân sách Nhà nước.
4. Toàn cầu hoá hội nhập
Hiện nay, người ta đang rất chú ý quan sát những nỗ lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập hơn nữa với nền kinh tế thế giới, thông qua việc tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương, khu vực và song phương. Là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) từ năm 1995 và của Diễn đàn Hợp tác Châu á - Thái bình dương (APEC) từ năm 1998, Việt Nam đang trong qúa trình đàm phán Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ và đang chuẩn bị cho việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc thương lượng và ký kết các thoả thuận này là sự tiếp tục những cải cách rộng lớn về thương mại và đầu tư mà Việt Nam đã đơn phương tiến hành trong thập kỷ qua.
Luật thương mại và những tài liệu hướng dẫn thi hành luâtj này đã đóng góp đáng kể vào việc tự do hoá thương mại. Giảm các rào cản phi thuế quan, huỷ bỏ việc cấp phép xuất nhập khẩu theo chuyến, mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp và áp dụng một biểu thuế quan thống nhất là những bước đi trong thời gian vừa qua.
Những biện pháp cải cách này thúc đẩy phát triển thương mại của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP đã tăng từ 29,4% năm 1990 lên 33,8% năm 1998 là một chỉ số chứng minh cho sự mở cửa ngày càng tăng của nền kinh tế. Trong thời gian này, giá trị nhập khẩu so với GDP cũng tăng từ 33,7% lên đến 41,5%.
Mặc dù những biện pháp cải cách đến nay là rộnglớn, các chính sách thương mại và đầu tư vẫn còn chưa đủ tính minh bạch và tiếp tục bảo hộ một số ngành ở mức độ đáng kể. Mặc dù việc bảo hộ được coi là cần thiết nhằm tào điều kiện cho các ngành công nghiệp non trẻ phát triển và nhằm tranh thủ thời gian để cải thiện khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng rõ ràng rằng tư cách thành viên hiện nay và trong tương lai của các hiệp định khu vực, đa phương và song phương đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa, về tiến độ chiều sâu, các biệp pháp tự do hoá thương mại và đầu tư. Việt Nam sẽ phải huỷ bỏ những cơ chế quản lý thương mại không phù hợp với các hiệp định mà Việt Nam đã ký. Bức bách hơn cả là đến năm 2006 phải đáp ứng nhứng nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA).
Những bước đi quan trọng hướng tới việc thúc đẩy cải cách là xây dựng một chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế rõ ràng, tuyên truyền và nhận thức những lợi ích tiềm tàng và những ảnh hưởng của những thay đổi chính sách được đề xuất nhằm chuẩn bị cho nền kinh tế hội nhập nhiều hơn nữa. Nếu không có một chiến lược như vậy thì sẽ có nguy cơ làm chậm lại và mất đi sự ủng hộ đối với tiến trình hội nhập. Và nếu không có một chiến lược rõ ràng để cải cách kinh tế nhiều hơn nữa thì cũng sẽ có nguy cơ là quy mô và phương hướng của những đổi mới chính sách có thể không góp phần phát huy tối đa những lợi ích có thể thu hút được từ tiến trình hội nhập.
Bài học kinh nghiệm của các nước khác trong khu vực cho thấy hội nhập có thể mang lại không chỉ những lợi ích trực tiếp từ tăng trưởng thương mại mà cả khả năng tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài trợ thương mại, nguồn đầu tư vốn cổ phần dài hạn của nước ngoài, chuyển giao công nghệ và thông tin cũng như kiến thức và kỹ năng (UNDP 1998). Tuy nhiên, không phải nước nào cũng thu hút được những lợi ích như nhau và hội nhập cũng mang lại những rủi ro. Với một chiến lược rõ ràng, các nhà hoạch định chính sách có thể quyết định chính xác hơn tốc độ và trình tự đổi mới cũng như đánh giá được ảnh hưởng của những sáng kiến cụ thể, trên cơ sở những ưu tiên và mục tiêu đối nội rõ ràng.
Cải cách chính sách thương mại và công nghiệp sẽ là phần trung tâm của chiến lược tổng quát về hội nhập quốc tế và phát triển quốc gia của Chính phủ. Chính sách thương mại mở cửa hơn sẽ có vai trò quan trọng để đảm bảo tăng khả năng cạnh tranh, tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực. Những điều này cùng với việc tăng tính kỷ luật với việc đưa ra quyết định đầu tư và sản xuất của các doanh nghiệp là cần thiết nếu Việt Nam muốn tận dụng tối đa những lợi ích của tiến trình hội nhập.
Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây ở Châu á làm rõ thêm một số rủi ro gắn liền với tốc độ tăng trưởng nhanh và mở cửa kinh tế, nêu không được quản lý tốt. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng chứng tỏ tầm quan trọng của việc quản lý nợ một cách thận trọng dựa vào những thông tin đáng tin cậy, theo dõi và kiểm toán nhằm giảm thiểu rủi ro của việc đầu tư quá mức vào những doanh nghiệp không vững vàng về tài chính và hạn chế quy mô của nạn tham nhũng. Kinh nghiệm này cung cấp cho Việt Nam một số bài học quý giá. Trong quá khứ, việc các DNNN được ưu tiên vay nợ của các ngân hàng Nhà nước và được Nhà nước bảo lãnh đã đảm bảo cho họ được sử dụng hơn một nửa nguồn tín dụng chính thức, mặc dù ước tính 60% các DNNN làm ăn thua lỗ hoặc lãi không đáng kể vào năm 1997 (IMF 1999).
Những bài học kinh nghiệm khác về quản lý nợ được rút ra từ cuộc khủng hoảng là tầm quan trọng của việc Nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải quản lý nợ đến hạn của mình để tránh tình trạng khủng hoảng thanh khoản, đa dạng hoá nguồn tài chính của mình - đặc biệt là để tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn vốn lưu động của nước ngoài - và để tránh bị lôi kéo vào việc vay nợ quá nhiều từ các nguồn vốn do bên cho vay chi phối. Việt nam đã tích tụ một khối lương đáng kể nợ nước ngoài và cần phải tiến tới sử dụng nhiều hơn nguồn tích luỹ trong nước, vốn cổ phần dài hạn của nước ngoài và các nguồn vốn không mang nợ khác.
5. Phát triển công nghiệp và khả năng cạnh tranh
Nền kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, nhưng vai trò của công nghiệp vẫn là trọng tâm của công tác lập kế hoạch kinh tế ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -1965). Kế hoạch 5 năm lần thức tám (1996-2000) xác định hiện đại hoá và công nghiệp hoá là xương sống của những lỗ lực phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện cuộc sống cho nhân dân Việt Nam.
Hiện nay, công nghiệp chiếm khoảng 1/3 nền kinh tế, so với 22,4% năm 1990. Từ một cơ sở nhỏ bé, ngành công nghiệp đã liên tục đạt được mức độ tăng trưởng hơn 10% kể từ năm 1991.
Tuy nhiên, vẫn cần phải tiến hành những biện pháp cải cách rộng lớn nếu ngành công nghiệp muốn vượt qua được thời kỳ tăng trưởng kinh tế chậm chạp hiện nay và chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế gay gắt trong tương lai. Vai trò của Chính phủ cần phải chuyển hướng từ chỉ huy phát triển công sang tạo dựng một môi trường thuận lợi góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh công nghiệp.
Hiện nay, hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu gồm các loại nguyên liệu có giá trị gia tăng thấp và hàng hoá qua sơ chế, rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giao động về giá cả. Ngành công nghịp chế biến thường thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế do sản lượng tương đối ít, chất lượng sản phẩm thấp, quản lý yếu kém và giá thành cao. Những trường hợp ngoại tệ là hàng gia công may mặc và giày da.
Ngành công nghiệp chủ yếu gồm các DNNN, với khoảng 45% sản lượng công nghiệp năm 1998. Các DNNN cũng là đối tác của khoảng 70% xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, góp phần tạo ra 32% sản lượng công nghiệp năm 1998.
Hiệu qủa hoạt động của các DNNN rất khác nhau, nhưng với phần lớn các DNNN làm ăn thua lỗ, rõ ràng khu vực này cần được cải tổ khẩn cấp nhằm giảm bớt sức ép đối với nguồn tài chính của Nhà nước cũng như để cải thiện khả năng sản xuất và cạnh tranh, bảo đảm tính bền vững về tài chính cho quá trình phát triển của Việt Nam. Nhằm mục đích này, một số DNNN đã được sát nhập hoặc giải thể. Một số khác đang được cổ phần hoá hoặc liên kết với các công ty nước ngoài để thành lập liên doanh.
Các liên doanh với đối tác nước ngoài có thể cung cấp cho các DNNN khả năng tiếp cận với các nguồn vốn đang thiếu thốn, công nghệ và bí quyết kỹ thuật tốt hơn, kỹ năng quản lý và tiếp thị, và các kênh phân phối quý giá. Trong những trường hợp thành công, điều này tạo ra hiệu quả hơn và sản phẩm có chất lượng tốt hơn và do đó có sức cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường trong và ngoài nước. Bài học kinh nghiệm của các nước khác cho thấy có thể khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các đối tác liên doanh nước ngoài thông qua đào tạo lực lượng lao động trong nước nhằm tăng khả năng của doanh nghiệp trong việc tiếp thu công nghệ tiên tiến hơn bằng cách tạo lập một môi trường chính sách có thể góp phần bảo đảm cho các chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài được hoạt động trong một môi trường có tính cạnh tranh, khuyến khích các công ty nước ngoài giới thiệu các tập quán tốt và công nghệ có sức cạnh tranh (UINDO 1996b).
Cổ phần hoá, với ý nghĩa là một biện pháp để cải tổ các DNNN, đã khởi đầu một cách chậm chạp. Những nỗ lực này đã được đẩy nhanh hơn, sau một thời kỳ thận trọng kiểm nghiệm những chi phí và lợi ích của cổ phần hoá. Một bước tiến có ý nghĩa là việc ban hành Nghị định 44 giữa năm 1998 nhằm đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại các DNNN. Trong những năm 1992-1997 chỉ có 17 DNNN được cổ phần hoá., nhưng đến tháng 10/1999 con số này đã tăng lên đến khoảng 280. Kế hoạch của chính phủ là cổ phần hoá khoảng 1.400 trong số 6.000 DNNN của Việt Nam trong hai năm tới. Động lực mới này là do những kinh nghiệm cổ phần hoá bước đầu nói chung là tích cực, hiệu quả kinh tế cao hơn và nguồn thu (và nguồn tiền thuê) nhiều hơn. Trong nhiều trường hợp ban quản lý doanh nghiệp trở nên nhạy bén hơn và những doanh nghiệp được cổ phần hoá, trong đó người lao động trở thành các cổ đông, thường cải thiện được kỷ luật lao động. Việc huy động thêm được nguồn vốn đã tạo điều kiện để đổi mới công nghệ và do đó tăng thêm sức cạnh tranh (Đức 1999).
Mặc dù đã thu được những kết quả ban đầu, cho đến nay cổ phần hoá chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ làm ăn không có lãi. Triển vọng đẩy nhanh quá trình cải cách và cổ phần hoá các DNNN vẫn còn bị hạn chế do sức cản của một số nhóm lợi ích, do những khó khăn gặp phải trong việc định giá tài sản của các DNNN và do số dư nợ khá lớn của các doanh nghiệp này. Quỹ đến bù cho những người bị mất việc còn chưa tương xứng, những hạn chế về số lượng cổ phần được năm trong từng công ty, sự thiếu vắng thị trường chứng khoán và sự thiếu hiểu biết chung về đầu tư gián tiếp là những yếu tố làm phức tạp thêm tình hình.
Song song với việc xắp xếp lại các DNNN, việc phát triển công nghiệp tư nhân trong thập kỷ qua cũng được khuyến khích một cách thận trọng. Từ khi ban hành Luật công ty tư nhân năm 1991, số doanh nghiệp tư nhân được đăng ký hoạt động đã tăng lên nhan chóng. Nếu tính cả các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, con số này đã tăng từ 6.808 trong năm 1993 lên đến khoảng 26.021 năm 1998 (MPDF 1999). Mặc dù tăng nhanh về số lượng các xí nghiệp công nghiệp tư nhân, sản lượng của khu vực này vẫn tương đối khiêm tốn với khoảng 8% tổng sản lượng công nghiệp năm 1998. Khu vực tư nhân chính thức đang phát triển rất nhanh mặc dù các thủ tục để đăng ký kinh doanh vẫn hãy còn phức tạp dẫn tới sự mở rộng của khu vực tư nhân không chính thức. Việc đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh, áp dụng một khuôn khổ pháp lý thống nhất và mạnh mẽ từ sau khi luật doanh nghiệp mới được thông qua tháng 6 năm 1999 tạo ra hi vọng tiếp tục đẩy mạnh sự tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân có đăng ký và kết quả là làm mạnh thêm khu vự tư nhân chính thức.
Những biện pháp chính sách mới cũng đã được thực hiện nhằm khuyến khích các xí nghiệp vừa và nhỏ như là một phần trong nỗ lực công nghiệp hoá. Các xí nghiệp vừa và nhỏ - được định nghĩa là có dưới 200 lao động và vốn đăng ký dưới 5 tỷ VND - được coi là động cơ thúc đẩy sự nghiệp phát triển, bởi vì các doanh nghiệp này thường dựa vào những công nghệ không cần đầu tư lớn ngay từ đầu. Chúng có hai lợi thế liên quan là cần ít thời gian để thu hồi vốn đầu tư và tạo ra nhiều việc làm tính theo đơn vị vốn. Mặc dù Chính phủ có những đóng góp có ý nghĩa vào việc phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, nhưng vẫn cần những cải cách nữa, ví dụ như đảm bảo chế độ thu thuế đơn giản hơn và công bằng hơn, tạo điều kiện tiếp cận thị trường, tín dụng, công nghệ quốc tế và đơn giản hoá các thủ tục thành lập công ty thông qua việc áp dụng luật doanh nghiệp (UNIDO và Viện chiến lược phát triển, 1999a).
Sau một vài năm thử nghiệm ý tưởng khu chế xuất, chương trình khu xuất khẩu đã được bắt đầu thực hiện từ năm 1994. Đến giữa năm 1999, tổng cộng 732 xí nghiệp đã được nhận giấy phép hoạt động trong 66 khu công nghiệp. Trong số này, 510 là xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, với tổng số vốn đăng ký là 5,8 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 1999, sản lượng công nghiệp của các khu công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp toàn quốc. Còn cần phải làm nhiều việc để cải thiện hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp và sử dụng tốt nhất chương trình khu công nghiệp, làm động lực thúc đẩy công nghiệp hóa. Đến giữa năm 1999, có 20 khu công nghiệp còn bỏ trống và tỷ lệ sử dụng ở nhiều khu khác còn rất thấp (UNICO, 1999). Tình trạng này một phần là do các vấn đề đặc thù của khu công nghiệp, nhưng rõ ràng là các nhà đầu tư muốn tìm kiếm những môi trường có thể tin cậy để làm ăn và cần phải áp dụng những thủ tục hoạt động mang tính tiêu chuẩn cho tất cả các khu công nghiệp là một yêu cầu cấp bách.
Nhu cầu bức thiết về tạo thêm công ăn việc làm và phát triển kinh tế hài hoà hơn giữa các vùng lãnh thổ đã khiến Chính phủ phải nhấn mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá nông thôn và hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp hộ gia đình.
6. Những vấn đề Chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Toàn cầu hoá và hội nhập.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược hội nhập quốc tế về kinh tế – xã hội trong thập kỷ tới dựa trên các ưu tiên phát triển của Việt Nam, tính tới hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và bài học rút ra từ các nước khác. chiến lược cần đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập, đặc biệt trong bối cảnh vòng đàm phán mới của tổ chức thương mại thế giới WTO, sự phát triển của thương mại điện tử và cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực.
- Sửa đổi bổ sung các luật hiện hành và ban hành các luật mới để tạo khuôn khổ pháp lý hoàn thiện và có tính chất hỗ trợ cho quá trình hội nhập.
- Tiến tới công khai trợ cấp và thuế quan để tăng cường tính minh bạch và tạo điều kiện cho quá trình ra quyết định đúng đắn.
- Xây dựng lộ trình hội nhập có mục tiêu trung hạn, và công bố lộ trình này.
- Phát động một chiến dịch thông tin và tranh luận rộng rãi về ảnh hưởng cũng như yêu cầu về hội nhập.
Chính sách thức đẩy công nghiệp trong nước.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược nhằm tăng tính cạnh tranh công nghiệp. Chiến lược này bao gồm các biện pháp cải thiện hoạt động của các guồng máy công nghiệp hoá, ví dụ như cải tổ hơn nữa và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy khu vực tư nhân – trong đó có hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ – khuyến khích đầu tư nước ngoài và tăng cường sự phát triển và quản lý các khu công nghiệp.
- Tiếp tục hoàn thiện các chiến lược quốc gia để phát triển và thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích sự tăng trưởng của các khu vực kinh tế với nhu cầu lao động ổn định.
- Tăng cường chất lượng sản phẩm thông qua việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia, hay áp dụng các tiêu chuẩn ISO quốc tế.
- Khuyến khích một môi trường thuận lợi cho việc tiếp cận, ứng dụng và tiếp thu công nghệ.
Phát triển doanh nghiệp tư nhân
- Tinh giản và đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp và công ty theo tinh thần luật doanh nghiệp.
- Hình thành một cơ sở dữ liệu tập trung thông tin về các doanh nghiệp và công ty đã đăng ký và cho công chúng được tiếp cận với cơ sở dữ liệu này.
- Cải tiến việc tiếp cận với tài chính, tín dụng bằng cách áp dụng cùng một quy tắc cho tất cả những người đi vay và thiết lập một khuôn khôt pháp lý tạ điều kiện hơn cho việc sử dụng tài sản thế chấp và cầm cố.
- Cải thiện khả năng tiếp cận với ngoại hối để hỗ trợ thương mại và đầu tư nước ngoài.
- Đơn giản hoá thuê thu nhập, thuế công ty và thuế giá trị gia tăng. áp dụng thuế công bằng với tất cả các loại hình doanh nghiệp.
- Hỗ trợ cho hoạt động ngoại thương tăng lên qua việc giảm thuế quan và đơn giản hoá thủ tục hải quan.
Kết luận
Qua khuôn khổ bài tiểu luận này, với kiến thức còn hạn chế em mạo muội trình bày sự cần thiết phải có sự điều tiết của chính phủ để hướng nền kinh tế đạt được những mục tiêu mà mọi nền kinh tế luôn theo đuổi là: hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Đặc biệt đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường chứ không phải giảm nhẹ vai trò và chức năng quản lý của chính phủ. Bởi vì chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, đi sâu vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị-kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của chính phủ càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa. Vấn đề then chốt ở đâylà ở chỗ phương thức quản lý như thế nào để vận dụng đầy đủ các yêu cầu, quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường nhưng lại đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế vận động theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, đất nước ta đang trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “thì sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của chính phủ là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của nền kinh tế nước ta.
Trên đây là những hiểu biết của em về vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và cụ thể ở Việt Nam nói riêng. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp, em mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô .
Sinh viên Nguyễn Xuân Vũ
Lớp D37 – 41
Khoa đại cương
Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Phần I- Vai trò và các chức năng cơ bản của Chính phủ đIều trong tiết vĩ mô nền kinh tế ……………………………………………… 2
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô……………………………………………. 2
2. Chức năng kinh tế của Chính phủ 2
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ 6
Phần II- Cụ thể hoá vị trí kinh tế của Chính phủ ở nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hiện đạI hoá” đất nước………………………………………………. 10
I- Vị trí của Chính phủ Việt Nam trong cơ chế quản lý quốc gia 10
1. Nhà nước 10
2. Khu vực tư nhân 15
3. Xã hội dân sự 17
4. Những vấn đề cần giải quyết 19
II- Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn “CNH-HĐH” 22
1. Vai trò của Chính phủ trong giai đoạn “CNH- HĐH” 22
2. Quá trình chuyển đổi 28
3. Chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô 29
4. Toàn cầu hoá và hội nhập 31
5. Phát triển công nghiệp và khả năng cạnh tranh 34
6. Những vấn đề Chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn
“CNH – HĐH” 37
Kết luận 39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35024.doc