Tiểu luận Đại lý thương mại - Quyền và nghĩa vụ của các bên

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các thương nhân với nhau thông qua việc mua bán là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tuỳ thuộc vào đối tượng giao dịch, thị trường cũng như tính chất, thời cơ của từng thương vụ, thương nhân có thể lựa chọn các phương thức giao dịch cho phù hợp. Một trong những phương thức giao dịch được các thương nhân sử dụng phổ biến nhất hiện nay là hình thức trung gian thương mại. Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định giao dịch phải thông qua một người trung gian.Có rất nhiều hình thức trung gian thương mại khác nhau như: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, đại lý thương mại Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ đi vào tìm hiểu vè một trong các hình thức trung gian thương mại phổ biến nhất, đó là đại lý thương mại bằng việc phân tích sâu quyền và nghĩa vụ của các bên thông qua tình huống cụ thể và bình luận về tình huống có liên quan đến đại lý thương mại. A. ĐẶT VẤN ĐỀ B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HAI BÊN TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ GIỮA CÔNG TY X– BÊN GIAO ĐẠI LÝ VÀ CÔNG TY Y – BÊN ĐẠI LÝ BÁN HÀNG 1. Quyền và nghĩa vụ của công ty Y với tư cách bên đại lý bán hàng hóa 1.1. Nghĩa vụ của công ty Y với tư cách là bên đại lý 1.2. Quyền của công ty Y với tư cách là bên đại lý 2. Quyền và nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý 2.1. Quyền của công ty X với tư cách là bên giao đại lý 2.2 Nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý II. BÌNH LUẬN VỀ VỤ VIỆC C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4369 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đại lý thương mại - Quyền và nghĩa vụ của các bên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI - QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN Thứ sáu, 10/06/2011 22:25 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các thương nhân với nhau thông qua việc mua bán là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tuỳ thuộc vào đối tượng giao dịch, thị trường cũng như tính chất, thời cơ của từng thương vụ, thương nhân có thể lựa chọn các phương thức giao dịch cho phù hợp. Một trong những phương thức giao dịch được các thương nhân sử dụng phổ biến nhất hiện nay là hình thức trung gian thương mại. Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định giao dịch phải thông qua một người trung gian.Có rất nhiều hình thức trung gian thương mại khác nhau như: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, đại lý thương mại… Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ đi vào tìm hiểu vè một trong các hình thức trung gian thương mại phổ biến nhất, đó là đại lý thương mại bằng việc phân tích sâu quyền và nghĩa vụ của các bên thông qua tình huống cụ thể và bình luận về tình huống có liên quan đến đại lý thương mại. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HAI BÊN TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ GIỮA CÔNG TY X– BÊN GIAO ĐẠI LÝ VÀ CÔNG TY Y – BÊN ĐẠI LÝ BÁN HÀNG 1. Quyền và nghĩa vụ của công ty Y với tư cách bên đại lý bán hàng hóa           Với tư cách là bên đại lý – bên đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng hóa để làm đại lý mua hoặc là bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ thì công ty Y sẽ là thương nhận nhận hàng hóa để làm đại lý bán hàng hóa. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 174 và Điều 175 Luật thương mại năm 2005. 1.1. Nghĩa vụ của công ty Y với tư cách là bên đại lý           Điều 175 Luật thương mại năm 2005 quy định về nghĩa vụ cụ thể của bên đại lý: “Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các nghĩa vụ sau đây: 1. Mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý ấn định; 2. Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý; 3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật; 4. Thanh toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng hóa đối với đại lý bán; giao hàng hóa đối với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ; 5. Bảo quản hàng hóa sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao đối với đại lý mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra; 6. Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình hoạt động đại lý với bên giao đại lý; 7. Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định đó”. Như vậy, với tư cách là bên đại lý bán hàng hóa, công ty Y phải thực hiện đúng theo những nghĩa vụ cụ thể mà pháp luật đã quy định trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Như vậy, công ty Y có nghĩa vụ: - Công ty Y có nghĩa vụ bán hàng hóa cho khách hàng theo giá hàng hóa do bên giaođại lý – công ty X ấn định Bên giao đại lý – công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho bên đại lý bán hàng hóa – công ty Y và công ty Y phải có nghĩa vụ bán đúng giá cho bên thứ ba theo đúng giá đã được bên giao đại lý ấn định mà trong trường hợp này là công ty X. Nghĩa là bên công ty Y – bên đại lý phải có nghĩa vụ tuân thủ mà không được tự ý nâng hoặc giảm giá bán hàng hóa mà bên giao đại lý đã thông báo trước. Sau khi thực hiện dịch vụ đó, bên đại lý – công ty Y phải có nghĩa vụ giao nhận tiền với bên giao đại lý – công ty Y theo đúng thỏa thuận. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh năm 2004 thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên trừ các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tai Điều 10 Luật cạnh tranh. Thỏa thuận ấn định giá theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh là áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng, tăng hoặc giảm giá ở mức cụ thể, áp dụng thức tính giá chung… Việc các bên đại lý nhận hàng hóa của bên giao đại lý để thực hiện việc bán hàng hóa cho bên giao đại lý còn bên giao đại lý ấn định giá bán hàng hoá cho bên đại lý phải tuân thủ đặc thù của quan hệ đại lý bán hàng hóa. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 và Luật cạnh tranh lại không có sự thống nhất trong quy định về quyền ấn định giá của bên giao đại lý. Nếu căn cứ vào Luật cạnh tranh thì việc ấn định giá của bên giao đại lý cho nhiều bên đại lý là một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị cấm. Chính vì vậy gây khó khăn khi công ty X thực hiện quyền ấn định giá bán hàng hóa của mình cũng như việc công ty Y phải tuân thủ một việc ấn định giá bán của công ty X trong khi nó có thể bị cấm vì có thể là một thỏa thuận cạnh tranh theo Luật cạnh tranh. Thiết nghĩ pháp luật cần có quy định cụ thể và nhanh chóng sửa đổi Luật cạnh tranh theo hướng phù hợp hơn với quy định của Luật Thương mại. - Công ty Y có nghĩa vụ thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên công ty X và thanh toán cho bên công ty X tiền bán hàng hóa. Đây là nghĩa vụ rất quan trọng của bên đại lý hay nó là một nghĩa vụ mà bên công ty Y rất cần phải quan tâm để thực hiện cho đúng như trong thỏa thuận của hợp đồng đại lý trước đó. Vì đây là đại lý bán nên bên công ty Y có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho bên giao đại lý – công ty X. Trong quan hệ đại lý đây là khâu rất quan trọng và rất hay phát sinh tranh chấp có liên quan bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cả công ty Y và công ty X. Hai bên công ty X và công ty Y thỏa thuận về thời hạn thanh toán, nếu không có thỏa thuận cụ thể về thời hạn thanh toán trong hợp đồng đại lý thì áp dụng thời hạn thanh toán theo quy định tại Điều 176 Luật thương mại năm 2005: Việc thanh toán tiền hàng được thực hiện theo từng đợt sau khi bên địa lý hoàn thành việc bán được một khối lượng hàng hóa nhất định, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Trên thực tế, trong hợp đồng đại lý các bên thường thỏa thuận, bên đại lý bán hàng phải thanh toán tiền bán hàng sau một thời hạn nhất định kể từ khi nhận hàng không phụ thuộc vào việc hàng hóa đó có bán được hay không, do đó nếu tình hình kinh doanh của bên đại lý gặp khó khăn, hàng chưa bán được dẫn đến bên đại lý thanh toán  không đúng hạn và tranh chấp giữa hai bên rất dễ phát sinh. Do đó, các bên cần phải thỏa thuận rằng, trong một thời hạn nhất định bên đại lý bán phải thnah toán tiền cho bên gioa đại lý tương ứng với số lượng hàng hóa đã bán được cho khách hàng. Bên cạnh đó theo quy định của pháp luật Việt Nam việc thanh toán chi bên đại lý chỉ được thực hiện trong thời gian hợp đồng đại lý có hiệu lực. Như vậy, nếu có sự thỏa thuận cụ thể giữa hai bên công ty X và công ty Y giống như trên thì thiết nghĩ quan hệ đại lý sẽ được bền vững hơn nhiều. - Công ty Y có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sự theo quy định của pháp luật. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong các biện pháp được các thương nhân sử dụng trong giao dịch hàng hóa khi các bên không có quan hệ mật thiết, chưa có độ tin tưởng lẫn nhau. Do vậy, trong quan hệ đại lý thương mại trong những trường hợp như vậy cũng cần sử dụng biện pháp bảo đảm. Nghĩa là, khi bên công ty X chưa thật sự tin tưởng vào khả năng thanh toán của bên đại lý – công ty Y hoặc ngược lại bên đại lý – công ty Y cũng chưa có sự tin tưởng đối với bên giao đại lý thì hai công ty có thể thỏa thuận với nhau áp dụng biện pháp bảo đảm nghĩa vụ phù hợp nhất để đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất. Do đó, khi công ty X ký hợp đồng giao cho công ty Y làm đại lý bán hàng tại tỉnh H thì giữa hai công ty này có thể thảo thuận cụ thể về một biện pháp bảo đảm, có thể là cầm cố, thế chấp, ký cược… Và mọi vấn đề liên quan đến biện pháp bảo đảm được hai bên thỏa thuận áp dụng phải tuân thủ quy định trong Bộ luật dân sự về phần các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. - Công ty Y có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa sau khi nhận; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra; Vì là đại lý bán hàng hóa nên khi bên giao đại lý – công ty X giao hàng hóa cho mình thì công ty Y phải có trách nhiệm bảo quản tất cả số lượng hang hóa đó. Để bảo quản tốt số lượng hang hóa công ty Y cần chủ động trong việc kho, bãi, các điều kiện tối cần thiết khác phù hợp với từng loại mặt hàng hóa được giao để bán. Nếu có bất kỳ vấn đề nào sảy ra trong quá trình bảo quản đối với hàng hóa được nhận thì bên công ty Y – bên đại lý sẽ phải lien đới bồi thường thiệt khi hàng hóa đó đến tay người sử dụng với những thiệt hại sảy ra trừ trường hợp các bên có sự thỏa thuận nào khác.  Mặc dù, Luật thương mại năm 2005 quy định bên giao đại lý “Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ”(khoản 2 Điều 173) nhưng trong trường hợp chất lượng hàng hóa không được đảm bảo do lỗi của bên đại lý thì bên đại lý phải chịu trách nhiệm liên đới, Ví dụ tại thời điểm công ty X giao hàng cho công ty Y hàng hóa bảo đảm chất lượng như bên công ty X công bố. Tuy nhiên trong quá trình bảo quản hàng hóa bên công ty Y không tuân thủ theo hướng dẫn của công ty X nên khi hàng hóa được bán cho khách hàng đã còn đúng tiêu chuẩn, chất lượng như đã công bố. Trong trường hợp này bên đại lý – công ty Y sẽ có trách nhiệm liên đới về chất lượng hàng hóa mặc dù hàng hóa không thuộc sở hữu của bên công ty Y. So với Luật thương mại năm 1997 thì Luật thương mại năm 2005 đã xác định rõ ràng trách nhiệm của bên đại lý đối với chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa. Bên đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra chứ không phải chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng và quy cách hàng hóa khi thực hiện hợp đồng đại  lý trong mọi trường hợp như quy định trong Luật thương mại năm 1997. Đây là một điều đáng được nghi nhận. - Công ty Y chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý – công ty X và báo cáo tình hình hoạt động đại lý với bên công ty X. Quy định này cho thấy sự ràng buộc, lệ thuộc chặt chẽ của bên đại lý vào bên giao đại lý. Đây là một điểm quan trọng làm đại lý mua bán hàng hóa khác với ủy thác mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, quy định này trên thực tế đã nảy sinh nhiều bất cập khiến cho các đại lý khốn đốn trong quá trình bán hàng hóa khi bên giao đại lý tham gia vào giữa và trở thành một bên của quan hệ đại lý mới như vụ cocacola là một ví dụ điển hình. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể ở phần dưới. Như vậy, công ty Y phải báo cáo mọi vấn đề liên quan đến hoạt động đại lý của mình cho công ty X, và đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý. Đây là nghĩa vụ bắt buộc mà đại lý nào cũng phải thực hiện mà bên công ty Y không thể viện dẫn một điều gì nhằm trốn tránh nghĩa vụ. - Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định đó. Đây là quy định mới của Luật thương mại năm 2005 so với Luật thương mại năm 1997. Nghĩa là nếu thuộc một trong các trường hợp trên thì công ty Y – bên đại lý có nghĩa vụ chỉ được giao kết hợp đồng đại lý bán hàng hóa đối với ông ty X về loại hàng hóa đó mà thôi mà không được gioa kết hợp đồng làm đại lý cho các công ty khác cùng sản xuất loại hàng hóa đó. Đây là một điều kiện bắt của pháp luật đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa. Ví dụ, tổng đại lý kinh doanh xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương nhân đầu mối theo quy định của pháp luật. Cụ thể “Đại lý chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một tổng đạ lý hoặc một thương nhân đầu mối” (khoản 1 Điều 17 Nghị định 84/209/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu). 1.2. Quyền của công ty Y với tư cách là bên đại lý Song song với việc thực hiện nghĩa vụ, bên đại lý bán hàng hóa – công ty Y cũng có những quyền nhất định theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đại lý bán hàng hóa. Theo quy định tại Điều 174 Luật thương mại năm 2005 thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây: 1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này; 2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý; 3. Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý; 4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý bao tiêu; 5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại”. Cụ thể công ty Y có các quyền: - Công ty Y có quyền giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này. Thông thường bên đại lý – công ty Y được quyền ký kết hợp đồng đại lý với nhiều bên giao đại lý trừ trường hợp pháp luật có quy định khác và các bên không có thỏa thuận. Quy định này liên quan đến điều khoản không cạnh tranh (non – competition) mà các bên thường sử dụng trong hợp đồng đại lý. Theo đó, các bên có thể thỏa thuận “trong quá trình thực hiện hợp đồng đại lý hoặc một thời gian sau khi chấm dứt quan hệ hợp đồng đại lý, bên đại lý không được ký hợp đồng đại lý với các đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý” để bảo vệ lợi ích của bên giao đại lý. Đây là nội dung mới chưa được đề cập trong pháp luậ Việt Nam mình nhưng đã được pháp luật các nước trên thế giới đề cập đến. Mục đích của việc thỏa thuận này là để ngăn chặn bên đại lý không được quyền ký kết với các đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý sẽ sử dụng các kỹ năng kinh doanh, bí mật kinh doanh để cạnh tranh trực tiếp hoặc chuyển giao các kỹ năng, bí mật này cho đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý. Như vậy, nếu không thuộc trường hợp tại khoản 7 Điều 175 thì công ty Y hoàn toàn có quyền này và ngượi lại. - Công ty Y có quyền yêu cầu bên công ty X – bên giao đại lý giao hàng theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý với công ty X. - Công ty Y có quyền yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý. Cũng giống như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bên công ty Y phải bán hàng hóa theo yêu cẩu của bên giao đại lý – công ty X. Vì vậy bên công ty X phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin và các điều kiện cần thiết để bên đại lý có thể bán hàng đúng yêu cầu của bên giao đại lý. - Công ty Y có quyền hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại. Thù lao đại lý do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận thì theo quy định Điều 171 Luật thương mại năm 2005 thì thù lao đại lý được trả dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.Giá trong hợp đồng đại lý bao gồm giá mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý (giá gioa đại lý) và giá mà bên đại lý bán cho khách hàng. Giá giao đại lý thường do bên giao đại lý ấn định trong bản báo giá cập nhật cho bên đại lý trong từng khoảng thời gian cụ thể. Giá bán hàng hóa cho khách hàng có thể được xác định theo 3 cách: do bên giao đại lý ấn định (đối với đại lý hàng hóa); do bên giao đại lý ấn định mức giá trần; do bên đại lý quyết định (đối với đại lý bao tiêu). Luật thướng mại năm 2005 và Luật thương mại năm 1997 đều quy định cho các bên tham gia quan hệ đại lý mua bán hàng hóa được quyền tự do thỏa thuận về thù lao đại lý. Do vậy, công ty Y trở thành đại lý bán hàng hóa theo hợp đồng với công ty X nên họ được hưởng thù lao và những lợi ích khác do hoạt động đại lý mang lại và không một ai hoặc bên giao đại lý có quyền này. 2. Quyền và nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý           Hợp đồng đại lý là một hợp đồng song vụ có tính chất đền bù, do đó quyền và nghĩa vụ của bên đại lý này chính là nghĩa vụ và quyền của giao đại lý. Với tư cách là bên giao đại lý – bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vu cho đại lý cung ứng dịch vụ thì công ty X là thương nhân giao hàng hóa và trở thành bên giao đại lý. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 172 và Điều 173 Luật thương mại năm 2005. 2.1. Quyền của công ty X với tư cách là bên giao đại lý           Theo quy định Điều 172 Luật thương mại năm 2005 Điều 172 về quyền của bên giao đại lý thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các quyền sau đây: 1. Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng; 2. Ấn định giá giao đại lý; 3. Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật; 4. Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý; 5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý”. Cụ thể công ty X có những quyền sau với tư cách là bên giao đại lý. -  Công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng. Bên giao đại lý – công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng. Trong trường hợp thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng (được ấn định theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán hàng hóa cho khách hàng) thì bên giao đại lý – công ty X sẽ ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng và bên đại lý – Công ty Y buộc phải tuân thủ mức giá đã ấn định một cách nghiêm ngặt. - Công ty X có quyền yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật. Như phân tích ở trên nhằm tránh những rủi ro đáng tiếc trong hợp đồng đại lý, bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thực hiện biện một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm để có sự tin tưởng khi thực hiện giao hàng hóa của mình cho công ty Y. Trước khi gioa kết hợp đồng công ty X có quyền yêu cầu công ty Y phải thực hiện một biện pháp bảo đảm nhất định và khi công ty Y đồng ý với yêu cầu đó thì công ty X hoàn toàn có quyền yêu cầu công ty Y phải thực hiện nó đúng theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện các biện pháp bảo đảm góp phần tiến hành đẩy nhanh quan hệ đại lý giữa hai công ty trên và tạo độ an toàn hơn đối với các bên trong quan hệ đại lý nàỳ. - Công ty X có quyền yêu cầu công ty Y thanh toán tiền theo hợp đồng đại lý. Sở dĩ như vậy là vì trong quan hệ đại lý có một điểm đặc biệt là việc chuyển giao hàng hóa từ bên giao đại lý đến bên đại lý không đồng thời kèm theo việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa. Chính vì vậy khi giao hàng cho bên đại lý thì bên giao đại lý vẫn là chủ sở hữu hàng hóa. Thực chất bên đại lý chỉ là bên bán hàng thuê cho bên giao đại lý mà thôi. Nên thường bên giao đại lý cứ giao hàng trước sau đó trong một thời hạn thỏa thuận theo hợp đồng đại lý thì bên giao lại lý mới nhận tiền. Do đó, công ty X hoàn toàn có quyền yêu cầu công ty Y – bên đại lý thanh toán tiền hàng hóa theo đúng hợp đồng đại lý. Đây là quyền gắn liền với hợp dồng đại lý và nếu không có hợ đồng đại lý thì công ty X không thể có quyền này với công ty Y. - Công ty X có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý. Đây là một trong những quyền quan trọng của bên giao đại lý đối với bên đại lý. Chính vì quyền này pháp luật trao cho bên giao đại lý nên nhiều thương nhân đã lựa chọn hình thức trung gian đại lý thương mại để mang hàng hóa của mình đến với người tiêu dùng. Bởi lẽ không trực tiếp bán hàng nhưng lại là bên có quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động đại lý trên thức tế. Đó là một ưu thế của bên giao đại lý. 2.2 Nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý Luật thương mại quy định về nghĩa vụ của bên giao đại lý tại Điều 173: “ Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các nghĩa vụ sau đây: 1. Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại lý; 2. Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ; 3. Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý; 4. Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý;5. Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra”. Cụ thể công ty X là bên giao đại lý có nghĩa vụ: - Công ty X có nghĩa vụ hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại lý. Khi giao kết hợp đồng đại lý nghĩa là khi đó hai bên trong quan hệ đại lý phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Theo đó, khi làm đại lý cho công ty X thì công ty X cũng phải có nghĩa vụ hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện để công ty Y thực hiện tốt hợp đồng đại lý nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên. Rất cần thiết có quy định này bởi nó đảm bảo cho bên giao đại lý phải có trách nhiệm đối với bên đại lý. - Công ty X có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa. Sở dĩ như vậy vì hàng hóa thuộc sở hữu của công ty X – bên giao hàng nên tất cả vấn đề liên quan đến hàng hóa mà nhất là chất lượng hàng hóa thì Công ty X phải là bên có trác nhiệm đầu tiên và trước hết. Tính chất chủ sở hữu được áp dụng triệt để trong tình huống này.  - Công ty X có nghĩa vụ trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý. Thời hạn, cách thức xác định và phương thức thanh toán thù lao do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không thỏa thuận khác thì thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá (Điều 171 Luật thương mại). Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá bán cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ % trên giá bán hàng hóa. Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch giá là mức chênh lệch giữa giá bán cho khách hàng so với giá bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý. Mức thù lao đại lý do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại lý, nếu các bên không có thỏa thuận về mức thù lao đại lý thì theo quy định tại khoản 4 Điều 171 Luật thương mại mức thù lao được tính như sau: theo mức thù lao thực tế mà các được trả trước đó; nếu không xác định được mức thù lao thực tế mà các bên đã trả trước đó thì mức thù lao đại lý là mức trung bình được áp dụng chung cho cùng loại hàng hóa mà bên giao đại lý trả cho các đại lý khác; nếu không áp dụng được cả hai cách trên thì mức thù lao đại lý là mức thông thường được áp dụng dùng cho cùng loại hàng hóa trên thì trường.Việc thanh toán thù lao được tiến hành theo từng đợt sau khi bên đại lý hoàn thành việc bán một khối lượng hàng hóa xác định. - Công ty X có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý. Nếu trong hợp đồng đại lý có thỏa thuận về việc bên đại lý thực hiện một số biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật như: cầm cố, thế chấp, ký quỹ… thì bên giao đại lý được nhận ký quỹ tài sản, hoặc giấy tờ về tài sản thế chấp của bên đại lý. Khi kết thúc hợp đồng, bên giao đại lý phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lý tiền ký quỹ, tài sản hoặc giấy tờ về tài sản thế chấp đó mà không được chậm chễ. Luật thương mại không quy định cụ thể về nghịa vụ của bên giao đại lý phải giao tiền, hàng cho bên đại lý. Tuy nhiên, tương xứng với quyền của bên đại lý là nghĩa vụ của bên kia, bên giao đại lý phải có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên đại lý nếu là đại lý bán hàng. Bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền. Bên đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên đại lý. Do hợp đồng đại lý là một hợp đồng dịch vụ cho nên nó khác với hợp đồng vay tài sản trong dân sự, hợp đồng  mua bán hàng hóa ở chỗ mặc dù bên giao đại lý giao hàng hóa cho bên đại lý để bán hàng hóa nhưng hàng hóa đó vẫn thuộc quyền của bên giao đại lý. Như vậy bên đại lý không được sử dụng số hàng hóa mà bên giao đại lý đã trao cho vào bất kỳ một mục đich nào khác ngoài mục đích mà các bên đã thoat thận trong hợp đồng. - Công ty X có nghĩa vụ Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra. Ví dụ công ty X và công ty Y giao kết hợp đồng đại lý bán hàng hóa thuộc diện kinh doanh có điều kiện và bên đại lý – công ty Y bị xử lý vi phạm hàh chính do không tuân thủ các điều kiện thì bên giao đại lý cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Quy định này trong một số trường hợp cũng tạo ra không ít khó khăn cho bên giao đại lý khi dự liệu các trường hợp có thể sảy ra trong thực tiễn liên quan đến hành vi vi phạm của bên đại lý. Có nghĩa là rất khó xác định các trường hợp mà bên giao đại lý có phải liên đới chịu trác nhiệm hay không. Chính điều này đã làm cho các đại lý e ngại khi giao kết hợp đồng đại lý cũng như rất dễ đẫn đến tranh chấp của hai bên trong việc có hay không thực hiện trách nhiệm liên đới. Đây là điều mà pháp luật cần quan ta giúp ổn định quan hệ đại lý thương mại. * TÓM LẠI: Như đã phân tích ở trên khi tham gia vào quan hệ đại lý thương mại công ty X và công ty Y đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Những quy định đó của pháp luật về quyền và nghĩa vụ cảu hai bên nhìn chung khá đầy đủ và cụ thể. Tuy nhiên, Luật thương mại năm 2005 đã bỏ sót khi không quy định về một quyền rất quan trọng của bên đại lý là quyền được bảo vệ quyền sở hữu dnah sách khách hàng trong hệ thống phân phối. Bởi khi bên đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý thì họ phải thiết lập một mạng lưới khách hàng và họ cần được pháp luật bảo vệ đối với quyền sở hữu dnah sách khách hàng của mình cũng như những chi phí bỏ ra để thiết lập mạng lưới khách hàng đó không chỉ trong thời giam đang làm đại lý cho bên giao đại lý mà cả trong một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng đại lý hết hiệu lực. Chúng ta đều biết trong hợp đồng kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận việc tìm kiếm khách hàng có thể nói là một trong những việc khó khăn để thương nhân tìm được chỗ đứng trên thị trường. Để tạo được mạng lưới phân phối, thương nhân thường mấy rất nhiều thời gian và chi phí. Thông qua đại lý thương mại, các thương nhân giao đại lý đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí ra nhập thị trường mà vẫn đưa được các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình đến với người tiêu dùng và thu lợi nhuận. Do vậy, quyền sở hữu đối với danh sách khách hàng là quyền mà các đại lý thương mại cần được bảo vệ. Trong thời hạn quan hệ hợp đồng đại lý thương mại có hiệu lực, các đại lý được nhận thù lao từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Bên giao đại lý khi biết được danh sách khách hàng của bên đại lý có thể trực tiếp bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ cho khách hàng của bên đại lý để thu lợi nhuận mà không phải trả thù lao đại lý.  Năm 2005 khi cocacola khởi kiện đòi nợ cac đại lý độc quyền của mình, các đại lý cũng đưa ra vấn đề yêu cầu pháp luật bào vệ về cocacola nắm danh sách địa chỉ khách hàng trong hệ thống phân phối của các đại lý độc quyền và trực tiếp bán hàng hóa cho khách hàng trong hệ thống đó mà không được sự chấp nhận của đại lý độcc quyền do trong hợp đồng giữa cocacola và với các đại lý độc quyền không có điều khoản nào xác định hệ thống khách hàng mà các đại lý độc quyền xác định được là tài sản riêng của họ nên coca được quyền làm điều đó và các đại lý không thể bắt bẻ được. Thiết nghĩ, Luật thương mại cần bổ sung điều này thành một quyền của đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Có như vậy quyền lợi của bên đại lý mới được bảo đảm hơn trên thực tế. II. BÌNH LUẬN VỀ VỤ VIỆC SAU (Công ty X đã kí hợp đồng giao cho công ty Y làm đại lý bán hàng tại tỉnh H. Khi công ty Y nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng (mặc dù trong hợp đồng đã kí thời hạn 5 năm) của công ty X, công ty Y đã yêu cầu công ty X phải trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X nhưng đã bị từ chối).           Khi hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa được giao kết thì sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc các bên với nhau và các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, trên thực tế thường gặp một hoặc các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng (vi phạm hợp đồng). Các hành vi vi phạm hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa thường gặp trong thực tế là: vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng, tiền thù lao cho bên đại lý; vi phạm các chính sách đại lý do bên giao đại lý công bố; vi phạm tiến độ giao hành hóa đại lý… Các hành vi này có thể dẫn đến những thiệt hại cho bên bị vi phạm. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm pháp luật quy định nhiều hình thức trách nhiệm hợp đồng (chế tài thương mại) áp dụng cho bên có hành vi vi phạm như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng… Bên cạnh đó trong quan hệ đại lý cũng có trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của một trong hai bên làm chấm dứt hợp đồng đại lý. Mà tình huống trên chính là vấn đề chúng ta cần bình luận cụ thể về hành vi của hai bên.           Trước hết để hiểu rõ hơn về vụ việc này, chúng ta cần tóm tắt nội dung cụ thể như sau: Công ty X và Công ty Y ký với nhau một hợp đồng đại lý. Theo đó, Công ty Y sẽ làm đại lý bán hàng hóa cho công ty X tại tỉnh H trong thời hạn 5 năm. Nhưng khi công ty Y làm đại lý cho công ty X mới được 4 năm thì công ty X thông báo cho công ty Y chấm  dứt hợp đồng đại lý. Công ty Y đã yêu cầu công ty X phải trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X nhưng đã bị từ chối. Câu hỏi đặt ra là hãy bình luận về vụ việc trên.           Như chúng ta đã biết, hợp đồng đại lý thương mại cũng như hợp đồng nói chung có thể chấm dứt trong một số trường hợp mà pháp luật quy định trong đó có trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng. Theo Điều 177 Luật thương mại “1.Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý.2. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo  chấm dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý đó. Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý. 3. Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý”. Căn cứ vào những dữ kiện của vụ việc trên thì có thể thấy: Thứ nhất,khi công ty Y đang làm đại lý cho mình nghĩa là trong thời hạn đại lý công ty Y đơn phương chấm dứt hợp đồng như vậy là không được phép. Theo quy định của pháp luật, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng cần có thông báo cho bên đại lý ít nhất trước 60 ngày nếu không có thỏa thuân khác. Tuy nhiên, vụ việc không nói rõ về hợp đồng và các điều khoản hpwpj đồng mà hai bên ký kết trong trường hợp này nên rất khó có thể đưa ra câu trả lời chính xác. Do đó, từ những dữ kiện của vụ việc ta có thể chia thành 2 trường hợp: trường hợp thứ nhất là việc công ty X thông báo chấm dứt hợp đồng là chính xác nếu trong hợp đồng hai bên giao kết cho nhau có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bất cứ lúc nào mình muốn và chỉ cần thông báo là  hợp đồng đại lý đã chấm dứt. Trường hợp thứ hai là các bên không có thỏa thuận nào khác về việc chấm dứt hợp đồng đại lý thì áp dụng theo quy định pháp luật mà cụ thể là khoản 1 Điều 177 Luật thương mại năm 2005 thì dễ dàng nhận thấy việccông ty Xkhông thực hiện việc thông báo cho bên công ty Y ít nhất trước 60 ngày trước ngày được quyền chấm dứt hợp đồng đại lý mà gửi ngay thông báo chấm dứt hợp đồng và chấm dứt ngay vào thời điểm thông báo việc chấm dứtđólà trái quy định của pháp luật.Sở dĩ như vậy bởi theo quy định của pháp luật thì công ty X sẽ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi gửi thông báo trước cho côn ty Y về việc chấm dứt hợp đồng ít nhất trước 60 ngày thì hợp đồng đại lý mới được quyền chấm dứt. Thiết nghĩ, quy định về về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do trong quan hệ đại lý là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên điều đó cần tuân thủ một số điều kiên nhất định của pháp luật. Mà ở đây là điều khoản về thời hạn báo trước (ít nhất 60 ngày) để bên kia có thời gian chuẩn bị, điều chỉnh lại hoạt động đại lý của mình trước khi chấm dứt hoàn toàn hợp đồng đại lý. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm khi một bên vi phạm đơn phương chấm dứt hợp đồng trước khi hết thời hạn đại lý.             Thứ hai,việc công ty Y yêu cầu công ty X phải trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X nhưng đã bị từ chối. Để xác định được công ty nào Đúng, công ty nào Sai chúng ta cần xác định thêm nhiều thông tin cần thiết nữa về hợp đồng này giữa hai bên. Chính vì hợp đồng đại lý là một loại hợp đồng dịch vụ dân sự nên nó mang những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự đó là sự thỏa thuận. Nên với vụ việc dạng mở này ta cũng chia thành hai trường hợp như trên: trường hợp thứ nhất, nếu hai bên có thỏa thuận trong hợp đồng đại lý trước đó về việc một bên đơn phương chấm đứt hợp đồng mà không phải bồi thường ( như là " B có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và không phải bồi thường"..). Nếu như vậy thì việc bên công ty Y yêu cầu công ty X bồi thường  trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật và việc công ty X từ chối yêu cầu là hoàn toàn hợp lý; Trường hợp thứ hai, nếu hai bên công ty X và công ty Y không có thỏa thuận về việc bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật mà cụ thể là khoản 2 Luật thương mại năm 2005. Theo đó, công ty Y có quền yêu cầu công ty X trả cho mình một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X là hoàn toàn có căn cứ pháp luật và ngược lịa việc công ty X từ chối yêu cầu cảu công ty Y là hoàn toàn Sai, không có cơ sở pháp lý. Cũng theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 177 Luật thương mại năm 2005 thì giá trị bồi thường là một tháng thù lao một tháng đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm. VD: Giả sử một tháng thù lao là trung bình năm 1 là 5 triệu, năm 2 là 6 triệu, năm 3 là 5 triệu, năm 4 là 6 triệu thì khoản bồi thường sẽ là 5+ 6 + 5 + 6 = 22 triệu. Từ tình huống trên chúng ta có thể thấy có rất nhiều trường hợp chấm dứt hợp đồng đại lý trong đó có trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý. Do vậy, muốn bảo vệ quyền và lợi ích tối đa của mình để tránh trường hợp như trên, tránh những tranh chấp phát sinh trong quan hệ đại lý các bên cần có những thỏa thuận cụ thể và chi tiết về tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng đại lý. Các thỏa thuận càng cụ thể bao nhiêu càng dễ dàng khi tiến hành hoạt động đại lý và quan hệ đại lý về sau C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Tóm lại, đại lí thương mại là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đây là kênh phân phối tương đối lớn để đưa hàng hoá, dịch vụ của người sản xuất, người cung ứng đến với người tiêu dùng, người sử dụng. Vì vậy, Luật thương mại cần có các quy định chặt chẽ và cụ thể hơn để các chủ thể tham gia có cơ chế pháp lý hoạt động tránh những tranh chấp không đáng có, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2727840I L TH431416NG M7840I.doc
Tài liệu liên quan