Các nhà kinh tế thường dùng cụm từ “ponzi game” để chỉ cuộc tranh đua
vay nợ để trả nợ. Khi nợ tích lũy tăng lên vượt quá khả năng đi vay, dù chỉ tại
một mắt xích nhỏ, có thể kéo theo sự đổ vỡ của hệ thống tín dụng và ngân hàng
thương m ại. Điều này đã xảy ra vào cuối những năm 80 thế kỷ trước tại Việt
Nam. Dĩ nhiên, cuộc chơi nguy hiểm này chỉ xảy ra vào những hoàn cảnh hết
sức đặc biệt, khi mất ổn định vĩ mô làm tăng rủi ro cho hầu hết các hoạt động
đầu tư. Cụ thể là giá vàng và giá đất bị đẩy lên quá cao, gây "đóng băng" thị
trường vốn và bất động sản.
Trong bối cảnh đó, một chính sách thắt chặt tiền tệ, ổn định giá cả là cần
thiết. Nhưng nếu áp dụng quá mạnh mẽ, thì sẽ làm nặng thêm tình trạng mất
tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Với các biện pháp thắt chặt
tiền tệ, vốn giao dịch của các ngân hàng thương mại bị ép lại từ hai đầu, từ thị
trường tài chính đang đóng băng và từ việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì vậy,
các ngân hàng thương mại buộc phải lao vào giành giật vốn nhàn rỗi còn lại
bằng cạnh tranh lãi suất quyết liệt. Song, số vốn mới vay được này lại chảy ít
dần vào các dự án đầu tư (vì khó ai có thể vay vốn), mà bị hút nhiều hơn vào
nơi mà lãi suất tiền gửi dâng lên cao nhất để phục vụ yêu cầu trả nợ. Cuộc chơi
ponzi đã bắt đầu. Nếu tiếp tục nó có thể làm sụp đổ hệ thống ngân hàng.
Trong một nỗ lực nhằm đảo ngược tình hình, Nhà nước đã bơm ngược trở
lại 39 ngàn tỷ đồng, vượt quá cả số lượng 30 ngàn tỷ bị rút ra khỏi lưu thông
vào trước Tết. Lo sợ lạm phát tiếp tục tăng, cộng với sự phân bổ không đều của
khoản tiền mới bơm trở lại, cuộc giành giật vốn giữa các ngân hàng còn khốc
liệt hơn. Những diễn biến nêu trên cho thấy sự nan giải trong việc thực hiện
mục tiêu kép: kiềmchế lạm phát và duy trì vai trò tài chính trung gian của các
ngân hàng thương mại trong việc chuyển vốn tiết kiệm vào các dự án đầu tư.
Việc co hẹp quá nhanh cung tiền tệ sẽ làm suy giảm khả năng thanh khoản và
tăng khuynh hướng vay nợ để trả nợ trong hệ thống ngân hàng. Như vậy, lãi
suất tiền gửi phải bị đẩy lên để bù đắp cho lạm phát và làm tăng khoảng cách
giữa lãi suất cho vay so với lãi suất tiền gửi ra gấp bội. Như vậy sẽ chỉ còn rất ít
những dự án thuộc loại ít rủi ro nhất mới có thể chịu được mức lãi suất đó.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cuộc chạy đua lãi suất liệu đã đi đến hồi kết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãi suất tái chiết khấu nhưng lãi suất liên ngân hàng vẫn cao hơn cả hai lãi suất
này trong giai đoạn các NHTM thiếu thanh khoản như hiện nay. Nguyên nhân
chỉ có thể là NHNN đã không thực hiện tốt chức năng của mình. Trong phát
biểu của Thống đốc Nguyễn Văn Giàu, ông cho biết NHNN đang theo dõi tình
hình thanh khoản của các NHTM rất chặt chẽ và sẵn sàng bơm tiền ra nếu có
dấu hiệu bất ổn. Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tại sao NHNN không thực hiện
chức năng này một cách bình đẳng với tất cả các NHTM thông qua thị trường
mở, cho vay tái cấp vốn. Trên thực tế rất nhiều NHTM nhỏ không được tham
gia vào hoạt động thị trường mở của NHNN và còn khó khăn hơn nữa khi muốn
được vay vốn với lãi suất tái cấp vốn trực tiếp từ NHNN.
Nguyên nhân của trở ngại này chính là mục tiêu thắt chặt tiền tệ mà Chính
phủ đã yêu cầu NHNN thực hiện nhằm chống lại lạm phát gia tăng. Lập luận
của NHNN là nếu thực hiện đầy đủ chức năng thì với nhu cầu thanh khoản hiện
tại trong hệ thống ngân hàng Việt nam, NHNN sẽ phải bơm ra một lượng tiền
mặt rất lớn và điều này sẽ làm cung tiền gia tăng làm cho tình hình lạm phát sẽ
tồi tệ hơn. Do vậy NHNN sẽ chỉ cung cấp thanh khoản với lãi suất nằm trong
khoảng 11% đến 13% cho NHTM nào có nguy cơ khủng hoảng thật cao. Còn
các NHTM khác dù có thiếu thanh khoản nhưng chưa đến mức bị khủng hoảng
sẽ phải tự thân vận động bằng cách vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi
suất cao hơn nhiều.
Bởi vậy các NHTM hiện tại, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ không biết
chắc mình có được NHNN ưu ái không nếu tình hình thanh khoản trở nên tồi tệ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
9
hơn, phải chạy đua lãi suất huy động khi cái trần 12% vừa được gỡ bỏ để tránh
phải vay vốn từ thị trường liên ngân hàng mà lãi suất có lúc đã vượt 20%/năm.
Lãi suất huy động sẽ tiếp tục bị đẩy lên cho đến khi nào các NHTM vượt qua
tình trạng thiếu thanh khoản hoặc cho đến khi NHNN can thiệp bằng các biện
pháp hành chính.
II. Ảnh hưởng và hệ lụy tới các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế:
Lãi suất tiền đồng liên tục tăng rất mạnh trong những ngày qua, trong khi đó
lãi suất đồng USD lại giảm mạnh và dự báo còn giảm. Diễn biến trái phiếu trên
thị trường tiền tệ đang khiến các chuyên gia kinh tế đưa ra nhiều dự báo không
mong đợi.
1.NHTM bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất
Trong những ngày gần đây hàng loạt ngân hàng thương mại (NHTM) công
bố tăng lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam với mức lãi suất tăng khá, tăng
thêm từ 0,12% - 0,48%/năm so với trước đó. Tuy nhiên, mức tăng lớn nhất vẫn
thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần, kể cả các NHTM cổ phần quy mô
còn khiêm tốn mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, như SHB, An Bình,…đến
các NHTM hạng trung bình khá như: SeABank, VPBank, Phương Nam,
Phương Đông, NHTM CP Sài Gòn… và ngay cả những NHTM cổ phần có
thương hiệu khá hay quy mô lớn, như: Eximbank, Techcombank, Đông Á,
ACB,…Từ ngày 18-2-2008, Eximbank thực hiện việc tăng lãi suất lớn nhất, với
mức tăng thêm tới 0,84%/năm so với mức lãi suất trước đó, kỳ hạn 6 tháng lên
tới 9,0%/năm.
Thực ra cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn nội tệ - Đồng Việt Nam (VND)
diễn ra từ đầu tháng 1-2008 và đợt thứ hai diễn ra từ đầu tháng 2-2008, tức gần
2 tuần trước Tết nguyên đán Mậu Tý, nhưng rộ lên, lan rộng ở hầu hết các
NHTM và thực sự nóng lên kể từ sau Tết Nguyên đán Mậu Tý đến nay.
Hiện nay lãi suất huy động vốn VND tăng cao nhất của một số NHTM cổ
phần lên tới 0,85%/tháng hay 10,20%/năm cho kỳ hạn 24 tháng, lên tới
0,80%/tháng, hay 9,6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng,…Lãi suất huy động vốn
VND kỳ hạn 12 tháng của NHTM CP Sài Gòn lên tới 9,72%/năm, tương đương
0,81%/tháng; của Techcombank lên tới 9,6%/năm. Thậm chí lãi suất huy động
của nhiều Quỹ tín dụng nhân dân kỳ hạn 12 tháng lên tới 0,90%/tháng, hay
10,80%/năm.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
10
Một số NHTM bên cạnh việc tăng lãi suất còn đưa ra một số hình thức huy
động vốn hấp dẫn khác, như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng bằng
hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, triển khai hình thức gửi tiền với lãi suất linh hoạt,
khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi suất
có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi,…
Đặc biệt đánh vào tâm lý khách hàng trong điều kiện chỉ số giá tăng cao, từ
ngày 18-2-2008, có ngân hàng còn đưa ra hình thức huy động vốn VND: “Lãi
suất bù lạm phát”. Ngoài lãi suất thông thường, khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12
tháng được ngân hàng này cam kết bù một phần hoặc toàn bộ chênh lệch giữa
lãi suất và tỷ lệ lạm phát thực tế, nhằm đảm bảo cho khách hàng gửi tiền được
hưởng lãi suất không bị thiệt khi lạm phát tăng cao.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cuộc cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn
VND nói trên? Hiển nhiên là do tình trạng thị trường tiền tệ nóng lên, vốn VND
khan hiếm. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà
không có người cho vay.
Chỉ có một số thời điểm nóng nhất Ngân hàng Nhà nước đưa ra đấu thầu
hơn 10.000 tỷ đồng - 17.000 tỷ đồng. Lãi suất cho vay qua đêm một số thời
điểm lên tới 20%/năm, thậm chí tới 30%/năm. Ngày 15-2-2008, trên 10 NHTM
tham gia đấu thầu lãi suất khoản vay kỳ hạn 1-2 tuần từ NHNN với lãi suất
trúng thầu lên tới 30%/năm, tăng cao so với mức 25%/năm ngày trước đó.
2.Cung tiền Đồng sẽ còn giảm:
Trước Tết Nguyên đán Mậu Tý, thời điểm cuối tháng 1-2008, lãi suất thị
trường liên ngân hàng đã lên tới 27%/năm. Một mức lãi suất chính bản thân các
NHTM cũng không ngờ tới và lúc bí quá buộc lòng “bấm bụng“ phải vay vì
không còn cách nào khác! Dự báo trong thời gian tới lãi suất thị trường liên
ngân hàng tiếp tục nóng lên và ở mức cao. Còn nguyên nhân tiếp theo đó là cầu
vốn tiền Đồng Việt Nam tăng cao, trong khi đó cung hạn chế bởi các lý do sau
đây:
Một là Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng
tín phiếu NHNN với lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày nhằm mục tiêu thu hút
bớt tiền từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Hình thức phát hành là bắt buộc
phải mua đối với các Tổ chức tín dụng (TCTD) theo mức phân bổ cụ thể. Theo
đó có tới 41 TCTD đô thị phải mua loại tín phiếu nói trên, nhưng lại không
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
11
được sử dụng để giao dịch tái cấp vốn. NH nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Quỹ tín dụng nhân dân và các TCTD có số vốn huy động VND đến 31-1-
2008 từ 1.000 tỷ đồng trở xuống không phải mua tín phiếu NHNN đợt này.
Thời điểm phát hành là ngày 17-3-2008. Do đó để chủ động có đủ vốn mua tín
phiếu NHNN bắt buộc vào thời điểm đó thì ngay từ bây giờ các NHTM phải “
chạy đôn , chạy đáo” huy động vốn trên thị trường, bởi vì hơn 20.000 tỷ đồng
đâu có phải ít!
Hai là, kể từ ngày 1-2-2008 các TCTD phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc
mới, theo hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc và tăng
thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với mức trước đó. Theo đó Thống đốc NHNN
quyết định mở rộng thêm phạm vi phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tiền gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%,
tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ
không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại
tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2-2008,
các NHTM phải bỏ ra thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự trữ bắt buộc
cho NHNN.
Ba là, Thống đốc NHNN quyết định tăng một số loại lãi suất chủ đạo, thực
hiện từ tháng 2-2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất
chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi suất trước đó được
thực hiện từ tháng 12-2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm đến nay mới điều
chỉnh tăng trước áp lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức lãi suất đó thực tế
ít tác động đến lãi suất của các NHTM, nhưng về điều hành NHNN phát đi tín
hiệu tăng lãi trên thị trường tiền tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị
trường.
Bốn là, cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các NHTM có sự thay đổi
theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh hơn tiền
gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ bắt buộc
cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua chứng
khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh nghiệp,
vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ liền kề
khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này khách hàng
thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên NHTM phải để tỷ lệ vốn khả dụng
cao hơn.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
12
Năm là, sau Tết Nguyên đán Mậu Tý, nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình
và cá nhân, nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp tăng lên,
nên các NHTM cần số vốn lớn hơn.
Sáu là nhu cầu VND để mua ngoại tệ của khách hàng. Để có vốn mua ngoại
tệ, các NHTM buộc phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường.
Bảy là, một phần vốn trong dân được chuyển sang đầu tư vào vàng do chỉ số
giá tăng cao, tâm lý một bộ phận người dân cho rằng lãi suất tiền gửi ngân hàng
“ âm” vì chỉ số tăng giá năm 2007 là 12,6%, tháng 1-2008 là 2,8%, cao hơn rất
nhiều so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Trong khi đó giá vàng thị trường quốc tế
và thị trường trong nước thời gian qua liên tục tăng cao. Giá vàng hiện nay đã
tăng gần 40% so với đầu năm 2007. Bên cạnh đó một lượng vốn đáng kể khác
được tiếp tục đầu tư vào bất động sản do thị trường này đang tiếp tục nóng và
dự báo sẽ tiếp tục nóng từ nay đến hết năm 2008.
Trong khi vốn Đồng Việt Nam nóng lên thì vốn ngoại tệ lại có xu hướng
diễn biến trái chiều. Lãi suất huy động vốn USD đứng nguyên và có xu hướng
giảm, do lãi suất chủ đạo đồng USD của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) từ đầu
năm 2008 đến nay 2 lần được cắt giảm từ mức 4,25%/năm xuống còn
3,0%/năm và được dự báo sẽ tiếp tục được giảm hơn nữa. Tỷ giá VND/USD
tiếp tục giảm mạnh. Đến cuối tuần trước, ngày 15-2-2008 tỷ giá bán ra của các
NHTM giảm xuống còn 15.959 VND/USD, giảm mạnh so với mức 15.995
VND/USD thời điểm cách đây 1 tháng; tỷ giá bán USD bằng tỷ giá mua của
NHTM. Tỷ giá trên thị trường tự do cũng xuống dưới mức 15.995 VND/USD.
3. Những tác động của việc lãi suất tiền đồng tăng cao.
Vậy lãi suất huy động vốn VND tăng cao sẽ tác động như thế nào! Có những
ảnh hướng lớn sau đây:
Một là làm tăng lãi suất cho vay vốn trên thị trường, tức là làm tăng chi phí
vốn vay của doanh nghiệp và người kinh doanh, từ đó làm tăng giá thành sản
phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội, đi ngược lại mục tiêu
kiềm chế lạm phát của việc NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
Hai là lãi suất đầu vào của NHTM, tức lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng
với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua
tín phiếu NHNN, nhưng lãi suất cho vay tăng chậm, khoảng cách chênh lệch
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
13
giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó tốc độ tăng
trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Cả hai nhân tố đó làm cho
lợi nhuận của NHTM ngày càng thấp, làm ảnh hưởng đến năng lực tài chính và
khả năng cạnh tranh, uy tín của NHTM.
Ba là việc vay vốn của doanh nghiệp, của khách hàng khó khăn hơn. Một
mặt tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh trong quan hệ tín dụng giữa khách hàng
và ngân hàng, tức là NHTM buộc phải lựa chọn dự án, lựa chọn khách hàng,
việc cho vay vốn khắt khe hơn. Mặt khác nhiều dự án bị từ chối vay vốn, hoặc
doanh nghiệp không dám vay, không dám triển khai dự án, từ đó ảnh hưởng tới
tốc độ tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đặt ra mục tiêu 9% trong năm 2008,
cao hơn mức 8,44% của năm 2007. Bởi vì hiện nay vốn đầu tư của nền kinh tế,
vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hộ gia đình chủ yếu là vốn vay
ngân hàng. Mà hiệu quả của vốn đầu tư có độ trễ, ít nhất là 6 tháng. Tức là việc
hạn chế đầu tư vốn tín dụng ngân hàng hiện nay sẽ có tác động làm chậm tốc độ
tăng trưởng trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009.
Bốn là, việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thu hút hàng chục nghìn tỷ
đồng từ lưu thông về không thể kiềm chế được tốc độ tăng giá rau, thực phẩm,
giá cà phê, sắt thép, giá bất động sản… hiện nay. Bởi vì giá các mặt hàng đó
tăng là do rét đậm kéo dài, do nhu cầu sau Tết nguyên đán tăng cao, do giá thị
trường thế giới tăng, do cung cầu….
Bởi vậy cho dù NHNN có tăng cao hơn nữa tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh
tăng các loại lãi suất chủ đạo, phát hành thêm hàng chục nghìn tỷ đồng tín phiếu
NHNN có tính chất bắt buộc,…thì giá các nhóm mặt hàng đó vẫn diễn biến
theo các nhân tố hiện hữu của nó. Bởi vì đó là những nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống còn người.
Bên cạnh đó việc phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu NHNN về để “
giam trong kho”, nhưng mỗi tháng NHNN phải trả 130 tỷ đồng cho các TCTD.
Bên cạnh đó việc thu khoảng gần 100.000 tỷ đồng dự trữ bắt buộc cũng để “
giam kho”, mỗi tháng NHNN cũng phải trả lãi cho các TCTD gần 100 tỷ đồng.
Chi phí kiềm chế lạm phát đó không đạt hiệu quả mà còn làm suy yếu đi năng
lực tài chính của NHNN với tư cách một cơ quan của Chính phủ có nghiệp vụ
sinh lời.
Bên cạnh đó diễn biến giảm tỷ giá VND/USD và tình trạng cung USD tăng
mạnh,…nếu tiếp tục diễn ra với mức độ lớn thì sẽ ảnh hưởng nhất định đến xuất
khẩu, đến thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
14
Định hướng điều hành chính sách tiền tệ nói trên rõ ràng là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế đang bị tạm thời “ hy sinh” cho mục tiêu kiềm chế lạm phát,
nhưng chỉ số giá tiêu dùng, diễn biến của thị trường bất động sản và thị trường
chứng khoán thì vẫn dường như không thấy có liên hệ gì đến thắt chặt tiền tệ.
Đây là mâu thuẫn trong điều hành cần được phân tích để có điều chỉnh phù hợp
trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
III. Can thiệp của Ngân hàng Nhà nước Trung ương.
30.01.08 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa quyết định điều chỉnh
tăng các mức lãi suất kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2008. Theo đó, lãi suất cơ
bản từ 8,25%/năm tăng lên 8,75%/năm, tăng 0,5%/năm; lãi suất tái cấp
vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm, tăng 1,0%/năm; lãi suất chiết khấu
từ 4,5%/năm tăng lên 6,0%/năm, tăng 1,5%/năm.
Động thái này được nhìn nhận là cách để Ngân hàng Nhà nước thực hiện
mục tiêu giảm lạm phát bằng cách thu hút tiền về, giảm lượng tiền lưu thông
trên thị trường.
Theo Ngân hàng Nhà nước, mục đích của việc tăng các mức lãi suất là nhằm
tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các mức lãi suất điều hành của NHNN
với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất,
phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm
2008.
Ngân hàng Nhà nước dự báo, trong những tháng tới, cung - cầu vốn trên thị
trường diễn ra bình thường, giá cả thị trường ít có khả năng tăng đột biến theo
tính quy luật trong những tháng đầu năm, lãi suất thị trường quốc tế có xu
hướng giảm, tỷ giá VNĐ so với USD có xu hướng giảm nhẹ và mức độ cạnh
tranh trên thị trường có xu hướng tăng. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng lãi suất này
của NHNN sẽ ít tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường.
Được biết, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
Theo đó, NHNN công bố và điều chỉnh một cách linh hoạt lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để điều tiết tiền tệ, kiểm soát tổng phương
tiện thanh toán phù hợp với mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Từ tháng 12/2005 đến nay, theo yêu cầu hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế ở mức
cao và cung - cầu vốn trên thị trường không có những biến động lớn; lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được giữ ở mức 8,25%/năm -
6,5%/năm - 4,5%/năm, đã góp phần ổn định lãi suất thị trường, tạo điều kiện
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
15
cho tổ chức tín dụng và các tổ chức khác huy động vốn và mở rộng cho vay,
đầu tư.
Tuy nhiên, lãi suất cơ bản phản ánh lãi suất cho vay tốt nhất của các tổ chức
tín dụng đối với khách hàng nhưng hiện đang thấp hơn lãi suất cho vay của các
tổ chức tín dụng; lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị
trường liên ngân hàng, chưa phù hợp với yêu cầu điều tiết và kiểm soát tiền tệ
một cách chặt chẽ.
Sáng ngày17/5, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức họp báo
thông báo thay đổi cơ chế điều hành lãi suất. Theo đó, việc sử dụng lãi suất
cơ bản sẽ chỉ là cơ sở cho các tổ chức tín dụng án định lãi suất kinh
doanh.Từ nay trở đi, lãi suất VND cơ bản chính thức là 12%/năm thay vì
8,75%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 13%/năm và lãi suất chiết khấu
11%/năm chính thức được thay thế.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản này phù hợp với quy định của Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và điều 476 Bộ luật Dân sự:
Cụ thể các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động,
lãi suất cho vay) bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố để áp dụng trong từng thời kỳ.
Định kỳ hàng tháng NHNN công bố lãi suất cơ bản, trong trường hợp cần thiết,
NHNN công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản.
Quyết định này có hiệu lữ thi hành từ 19/5/2008. Quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành.
Theo đó, việc huy động vồn bằng VND của các tổ chức tín dụng phù hợp
với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy đồng
12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/2/2008 hết hiệu lực thi
hành.
Theo NHNN, vệc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản sẽ có hai tác động chính:
1 - Lãi suất cơ bản vừa phản ánh thực tế lãi suất thị trường, vừa đóng vai trò là
lãi suất điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, cho nên góp phần tạo nên mặt
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
16
bằng lãi suất huy động và cho vay hợp lý và đảm bảo hài hoà lợi ích giữa người
gửi tiền- tổ chức tín dụng - người vay vốn.
2 - Với mức lãi suất cơ bản là 12%/năm, thì lãi suất cho vay tối đa của các tổ
chức tín dụng là 18%/năm, tương đối phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường,
không gây nên xáo trộn lớn trên thị trường tiền tệ, tín dụng, và sẽ không xảy ra
cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng.
Để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều
tiết tiền tệ một cách có hiệu quả, Thống đốc NHN đã ban hành các Quyết định
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu có hiệu lực thi
hành từ ngày 19/5/2008:
Lãi suất tái cấp vốn là 13%/năm, lãi suất tái chiết khấu là 11%/năm. (Trước
đây lãi suất tái cấp vốn là 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu 6%/năm)
Cơ chế này tạo nên hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu
(chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân
hàng, trong đó lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động
trong hành lang này.
Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, NHNN sẽ xem xét, điều chỉnh các
mức lãi suất biến động theo một biên độ nhất định, phù hợp với mục tiêu và giải
pháp điều hành chính sách tiền tệ.
Theo ông Trần Bắc Hà - Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư -
Phát triển, cơ chế mới là một giải pháp để khai thông tình huống khó khăn và bế
tắc hiện nay.
Quy định lãi suất trần như thời gian vừa qua và tách tời quy luật thị trường,
các ngân hàng thương mại thì vi phạm luật, mục tiêu huuy động vốn từ lưu
thông vào hệ thống ngân hàng không đạt mục đích; huy động vốn của các ngân
hàng gặp khó khăn; lãi suất không hấp dẫn vì thực âm...
"Với cơ chế điều hành mới, chúng ta sẽ đảm bảo thực hiện quản lý theo luật;
các ngân hàng sẽ chủ động trong quyết định kinh doanh của mình. Hy vọng
rằng vốn sẽ về ngân hàng nhiều hơn, các tổ chức tín dụng bớt khó khăn, khả
năng cung cấp vốn cho nền kinh tế sẽ được cải thiện... mang lại nhiều dấu hiệu
tích cực cho nền kinh tế", ông Hà nói.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
17
Trả lời báo chí ngay sau khi NHNN ban hành cơ chế mới về điều hành lãi
suất, bà Dương Thu Hương - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho
biết, trong cuộc họp sáng 17/5 với NHNN, các ngân hàng thương mại rất ủng
hộ cơ chế mới này. Các ngân hàng xem đây là một bước đi đúng có tác động
tháo gỡ tình hình khó khăn hiện nay.
"Điều quan trọng nhất là chúng ta đã làm đúng luật. Luật Dân sự đã quy
định, lãi suất ngân hàng thương mại không vượt quá 150% lãi suất cơ bản của
NHNN công bố. Thời gian qua, chúng ta chưa thực hiện nhưng bây giờ không
còn cách nào khác là thực hiện đúng luật", bà Hương nhấn mạnh.
Theo bà Hương, "Cơ chế mới tạo chủ động và bình đẳng cho cả ngân hàng
thương mại và NHNN, các ngân hàng thương mại biết mình đang hoạt động
trong một hành lang pháp lý chung. Các quy định trước đây về trần lãi suất của
NHNN hay trần lãi suất đồng thuận của Hiệp hội ngân hàng cũng chỉ là ngắn
hạn.
Hơn thế, cách làm này là phù hợp với thị trường. Đảm bảo lãi suất cơ bản có
ý nghĩa và không còn bị đông cứng. Tôi cảm thấy, cơ chế mới đưa lãi suất cơ
bản của NHNN có ý nghĩa gần như lãi suất FED trên thị trường. Cá nhân tôi
cho rằng, với cơ chế mới này, trần lãi suất thỏa thuận của các thành viên Hiệp
hội Ngân hàng cũng không cần tồn tại nữa".
Ông Vũ Ngọc Bảo - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cũng cho rằng,
trong một thời gian dài, lãi suất cơ bản không phản ánh thị trường, chỉ có ý
nghĩa tham khảo. Với cơ chế này, lãi suất cơ bản sẽ thực hiện đúng chức năng
là công cụ điều tiết chính sách tiền tệ, có tác dụng định hướng và điều tiết lãi
suất thị trường.
Ngày 10/6, Ngân hàng Nhà nước đã có các quyết định quan trọng liên
quan đến chính sách tiền tệ, bao gồm quyết định nâng lãi suất cơ bản, lãi
suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn thêm 2%, lên các mức tương ứng
là 13%, 14% và 15%/năm; yêu cầu các ngân hàng không được thu các
khoản phí cho vay như hiện nay; tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa
VND và USD từ mức 16.139 VND/USD lên 16.461 VND/USD. Tất cả các
quyết định này đều có hiệu lực từ ngày mai, 11/6.
Theo đánh giá của NHNN, hiện nay, mặt bằng lãi suất thị trường tăng so với
tháng 05/2008 - thời điểm công bố áp dụng mức lãi suất cơ bản 12%/năm. Cùng
với việc dự báo xu hướng biến động trong thời gian tới của lạm phát, cung - cầu
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
18
vốn thị trường, tỷ giá...và nhằm mục tiêu tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ
“thắt chặt” nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hôm nay Thống đốc
NHNN đã ban hành các Quyết định số 1316/QĐ-NHNN và số 1317/QĐ-NHNN
điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ
13%/năm tăng lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên
13%/năm và cùng có hiệu lực thực hiện kể từ ngày 11/6/2008. Trên cơ sở đó,
NHNN cho biết các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng
Đồng Việt Nam ở mức hợp lý, để tăng khả năng huy động và cho vay vốn.
Cách đây hơn 3 tuần, ngày 17/5, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày
19/5/2008. Theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất
huy động vốn, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Định kỳ
hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ bản; trong trường hợp cần thiết, Ngân
hàng Nhà nước công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản
được xác định và công bố dựa trên cơ sở điều kiện của thị trường tiền tệ - tín
dụng và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Kể từ ngày
19/05/2008 đến nay, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động và cho vay
bằng đồng Việt Nam trên cơ sở lãi suất cơ bản là 12%/năm, lãi suất cho vay
bằng đồng Việt Nam tối đa là 18%/năm.
Cùng với việc tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp
vốn, NHNN cũng kiên quyết thực hiện chủ trương không thu phí liên quan đến
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. Theo đánh giá của NHNN, từ ngày
19/5/2008, áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, ngoài lãi suất cho vay ghi
trong hợp đồng tín dụng, một số tổ chức tín dụng thực hiện thu phí liên quan
đến cho vay (phí tư vấn, phí hồ sơ vay vốn, phí thẩm định...), đã làm tăng đáng
kể chi phí vay vốn thực tế của khách hàng vay, chưa đảm bảo hài hoà lợi ích
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay. Mặt khác, Luật Ngân hàng Nhà nước,
Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh phí và lệ phí không quy định cụ thể về phí liên
quan đến hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. Vì vậy, để đảm bảo thi hành
nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ban hành văn bản số 5158/NHNN- CSTT ngày 10/6/2008, yêu cầu các tổ chức
tín dụng thực hiện việc không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay và
giao các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố kiểm tra, giám sát các tổ chức tín
dụng trên địa bàn thực hiện nghiêm túc quy định này.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
19
Cuộc chạy đua lãi suất đã bắt đầu. 11.6.08
Ngay sau khi NHNN công bố điều chỉnh mức lãi suất tiết kiệm VNĐ lên
14% (áp dụng từ ngày 11.6) cuộc chạy đua công bố mức lãi suất huy động mới
của các NH đã chính thức bắt đầu.
Đến chiều ngày 11.6.2008, ngân hang SeABank đã công bố “chương trình
siêu lãi suất mới hấp dẫn” với mức lãi suất tiền gửi bằng VNĐ lên tới
19,2%/năm. Bên cạnh đó, các ngân hang như Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) cũng công bố mức lãi suất tiền gửi mới trên toàn hệ thống, cụ thể
lãi suất mới cho các kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng là 15,12-15,48%/năm, kỳ hạn 13
tháng trở lên là 15,24%/năm. OceanBank cũng điều chỉnh biểu lãi suất tại các
điểm giao dịch với các mức gửi định kỳ từ 1 đến 3 tháng lên mức 17,5%/năm, 6
tháng hoặc 9 tháng là 17,7%/năm và từ 12 tháng trở lên là 17,8%/năm, áp dụng
theo phương thức trả lãi 1 lần khi rút gốc. Trong khi đó các ngân hang khác
cũng đang điều chỉnh lãi suất mang tính cạnh tranh, theo sát với các ngân hang
nêu trên.
Kể từ ngày 11/6/2008, lãi suất cơ bản được áp dụng với mức 14%/năm.
Lãi suất cho vay tối đa sẽ là 21%/năm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước
yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) không thu phí cho vay. Những
điều chỉnh quan trọng đó cho thấy cuộc chiến chống lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô của ngành Ngân hàng (NH) đã bước sang một bước ngoặt
mới. Giờ là lúc các NHTM phải tính lại bài toán truyền thống "đi vay để
cho vay"...
Ngay sau khi có thông tin về lãi suất cơ bản mới, thị trường tín dụng như
được giải tỏa những bức xúc đã và đang bị dồn nén suốt hơn hai tuần qua. TS.
Hồ Phúc Nguyên - Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chi nhánh Phú Mỹ Hưng (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng giải lại bài toán "đi vay
để cho vay" là điều các NHTM phải làm. Lãi suất cơ bản đã và đang được
NHNN thực hiện như một công cụ hiệu quả nhằm kiềm chế lạm phát. Đồng
thời, thêm yêu cầu không thu phí cho vay, cuộc chiến cạnh tranh thị phần giữa
các NHTM trên thị trường tín dụng sẽ trở nên minh bạch hơn. Những điều
chỉnh đó buộc các NHTM phải xem lại một cách nghiêm túc hoạt động kinh
doanh của mình, đặc biệt là tín dụng truyền thống, nếu không muốn bị vượt
qua. Không phải thời của tín dụng "đi vay để cho vay" đã qua, vì đó là chức
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
20
năng gốc của NHTM, nhưng giờ không còn là lúc "đi vay và cho vay lấy được"
như trước nữa. Kinh tế thị trường đã phát triển lên một tầm cao mới, người có
vốn không thiếu cách đầu tư. Vì vậy cuộc chiến chống lạm phát đã khiến các
NHTM nhỏ phải đối mặt với khó khăn thách thức nhiều hơn và gay gắt hơn so
với các NHTM lớn.
Ông Đặng Quốc Tiến, Phó tổng giám đốc NHTMCP Quân đội (MB) cho
biết, tính đến nay nguồn thu của MB chủ yếu vẫn nhờ vào tín dụng. Khách hàng
của MB chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với dư nợ chiếm 70%
tổng dư nợ. Trước tình hình lãi suất tăng như thế này, nhiều DNNN đã phải
điều chỉnh thu hẹp ngành hàng kinh doanh. Thuận lợi cho MB là đa số khách
hàng đang có quan hệ tín dụng hoạt động trong lĩnh vực kinh tế quốc phòng
nên sự điều chỉnh không quá lớn, mức tín dụng giảm không nhiều. Tuy vậy MB
vẫn phải điều chỉnh cân đối lại để từ nay đến cuối năm giảm bớt 20% dư nợ tín
dụng cho khối khách hàng DNNN. Bên cạnh đó, MB sẽ nâng nguồn thu từ dịch
vụ lên dần, chí ít cũng phải đạt cho được 30% so với tổng nguồn thu trong năm
nay để tạo đà cho việc chủ động kế hoạch kinh doanh vào các năm sau.
Rất phấn khởi đón nhận thông tin NHNN tăng lãi suất cơ bản, ông Nguyễn
Mạnh Quân, Phó tổng giám đốc NHTMCP Đông Nam Á (SeABank) cho rằng
với mức lãi suất cơ bản đã khá sát với thực tế thị trường, việc cạnh tranh bằng
cách đưa ra quá nhiều mức lãi suất, "băm nhỏ" các kỳ hạn làm rối mắt người
gửi, và nhất là tung ra quá nhiều loại phí như thời gian qua sẽ được thanh lọc,
cải thiện, bình ổn trở lại. SeABank luôn hướng đến sự ổn định nên thực hiện
huy động với thời hạn dài bằng những ưu đãi cạnh tranh. Không ít khách hàng
vay vốn có lý khi đặt lên bàn mức lợi nhuận thu được quá eo hẹp để làm áp lực
đòi NH giảm lãi suất cho vay. Về phía NHTM, làm một phép tính nhẩm đơn
giản đã thấy với lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên 14%/năm như hiện nay, nếu
huy động với lãi suất 17,5%/năm, mỗi tỷ đồng đi vay NHTM đã phải trả trên
dưới 170 triệu đồng lãi cho người gửi, cộng thêm chi phí dự trữ bắt buộc, tín
phiếu bắt buộc, bảo hiểm… trong khi chỉ được cho vay ra với lãi suất tối đa
21%/năm thì lợi nhuận thu về chỉ ở mức tối thiểu mà thôi. Điều này thì chính
DN cũng thấy. Những NHTM lớn, phần thì có nguồn vốn giá rẻ, phần thì có
khả năng phát triển dịch vụ mới bảo đảm nguồn thu lợi nhuận nên sức cạnh
tranh lãi suất của họ sẽ càng mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Thời "hoàng
kim" của tín dụng "đi vay để cho vay" sẽ lùi về quá khứ để nhường lối cho dịch
vụ như một nhân tố cơ cấu lại lợi nhuận của NHTM một cách hợp lý hơn.
Về phía DN, theo ông Nguyễn Đức Bình, Phó giám đốc Công ty TNHH
Công nghiệp quận Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh) thì đa số NHTM sẽ ấn định
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
21
mức vay với lãi suất tối đa được phép là 21%/năm. Đó sẽ là một gánh nặng
"khủng khiếp" cho những DN quen kinh doanh chỉ bằng vốn vay của NHTM.
Thời nay, đâu có phải cứ ném hết chi phí đầu vào ra thị trường chịu mà được.
Nhất là trong điều kiện mở cửa hội nhập, "trăm người mua, vạn người bán" như
hiện nay, DN lại càng phải tính kỹ việc đi vay vốn NH. Lãi suất quá cao, vay
kinh doanh không hiệu quả thì buộc phải tính toán giảm đi vay, huy động các
nguồn vốn khác. Tính không ra, đương nhiên sẽ phải chuyển đổi ngành hàng,
thậm chí chấp nhận phá sản.
Tăng lãi suất cơ bản rõ ràng là một công cụ kiềm chế lạm phát hiệu quả. Vì
nó cho phép thu hút một cách nhanh nhất tiền trong lưu thông vào NH, giúp
NHTM giải quyết được vấn đề thanh khoản là một trong những hệ lụy tồn đọng
của thời kỳ tín dụng tăng trưởng nóng trước đây, nhưng cũng đồng thời đặt
trước họ thách thức cơ cấu lại nguồn thu, không thể dựa mãi vào "đi vay để cho
vay"…
24.06.08 Ngân hàng Nhà nước (SBV) thông báo sẽ hỗ trợ thanh khoản
cho các ngân hàng thương mại, nhất là các nhà băng nhỏ, bằng hoạt động
tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có đảm bảo theo đề nghị của các tổ
chức tín dụng.
Thông báo của SBV cho hay, hoạt động tái cấp vốn sẽ được tăng cường bên
cạnh nghiệp vụ thị trường mở vốn đang được thực hiện hàng ngày.
Theo đó, cơ quan kiểm soát tiền tệ quốc gia sẽ áp dụng cơ chế tái cấp vốn
theo Luật Ngân hàng Nhà nước và quy chế cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ
cầm cố có giá của Ngân hàng Nhà nước. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, ngân
hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; và cho vay có
đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu.
Trước nay, hoạt động tái cấp vốn thường được các ngân hàng trung ương sử
dụng nhằm tạm thời hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại trên cơ
sở cho vay có thời hạn. Song một số lãnh đạo ngân hàng cũng cho rằng, các nhà
băng nhỏ ít có cơ hội tiếp cận nguồn vốn này như các ngân hàng thương mại
Nhà nước.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
22
Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ quan này sẽ quyết định tái cấp vốn một cách
kịp thời, trên cơ sở đề nghị của ngân hàng thương mại nhỏ, điều kiện cung - cầu
vốn thực tế và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Hiện lãi suất tái cấp vốn
được áp dụng là 7,5%.
Một chuyên gia trong ngành ngân hàng nhận định, động thái này từ ngân
hàng trung ương là một bước nhằm ngăn chặn cuộc đua lãi suất huy động VND
đang rục rịch tại các nhà băng.
Sáng ngày 29/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có cùng lúc hai
quyết định về lãi suất: Quyết định 1906/QĐ-NHNN về giữ nguyên lãi suất
cơ bản và Quyết định 1907/QĐ-NHNN về tăng lãi suất dự trữ bắt buộc.
Theo Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ chủ trương những tháng cuối năm
2008 tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhưng linh hoạt trong điều
hành để vừa góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy
đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Vì thế, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam cho tháng tới vẫn được giữ
ở mức 14%/năm.
Trong khi đó, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng đối với tổ chức
tín dụng được điều chỉnh từ 1,2%/năm (theo Quyết định số 923/QĐ-NHNN
ngày 20/7/2004) tăng lên 3,6%/năm.
Mục đích của việc tăng lãi suất này nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng có điều
kiện giảm lãi suất cho vay, góp phần cùng doanh nghiệp và người vay để thúc
đẩy đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Cả hai quyết định trên đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2008.
Từ 1/10 tới, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với
các tổ chức tín dụng sẽ tăng từ 3,6%/năm lên 5%/năm, đồng thời lãi suất
cơ bản tiếp tục được giữ nguyên 14%/năm. Đây là nội dung trong Quyết
định số 2133/QĐ-NHNN được Ngân hàng Nhà nước đưa ra ngày 25/9/2008.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, mục đích của việc tăng mức lãi suất này
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt trong điều hành
nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời hỗ trợ cho các tổ
chức tín dụng có điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
23
Ngoài ra, cũng để hỗ trợ các ngân hàng, NHNN cũng có quyết định sửa đổi
Khoản 7 Điều 1 Quyết định 346/QĐ-NHNN. Theo quyết định sửa đổi, Tín
phiếu NHNN bắt buộc phát hành ngày 17/3/2008 được cầm cố để vay vốn,
chiết khấu tại NHNN, được sử dụng làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở
do NHNN thực hiện theo quy định hiện hành.
Theo quy định trước đó, Tín phiếu NHNN bắt buộc không được cầm cổ,
chiết khẩu và nó được xem như là một khoản dự trữ bắt buộc.
Dưới góc nhìn của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
Từ ngày 11/6/2008, việc điều chỉnh tăng các mức lãi suất chủ chốt (lãi suất
cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm; Lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên
15%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm) của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) Việt Nam Chính thức có hiệu lực. Đồng thời, tỷ giá bình
quân liên ngân hàng giữa VND và USD cũng được điều chỉnh tăng khoảng 2%
lên mức 16.461 đồng/Usd. Theo đó, các tổ chức tín dụng được phép niêm yết tỷ
giá mua, bán Usd trong khoảng 16.296-16.626 đồng/usd (biên độ + 1%). ngay
sau đó, một số tổ chức tài chính, ngân hàng hàng đầu thế giới đã có những nhận
định, đánh giá về động thái điều hành chính sách tiền tệ mới của Việt Nam.
Tập đoàn Golman Sachs: Động thái chính sách mới đang đi đúng hướng
Chúng tôi cho rằng tăng lãi suất là một động thái tích cực nhằm giúp giảm tăng
trưởng vay nợ và giảm áp lực lạm phát. Thông qua điều chỉnh giá đồng tiền,
tăng lãi suất sẽ hiệu quả hơn các biện pháp hành chính như kiểm soát tín dụng
và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, vì việc tăng lãi suất ít có ảnh hưởng bóp méo hơn
và có tác động lâu dài hơn đối với việc làm dịu lại nền kinh tế. Vì đây cũng là
lần tăng lãi suất thứ hai trong vòng 4 tuần, chúng tôi tin rằng đợt tăng lãi suất
này sẽ giúp minh chứng cho các biện pháp của Chính phủ trong việc duy trì
chính sách ưu tiên kiểm soát lạm pháp so với mục tiêu tăng trưởng, mặc dù có
thể sẽ cần phải tiếp tục thắt chặt tiền tệ để đưa tăng trưởng và lạm phát vào tầm
kiểm soát.
Việc điều chỉnh giảm giá đồng Việt Nam thông qua điều chỉnh nhỏ một lần
đối với tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam với đô la Mỹ, mặc dù sớm hơn
một chút so với dự tính ban đầu của chúng tôi, là phù hợp với những nguy cơ
rủi ro chúng tôi đã nêu tại đánh giá tuần trước. Điều đáng khen ngợi là chính
sách tiền tệ của Việt Nam đã chủ động phản ứng trước đối với sự định giá quá
cao VND về mặt giá trị thực và thực hiện điều chỉnh chính sách trước khi nguy
cơ khủng hoảng tiền tệ leo thang lên mức khó kiểm soát hơn. Do chúng tôi kỳ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
24
vọng tốc độ tăng CPI (nhất là tốc độ tăng hàng năm) sẽ ở mức cao trong vòng
vài tháng tới, rủi ro của việc tỷ giá chính thức của VND khiến cho VND trở nên
bị định giá quá cao so với các đồng tiền của các quốc gia đối tác thương mại xét
về giá trị thực vẫn ở mức cao. Vì vậy, chúng tôi tin rằng động thái này có thể sẽ
ghi nhận bước khởi đầu của việc tiếp tục giảm giá VND so với USD.
Chúng tôi tin rằng những biện pháp công bố ngày hôm nay sẽ giúp Việt
Nam tránh khỏi bị kéo vào tình trạng khủng hoảng xấu hơn với việc điều chỉnh
mạnh một lần giảm giá trị đồng tiền trong tương lai gần. Tuy nhiên, để giải
quyết các thách thức kinh tế hiện tại trong nền kinh tế và khôi phục ổn định vĩ
mô, Chính phủ Việt Nam có thể sẽ phải thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa để
kiềm chế tăng trưởng tín dụng, thực hiện các biện pháp khắc nghiệt hơn để cắt
giảm chi tiêu ngân sách cũng như những dự án đầu tư ngoài ngân sách, và theo
dõi chặt chẽ hơn chi tiêu và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước để giảm áp
lực tăng trưởng quá nóng và kiềm chế lạm phát.
Ngân hàng standard Chartered: Việt Nam thực thi các biện pháp chính
sách phù hợp
Ngày 10/6/2008, NHNN Việt Nam đã tuyên bố nâng lãi suất cơ bản của
đồng Việt Nam từ mức 12%/năm lên mức 14%/năm, đồng thời cho phép tỷ giá
chính thức tăng từ mức 16.139 đồng/USD lên mức 16.461 đồng/USD vào ngày
11/6/2008. Theo nhận định của chúng tôi, cả hai động thái chính sách nói trên
đều được thực hiện nhằm xua đi nỗi quan ngại của các nhà đầu tư về khó khăn
kép mà Việt Nam đang phải đối mặt: đó là lạm phát và thâm hụt cán cân thương
mại. Chúng tôi hy vọng sẽ có nhiều động thái điều chỉnh chính sách hơn nữa
được tiến hành trong các tháng tới.
Đáp lại thị trường:
Việc điều chỉnh tăng tỷ lệ lãi suất cơ bản từ mức 12%/năm lên 14%/năm,
tăng lãi suất tái cấp vốn từ mức 13%/năm lên 15%/năm, tăng lãi suất chiết khấu
từ mức 11%/năm lên đến 13%/năm là động thái nhằm đáp lại áp lực tăng lãi
suất trên thị trường tiền tệ. Trên cơ sở quyết định điều chỉnh này, lãi suất tiền
gửi và cho vay tối đa của các NHTM sẽ được phép tăng từ mức 18%/năm lên
mức 21%/năm (tương đương 150% lãi suất cơ bản). Việc tăng lãi suất này nằm
trong dự đoán của phần đông thị trường xuất phát từ nhu cầu thắt chặt chính
sách tiền tệ nhằm kiềm chế áp lực lạm phát do cầu kéo và tăng trưởng kinh tế
nhanh. Động thái này không chỉ giúp làm nguội bớt cơn lốc tăng giá do các hoạt
động trong nước, mà còn giúp giảm bớt phần nào đó nhu cầu đối với hàng nhập
khẩu. Tuy nhiên, thời điểm đưa ra quyết định tăng lãi suất của NHNN Việt
Nam cũng làm thị trường tương đối ngạc nhiên, bởi vì NHNN đã bắt đầu bàn về
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
25
quyết định liên quan đến lãi suất vào đầu tháng này, và đã quyết định sẽ giữ
nguyên lãi suất hồi đầu tháng 6. Mặc dù vậy, việc tăng lãi suất từ lâu đã trở
thành vấn đề thời điểm, chứ không phải là vấn đề có hay không.
Với lạm phát tổng thể tháng 5 lên tới mức 25% so với cùng kỳ năm ngoái,
và có thể còn tiếp tục tăng trong những tháng tới trước khi đạt được những cải
thiện đáng kể, việc thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ là cần thiết. Chúng tôi
cho rằng lãi suất cơ bản có thể còn phải tăng cao hơn nữa trước khi đạt trạng
thái ổn định, mặc dù tốc độ tăng có thể không nhanh nếu NHTW và Chính phủ
lựa chọn cách tiếp cận thận trọng hơn nhằm tránh việc thắt chặt quá mức.
Song song với việc tăng lãi suất, NHNN Việt Nam còn tuyên bố tăng khung
dao động tỷ giá USD/VND lên mức 16.296 đồng/USD - 16.626 đồng/USD vào
ngày 11/6, tức là dao động xung quanh mức tỷ giá chính thức 16.461
đồng/USD, tăng 2% so với mức tỷ giá chính thức của ngày trước đó. Trong khi
biên độ dao động tỷ giá + 1% của các NHTM vẫn được duy trì, trên thực tế
động thái này chính là việc giảm giá 2% đồng Việt Nam. Chúng tôi đánh giá
đây là một động thái nhằm đáp lại nhu cầu USD tăng cao và đưa khung dao
động tỷ giá chính thức về gần với tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường. Các
động thái tương tự có thể cũng sẽ được triển khai nhằm khắc phục tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại mà nếu căn cứ theo mức hiện tại có thể lên tới 30
tỷ USD cho cả năm. Thế nhưng, cần lưu ý rằng bất kỳ động thái giảm giá VND
nào đều phải được tiến hành một cách từ từ và có trật tự nhằm tránh những
phản ứng dữ dội và sự sụt giảm quá mức sức hấp dẫn của việc nắm giữ VND.
Hơn nữa, việc giảm giá VND quá mức có thể sẽ làm gia tăng việc nhập khẩu
lạm phát và vì vậy lãi suất không kỳ hạn có thể sẽ bị đẩy cao hơn mức cần thiết.
Đối sách đúng, mặc dù không phải là không tốn phí:
Chúng tôi nhận định những động thái chính sách vừa qua đã đi đúng hướng,
mặc dù vẫn còn những hoài nghi về việc liệu Việt Nam có cần hỗ trợ tài chính
của IMF hay không. Các biện pháp chính sách này sẽ làm phát sinh một số chi
phí trong tương lai gần, chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế chậm lại và căng
thẳng khu vực ngân hàng dưới dạng giảm chất lượng tín dụng và nguy cơ tăng
các khoản nợ khó đòi. Tuy nhiên, điều then chốt là liệu các biện pháp này đã đủ
để xua đi nỗi quan ngại của các nhà đầu tư về tình trạng lạm phát và thâm hụt
cán cân thương mại của Việt Nam. Số liệu tháng 6 liên quan đến hai vấn đề này
sẽ được công bố vào tuần cuối của tháng 6. Chỉ số lạm phát theo năm có thể sẽ
tiếp tục tăng hơn nữa trong tháng 6 và thâm hụt thương mại sẽ vẫn duy trì ở
mức khoảng 2,5 tỷ USD/tháng. Các số liệu này cần phải được cải thiện một
cách nhất quán thì mới có thể thuyết phục được thị trường về việc chính phủ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
26
cuối cùng đã kiểm soát được tình hình và điều này có lẽ chỉ xảy ra vào cuối quý
III hoặc đầu quý IV/2008.
KẾT LUẬN
Các nhà kinh tế thường dùng cụm từ “ponzi game” để chỉ cuộc tranh đua
vay nợ để trả nợ. Khi nợ tích lũy tăng lên vượt quá khả năng đi vay, dù chỉ tại
một mắt xích nhỏ, có thể kéo theo sự đổ vỡ của hệ thống tín dụng và ngân hàng
thương mại. Điều này đã xảy ra vào cuối những năm 80 thế kỷ trước tại Việt
Nam. Dĩ nhiên, cuộc chơi nguy hiểm này chỉ xảy ra vào những hoàn cảnh hết
sức đặc biệt, khi mất ổn định vĩ mô làm tăng rủi ro cho hầu hết các hoạt động
đầu tư. Cụ thể là giá vàng và giá đất bị đẩy lên quá cao, gây "đóng băng" thị
trường vốn và bất động sản.
Trong bối cảnh đó, một chính sách thắt chặt tiền tệ, ổn định giá cả là cần
thiết. Nhưng nếu áp dụng quá mạnh mẽ, thì sẽ làm nặng thêm tình trạng mất
tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Với các biện pháp thắt chặt
tiền tệ, vốn giao dịch của các ngân hàng thương mại bị ép lại từ hai đầu, từ thị
trường tài chính đang đóng băng và từ việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì vậy,
các ngân hàng thương mại buộc phải lao vào giành giật vốn nhàn rỗi còn lại
bằng cạnh tranh lãi suất quyết liệt. Song, số vốn mới vay được này lại chảy ít
dần vào các dự án đầu tư (vì khó ai có thể vay vốn), mà bị hút nhiều hơn vào
nơi mà lãi suất tiền gửi dâng lên cao nhất để phục vụ yêu cầu trả nợ. Cuộc chơi
ponzi đã bắt đầu. Nếu tiếp tục nó có thể làm sụp đổ hệ thống ngân hàng.
Trong một nỗ lực nhằm đảo ngược tình hình, Nhà nước đã bơm ngược trở
lại 39 ngàn tỷ đồng, vượt quá cả số lượng 30 ngàn tỷ bị rút ra khỏi lưu thông
vào trước Tết. Lo sợ lạm phát tiếp tục tăng, cộng với sự phân bổ không đều của
khoản tiền mới bơm trở lại, cuộc giành giật vốn giữa các ngân hàng còn khốc
liệt hơn. Những diễn biến nêu trên cho thấy sự nan giải trong việc thực hiện
mục tiêu kép: kiềm chế lạm phát và duy trì vai trò tài chính trung gian của các
ngân hàng thương mại trong việc chuyển vốn tiết kiệm vào các dự án đầu tư.
Việc co hẹp quá nhanh cung tiền tệ sẽ làm suy giảm khả năng thanh khoản và
tăng khuynh hướng vay nợ để trả nợ trong hệ thống ngân hàng. Như vậy, lãi
suất tiền gửi phải bị đẩy lên để bù đắp cho lạm phát và làm tăng khoảng cách
giữa lãi suất cho vay so với lãi suất tiền gửi ra gấp bội. Như vậy sẽ chỉ còn rất ít
những dự án thuộc loại ít rủi ro nhất mới có thể chịu được mức lãi suất đó.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
27
Các ngân hàng thương mại sẽ bị "ép" đi vay nợ để trả nợ vì tin là nếu qua
được thời khốn khó, thì sẽ vững mạnh trở lại, vì ai đó sẽ phải "chết". Còn nếu
có bị khủng hoảng tín dụng, sụp cả hệ thống ngân hàng, thì Nhà nước, chứ
không phải họ, sẽ phải chịu trách nhiệm cuối cùng. Hành động theo niềm tin đó,
các ngân hàng càng ít uy tín, thì càng năng nổ hơn trong cuộc chiến lãi suất.
Nhưng khi tiên lượng lạm phát cao sẽ tiếp tục, thì khó mà ngăn nổi những ngân
hàng lớn vào cuộc. Giải pháp cho giai đoạn này là nếu tất cả đều kỳ vọng rằng,
lạm phát sẽ giảm dần, thì gánh nặng dự trữ bắt buộc sẽ giảm theo, thị trường tài
chính sẽ sôi động trở lại. Nếu cá nhân ngân hàng nào đó vẫn tiếp tục chạy theo
cuộc chơi ponzi, thì chắc chắn chỉ một mình nó có thể bị phá sản. Điều này lý
giải cho việc các ngân hàng lớn không tham dự vào cuộc chơi ponzi trong vài
tuần sau Tết. Khi đó, thay vì bơm 39 ngàn tỷ thông qua nghiệp vụ thị trường
mở, Ngân hàng Nhà nước có thể chỉ việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và
tuyên bố giãn hoặc giảm việc mua trái phiếu bắt buộc, thì lạm phát sẽ chắc chắn
là thấp hơn, và cuộc chơi ponzi sẽ không có chỗ để bùng lên. Giải pháp đồng bộ
chống lạm phát phải tính đến việc giảm chi tiêu ngân sách quá lớn cho các dự
án "phát triển" thiếu suy xét. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhìn sang cả những
mất cân đối về ngoại thương và cán cân thanh toán.Với chính sách mở cửa,
nhiều chục tỷ USD vốn FDI và các khoản vay nợ ngắn hạn đã tràn vào Việt
Nam làm kích thích những dự án kém hiệu quả và tăng lạm phát do sự gia tăng
dự trữ ngoại hối.
Nhưng ở đây có tác động kép. Khi tốc độ lạm phát đã vượt quá hai con số,
làm tỷ giá thực bị đẩy lên, gây cản trở xuất khẩu, thì đó có thể cũng là lúc các
khoản vay ngắn hạn đã đến kỳ phải thanh toán. Cũng hệt như cuộc chơi ponzi,
các cơ sở kinh doanh đầu tư và xuất khẩu buộc phải đi vay vốn ngắn hạn mới để
trả nợ cho vốn ngắn hạn cũ. Tiếp đó, sự thâm hụt khả năng thanh toán của bên
vay, đi kèm với tham vọng kiếm thị phần trong một nền kinh tế mới nổi lên của
bên cho vay, lại thúc đẩy mạnh hơn nữa các dòng vốn ngắn hạn. Cuộc chơi
ponzi mới này sẽ đẩy lạm phát tăng phi mã.
Vì vậy, Nhà nước nên tạo cơ chế tỷ giá linh hoạt để nâng hiệu quả đầu tư,
thúc đẩy xuất khẩu cụ thể là tăng nhẹ tỷ giá danh nghĩa. Nó sẽ cho phép giảm
lạm phát nhiều hơn so với sự lên giá của đồng tiền nội địa. Tỷ giá thực được cải
thiện theo hướng kích thích xuất khẩu, tăng khả năng thanh toán. Mặt khác,
việc nâng tỷ giá danh nghĩa cũng kích thích các dòng vốn vay dài hạn hơn, chảy
vào những lĩnh vực xuất khẩu có tiềm năng nhất.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
28
Các số liệu và tài liệu trên được lấy chủ yếu từ nguồn thông tin của các báo
như: vnexpress, vietbao, thoi bao ngan hang, tai chinh…tuy nhiên còn rất nhiều
thiếu sót cũng như không thể tránh khỏi một số nhầm lẫn, vì vậy chúng em rất
mong có được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài tiểu luận được trọn
vẹn hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 06. Cuoc chay dua lai suat lieu da den hoi ket.pdf