- Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,. cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác.
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết gia tốc đầu tư tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của mọi quốc gia. Để thực hiện và duy trì được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng nước. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được mỗi nền kinh tế đều phải phát huy nội lực trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 nước ta sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar… Mỗi lý thuyết đều có ưu, nhược điểm riêng vì thế tùy thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế vĩ mô và các mục tiêu kinh tế tại thời điểm đó mà các nhà hoạch định chính sách sẽ lựa chọn áp dụng chính sách nào cho phù hợp. Dưới đây là phân tích về Lý thuyết gia tốc đầu tư và đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết trên tại Việt Nam.
Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:
Phần I : Những khái niệm cơ bản về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Phần này đề cập đến một số khái niệm về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế với mục đích tạo thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu, đồng thời cũng đưa ra một số tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc phân tích, nghiên cứư phần 2 & phần 3.
Phần II : Giải thích sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua lý thuyết gia tốc đầu tư.
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua lý thuyết gia tốc đầu tư
Phần III: Đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết gia tốc đầu tư tại Việt Nam
PHẦN I: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải ghánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động…
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
1.2 Phân loại đầu tư.
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển :
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa vào công thức tính GDP sau:
GDP = S + I + G + (X – IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
I: đầu tư
G: chi tiêu của chính phủ
X: xuất khẩu
IM: nhập khẩu.
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
3. Khái niệm về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam .
PHẦN II : PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Trong bài tiểu luận này chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận, vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây là phân tích về lý thuyết gia tốc đầu tư.
1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản lượng :
K dt= α .Yt α>0 (1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
I n,t = K dt - K dt -1 (2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
Kt-1 = Kt-1d = α .Yt-1 (3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết l ại phương trình (2) như sau:
In,t = K dt - Kt-1= α .Yt - α .Yt-1= α.( Yt - Yt-1 )
In,t= α.Δ Yt (4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc. Từ phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với sản lượng:
α =Ktd / Yt (5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức mong muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử rằng, do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều hợp lý. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê thêm công nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lý phải tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một phần trong từng thời kỳ.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau:
I n,t= λ.( Kdt-Kt-1) 0< λ<1 (6)
Sử dụng (1), có: I n,t= λ.( α.Yt - Kt-1) (7)
Trong đó, thông thường, Kt-1 khác K dt -1 do lượng tư bản thực tế khác với lượng tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong một thời kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập trong một số thời kỳ trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của thu nhập hiên tại, và vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư không thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản dự báo (ở phương trình 4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt- có thể thích hợp hơn với những biến động của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến đông nhiều như dự đoán của mô hình gia tốc đơn giản.
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn (tham số λ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và các biến số khác. Ví dụ, chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, có ít đầu tư hơn sẽ được thực hiện để triệt tiêu lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn khi lãi suất cao hơn và ngược lại.
3. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư.
3.1 Ưu điểm.
a. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu α không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
b. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
3.2 Nhược điểm.
a. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động c ủa nhiều nhân tố khác.
b. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ công thức K dt= α.Yt có thể viết:
Tại thời điểm t : K dt= α.Yt (8)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1d= α.Yt-1d (9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có :
K dt - Kt-1d = α.Yt -α.Yt-1d = α.( Yt -Yt-1d) (10)
Trong đó: K dt - Kt-1d : Đầu tư ròng và bằng (It-D) với D là khấu hao
Do đó: It-D= K dt - Kt-1d = α.( Yt -Yt-1d)= α.ΔY ()
và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng(lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0 )
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng o nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt qúa cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi Ktd và Kt-1d là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt*t –Kt-1d là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: Kt –Kt-1= λ .(Kt*t –Kt-1)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phầm của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1. Nếu λ =1 thì Kdt=Kt*t .
Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần
∆I=It- Dt=Ktd-Kt-1d.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
Ktd - Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) và do đó ∆I= λ(Kt*t –Kt-1)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt=δ.Kt-1 (δ là hệ số khấu hao và 0< δ <1). Do đó:
It- Dt= It- δ Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1)
Hoặc: It= λ .(Kt*t –Kt-1) + δ Kt-1d
It chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
Phần III: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
Nhận thức được tầm quan trọng của Vốn đầu tư: là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất.
Về lĩnh vực này, việc thực hiện đã đạt được những kết quả tích cực về bốn mặt: Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác...
Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát.
Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực đầu tư cũng còn một số hạn chế, bất cập. Cơ chế chính sách thu hút các nguồn vốn chưa đủ hấp dẫn, môi trường đầu tư còn nhiều rủi ro, còn có sự phân biệt đối xử, làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư. Hiệu quả đầu tư thấp. Nguyên nhân chủ yếu là quy hoạch yếu; tình trạng thất thoát, đục khoét vốn đầu tư xây dựng, nhất là nguồn ngân sách, nguồn vốn ODA còn phổ biến và nghiêm trọng; tình trạng thi công kéo dài; chi phí giải phóng mặt bằng lớn; tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư theo phong trào, đầu tư tự phát; cơ chế quản lý đầu tư vừa rườm rà phức tạp, lại vừa lỏng lẻo ở tất cả các khâu...
Mục tiêu dự kiến đưa ra Đại hội X rất cao, với tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP lên đến 40% để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn, sớm đưa nước ta ra khỏi nước kém phát triển. Tăng vốn là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là tăng hiệu quả đầu tư, tăng huy động vốn đầu tư từ kinh tế tư nhân, vốn nước ngoài, giảm tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước.
Nhằm thực hiện được nhiệm vụ này Bộ Tài chính sẽ tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế. Hoàn thiện chính sách động viên tích cực giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân để vừa đảm bảo nguồn thu cho NSNN vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích tụ vốn phát triển sản xuất - kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài. Mặt khác sửa đổi bổ sung cơ chế bảo lãnh để doanh nghiệp được vay vốn trong, ngoài nước đầu tư vào công nghệ, máy móc hiện đại phát triển sản xuấtt - kinh doanh.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư dài hạn, cho doanh nghiệp, người dân vay vốn ưu đãi để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hoàn thiện cơ chế thúc đẩy xã hội hóa huy động nguồn lực phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội, môi trường... Đồng thời mở rộng các hình thức đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng theo đầu tư kết hợp công - tư và đầu tư tư nhân sở hữu kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng (BOT, BT,...).Tiếp tục thực hiện huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, sử dụng có hiệu quả nguồn trái phiếu Chính phủ cho các dự án giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, hạ tầng nông thôn. Phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo đúng lộ trình, phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn theo hướng ổn định và minh bạch; tăng cường công tác rà soát, cải cách thủ tục hành chính...
Đảng và Nhà nước xác định: Khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
Về đầu tư: Trong bối cảnh hậu khủng hoảng kinh tế, Nhà nước cần có giải pháp kích cầu đầu tư, nhất là những công trình hạ tầng kinh tế - xã hội thật sự cần thiết và có hiệu quả đi đôi với tăng cường quản lý, khắc phục những tồn tại, yếu kém kéo dài trong lĩnh vực đầu tư công. Định hướng đầu tư năm 2009 được Chính phủ xác định là: Tiếp tục đình hoãn các công trình dự án chưa thực sự cần thiết, kém hiệu quả; tập trung vốn ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn doanh nghiệp nhà nước cho các công trình điện, các dự án sản xuất quan trọng, kết cấu hạ tầng giao thông (cảng biển, các tuyến đường bộ) ở những vùng có khối lượng hàng hoá lớn nhằm giải toả nhanh các điểm nghẽn tăng trưởng; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7; tăng đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và một số lĩnh vực xã hội cấp bách.
Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển nguồn điện, xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, phát triển sản xuất và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý đầu tư, các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng; cải cách mạnh mẽ thủ tục xây dựng cơ bản, quy chế đấu thầu và cách bố trí vốn nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian chờ đợi triển khai dự án, đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa công trình vào khai thác, góp phần nâng cao hiệu quả và tăng tốc độ quay vòng vốn của nền kinh tế
Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý quy hoạch, kế hoạch, cơ quan chủ quản đầu tư, chủ đầu tư về hiệu quả đầu tư; tăng cường giám sát đầu tư ngay từ khi lập dự án, tổ chức thi công và cả trong quá trình khai thác công trình. Mặt khác, phải hoàn thiện quy hoạch phát triển trên cơ sở lợi thế cạnh tranh dài hạn, tầm nhìn liên vùng để bảo đảm quy mô kinh tế, phù hợp với dung lượng thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực.
Về phát triển sản xuất, mở rộng thị trường
Khủng hoảng tài chính làm suy giảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn của nước ta và lạm phát cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua trong nước. Trong điều kiện đó, việc bảo đảm chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Ở đây, doanh nghiệp giữ vai trò hàng đầu nhưng tự mình không thể quyết định tất cả. Nhà nước phải "chia lửa" với doanh nghiệp.
Cùng với việc thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt đúng dắn để bảo đảm vốn với lãi suất phù hợp như đã trình bày ở trên; Chính phủ sẽ khẩn trương xác định các tiêu chí cụ thể để giảm thuế và tiếp tục thực hiện việc hoãn, dãn tiến độ nộp thuế cho các doanh nghiệp.
Tập trung giải quyết dứt điểm những thủ tục còn phiền hà, giảm đến mức thấp nhất thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Khẩn trương điều chỉnh mô hình và cơ chế để đưa vào hoạt động và phát huy hiệu quả Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; khuyến khích, hỗ trợ khu vực này phát triển mạnh sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm
Các doanh nghiệp phải lập chương trình tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoàn thiện công nghệ sản xuất và quản lý để tăng năng suất lao động, giảm chi phí trên từng công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, bảo đảm chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đi đôi với việc thiết lập và hoàn thiện các kênh phân phối để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa
Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trước hết là các tập đoàn và tổng công ty. Tăng cường trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của khối doanh nghiệp này, hướng vào các ngành nghề kinh doanh chính để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh
Đầu tư - Yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đầu tư là yếu tố có tác động kép: vừa là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần tiêu thụ sản phẩm của nhiều ngành sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật để mở đường cho tăng trưởng
Trong điều kiện xuất khẩu gặp khó khăn, lần đầu tiên, tính từ năm 1992, tốc độ tăng trưởng kim ngạch có thể mang dấu âm, thậm chí, có dự đoán đưa ra mức độ suy giảm có thể là hai chữ số; tiêu thụ trong nước tuy tăng khá, nhưng do thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của dân cư còn thấp, nên đầu tư là yếu tố có tác động kép: vừa là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần tiêu thụ sản phẩm của nhiều ngành sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật để mở đường cho tăng trưởng.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng ước đạt 483.200 tỷ đồng, bằng gần 41,8% so với GDP, cao hơn tỷ lệ 41,56% của cùng kỳ năm trước. Dự đoán cả năm có thể đạt 42,5%, tỷ lệ này chỉ thấp hơn 2 năm 2006 và 2007.
So với cùng kỳ năm trước, tổng vốn đầu tư thực hiện đã tăng 14,4%, cao hơn tốc độ tăng 13,8% của GDP tính theo giá thực tế. Đó chính là yếu tố góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn sự suy giảm tốc độ tăng trưởng, góp phần làm cho tăng trưởng kinh tế cao lên qua các quý, đang hướng đến việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng 5% về GDP.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tác động đến Việt Nam về nhiều mặt, trong đó trực tiếp nhất, lớn nhất là xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài từ các nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 9 tháng đăng ký đạt 12,6 tỷ USD, mặc dù bị sụt giảm tới 78,6% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lượng vốn đăng ký bổ sung lại đạt 4,9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng trong tổng vốn đăng ký cao hơn (tăng từ 11% lên 38,9%) và giảm ít hơn, chứng tỏ các nhà đầu tư bổ sung vốn do nhìn thấy kỳ vọng đầu tư.
Lượng vốn thực hiện ước đạt 7,2 tỷ USD, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm trước, nhưng đã đạt 72% kế hoạch cả năm, và nếu đạt được kế hoạch, thì cũng chỉ thua kém mức kỷ lục 11,6 tỷ USD của năm trước.
Trong 9 tháng, vốn đăng ký mới theo đối tác đầu tư, dẫn đầu là Samoa 1,7 tỷ USD, tiếp đến là Đài Loan trên 1,3 tỷ USD, Hàn Quốc gần 1,3 tỷ USD, quần đảo Virgin thuộc Anh 1 tỷ USD... Trong 43 địa bàn có vốn đăng ký mới, dẫn đầu là Bà Rịa - Vũng Tàu (với 2.852,5 triệu USD, nếu kể cả 3,8 tỷ USD vốn bổ sung thì lên tới trên 6,6 tỷ USD).
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 9 tháng cam kết đạt 3.236 triệu USD (vốn vay 3.122,5 triệu USD, viện trợ không hoàn lại 113,5 triệu USD). Lượng vốn giải ngân đạt 1.715 triệu USD, đạt 90% kế hoạch giải ngân cả năm. Đây là kết quả tích cực và khả quan trong năm nay.
Do lượng vốn thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài bị sụt giảm, nên nguồn vốn đầu tư trong nước đã tăng trưởng cao hơn để không những bù lại sự sụt giảm trên của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn làm cho tổng nguồn vốn đầu tư phát triển tăng cao.
Trong tổng vốn đầu tư khu vực nhà nước, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thực hiện 9 tháng ước đạt trên 96.500 tỷ đồng. Đây là cố gắng lớn trong điều kiện thu, chi ngân sách bị mất cân đối. Tỷ lệ thực hiện đã đạt 67% kế hoạch cả năm.
Nguồn vốn do trung ương quản lý đạt 72,4%, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt đạt 88,2%, nhưng Bộ Xây dựng chỉ đạt 43,3%. Nguồn vốn do địa phương quản lý mới đạt 63,5%. Bên cạnh những địa phương đạt cao hơn tỷ lệ chung, một số địa phương còn đạt thấp là Hà Tĩnh, Khánh Hoà, Bình Dương, Hoà Bình...
Vấn đề quan trọng về vốn đầu tư trong năm nay là việc vay vốn hỗ trợ lãi suất để đầu tư trung và dài hạn triển khai còn chậm, vừa đổi mới thiết bị, kỹ thuật- công nghệ, nâng cao năng suất sức cạnh tranh, vừa tranh thủ lúc giá thiết bị, kỹ thuật- công nghệ trên thế giới hiện đang còn thấp. Vấn đề quan trọng hơn là hiệu quả đầu tư, bởi hệ số giữa tỷ lệ vốn đầu tư/GDP so với tốc độ tăng trưởng GDP năm nay có thể tiếp tục cao lên so với năm trước.(Nguồn: Đầu Tư, 8/10)
Các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, cần tập trung vào các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế.
Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn.
Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,... chủ yếu cần được tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định.
- Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước.
- Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26697.doc