Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu có những cải cách kinh tế theo hướng mở đến năm 2010. khi mà Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO được 5 năm, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam nói riêng có nhiều bước chuyển biến quan trọng. Tỷ giá hối đoái thể hiện vai trò là một trong những công cụ cần thiết để Việt Nam hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
Tuy nhiên, do những khó khăn về cơ cấu xuất nhập khẩu cũng như lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất hạn chế nên trong thời gian qua, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ổn định kinh tế vĩ mô. Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDP, góp phần kiềm chế lạm phát.chứ chưa thể hiện vai trò là một công cụ xuất nhập khẩu.
Kinh nghiệm nghiên cứu từ chính sách điều hành tỷ giá của Thái Lan và các nước láng giềng có thể giúp Việt Nam tận dụng lợi thế, vượt qua khó khăn để điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt, có lợi cho nền kinh tế
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chính sách quản lý tỷ giá hối đoái phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Dựa trên cơ sở lý luận cũng như những số liệu thực tế thu được trong giai đoạn 1986-2010, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài tiểu luận: “Đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu” gồm 3 phần:
Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá
Thực trạng ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010
Đề xuất, kiến nghị
Bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót, nhóm mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý thêm của cô giáo và các bạn.
Trân trọng cảm ơn
Nhóm thực hiện.
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm
Có nhiều cách khác nhau để hiểu vể tỷ giá hối đoái, tuy nhiên có hai cách định nghĩa chính. Nếu hiểu theo nghĩa cơ bản thì “Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Tài chính Quốc tế trang…….
” tuy nhiên hiểu theo nghĩa thị trường thì “Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Tài chính Quốc tế trang…….
.” Hay nói một cách khác thì tỷ giá hối đoái giữa hai loại tiền tệ là sự định giá đồng tiền này theo đồng tiền khác. Ví dụ: khi ngân hàng niêm yết: tỷ giá đồng Việt Nam là 20.000VND/USD có nghĩa là 1 USD trị giá bằng 20.000VND.
1.2. Xác định tỷ giá
Việc xác định tỷ giá hối đoái phải dựa trên cơ sở cung cầu hay trên thị trường ngoại hối cụ thể cầu về ngoại tệ chính là cung về đồng nội tệ và cung về ngoại tệ là cầu nội tệ. Ta sẽ xét cầu và cung về USD và tỷ giá của USD tính theo số VND.
Cung về USD bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế tạo ra thu nhập về USD bao gồm ngoại tệ thu được từ hàng xuất khẩu, kiều hối người Việt Nam từ nước ngoài gửi về, các nguồn đầu tư từ nước ngoài… Trong khi đó, cầu về ngoại tệ xuất phát từ nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, các khoản đầu tư ra nước ngoài…
Hình 01: Mố hình xác định tỷ giá hối đoái Cái mô hình này cop ở đâu ý Hoàng anh nhỉ
Khi không có sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái được xác định bởi sự cân bằng giữa cung và cầu về đô la phát sinh từ các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của cán cân thanh toán quốc tế, chính là điểm E0 ở đồ thị trên. Đó chính là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Khi NHNN can thiệp bằng cách thay đổi dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá ở một mức nhất định đã được công bố trước, ta có chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Muốn cố định tỷ giá hối đoái thấp hơn mức cân bằng thị trường (điểm E1) thì NHNN phải dùng dự trữ ngoại tệ để bán ra thị trường, điều này làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHNN và tăng cung ngoại tệ trong nền kinh tế.
2. Chính sách tỷ giá hối đoái
2.1. Khái niệm
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc, công cụ biện pháp được nhà nước vận dụng để điều chỉnh tỷ giá trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã định trong chiến lược phát triểtn của quốc gia đó.
Với các quản lý tỷ giá hối đoái, chính phủ các nước trước hết nhằm mục tiêu ổn định tỷ giá trong phạm vi một biên độ giao động nhất định nhằm góp phần ổn định thương mại, đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế: chủ động với sự di chuyển của các luồng vốn. Thêm vào đó, với việc quản lý tỷ giá hối đoái cũng nhằm góp phần vào thực hiện các chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đảm bảo sự ổn định dự trữ quốc gia để thực hiện các nghĩa vụ tài chính quốc tế.
2.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá
Để quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái ở mức có lợi nhất cho nền kinh tế, chính phủ và ngân hàng nhà nước sử dụng một số công cụ. Có thể chia các công cụ này thành các nhóm:
2.2.1. Các công cụ trực tiếp
NHNN thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này của NHNN thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHNN tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của NHNN làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHNN mua bán có chứng từ có giá. Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
2.2.2. Các công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất trong nhóm các biện pháp gián tiếp can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Ngoài ra NHNN có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với ngân hàng thương mại (gọi tắt là NHTM), quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
2.3. Tác động của tỷ giá, chính sách tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá hối đoái là một loại giá, giống như tất cả các loại giá cả khác, cơ chế tác động của tỷ giá đối với xuất nhập khẩu được thực hiện thông qua sự tương tác của mối quan hệ cung - cầu về hàng hóa - dịch vụ xuất nhập khẩu với tỷ giá trên thị trường. Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả hàng hoá - dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi theo hướng làm giảm sức mua của đồng nội tệ (giá trị của đồng nội tệ giảm), thì giá cả hàng hoá - dịch vụ của nước đó sẽ tương đối rẻ hơn so với hàng hoá - dịch vụ của nước ngoài ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hàng hoá - dịch vụ nước đó có khả năng cạnh tranh tốt hơn dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ của nước đó sẽ tăng, cầu về nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và cán cân thương mại dịch chuyển về phía thặng dư.
Kết quả sẽ ngược lại khi tỷ giá hối đoái biến đổi theo hướng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác dụng làm tăng giá tương đối hàng hoá - dịch vụ của một nước so với nước ngoài sẽ dẫn đến làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu và cán cân thương mại chuyển dịch về phía thâm hụt.
Người ta thường thấy cán cân thương mại của một nước xấu đi ngay sau khi có sự giảm giá của một đồng tiền và chỉ bắt đầu được cải thiện sau đó một vài tháng hoặc một năm. Người ta cũng thấy nhiều khi lại xảy ra hiện tượng có sự thay đổi rất mạnh trong tỷ giá hối đoái nhưng chỉ có những sự thay đổi rất ít trong cán cân thương mại. Những thực tế này được các nhà kinh tế khái quát trong lý thuyết kinh tế học quốc tế là đường cong ''J'' hay còn được hiểu là hiện tượng ''tính giảm và tính trễ'' trong tác động của tỷ giá hối đoái đến những thay đổi của cán cân thương mại một nước. Đồ thị đường cong J biểu hiện tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại của một nước là sự mô tả đơn giản nhưng có tính thuyết phục cao đối với đặc điểm này.
Hình02: Đồ thị hiệu ứng đường cong J Hoàng anh ơi, cho chị cái nguồn của cái này với
Thặng dư(+)
Thời gian
0
Thâm hụt(-)
Đường cong J
Cán cân thương mại.
Khảo sát thực tiễn các nước, tính trễ và tính giảm trong tác động của tỷ giá hối đoái Trung Quốc, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06%
Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì. So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc
Một kinh nghiệm khác về chính sách điều chỉnh tỷ giá của Thái Lan. Trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, chính sách tỷ giá hối đoái cố định đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
Từ cuối năm 1998 – 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn.
Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Thái Lan, có thể nhận thấy, để sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái thành công, các nước đã sử dụng đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong cải cách, duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế, lựa chọn thời điểm hợp lý để phá giá đồng nội tệ trên cơ sở không neo giữ đồng nội tệ với ngoại tệ mạnh và giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là XHCN) trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương.
1.1. Chính sách tỷ giá
Tỷ giá được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN. Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND là 1CNY=1470VND. Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY Þ 1 SUR = 735 VND.Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn tại song song nhiều loại tỷ giá. Do nhà nước ấn định một mức tỷ giá cố định trong khi các giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng nên khi hàng xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm tính theo tỷ giá cố định và hàng đổi lại nhập khẩu từ nước ngoài vào cuối năm trong khi đồng ngoại tệ lại có sự biến đổi (tăng giảm giá trị ngoại tệ và chi phí sản xuất) nên để phù hợp với hợp đồng trao đổi hàng hóa, tỷ giá trong giao dịch nhập khẩu này được điều chỉnh cho phù hợp và khác với tỷ giá do nhà nước ấn định. Ngoài ra, với chính sách ưu tiê xuất khẩu và nhập khẩu một số ngành hàng nên tỷ giá khi tính giá trị xuất/nhập các mặt hàng này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với chính sách ưu tiên.
1.2. Tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển, chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam còn yếu, vị thế trên thị trường chưa có nên Việt Nam không có lợi thế trong việc đàm phán mức tỷ giá có lợi cho mình nên đồng VND luôn được định giá quá cao
Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất. Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.
Trước tình hình đó, tỷ giá cũng được bước đầu điều chỉnh mặc dù chỉ số giá cả hằng năm biến động rất lớn. Tuy nhiên , trong những năm 1988,1989 xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu . Vì vậy, khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động mạnh đến mức giá trong nước .
Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ ) ra quyết định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều chỉnh tỷ giá phù hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi 10% đến 30% cá biệt đến 50%. Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Bảng 01: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1989
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Tỷ giá thị trường (USD/VND)
Mức tỷ giá
(đồng)
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Giá trị (triệu USD)
% Tăng, giảm
Mức tỷ giá
(đồng)
% Tăng, giảm
1986
80
100
789,1
100
2155,1
100
-1366
100
425
369,56
1987
368
460
854,2
108,25
2455,1
113,92
-1600,9
117,20
1270
298,82
1988
3000
815,21
1038,4
121,56
2756,7
112,29
-1718,3
107,33
5000
393,70
Nguồn : Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê
Có thể dễ dàng nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng nặng. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ USD thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không những không kích thích được ngoại thương mà còn đẩy hoạt động này đến tình cảnh nhập siêu trầm trọng hơn.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, bộ mặt ngoại thương lập tức có biến chuyển rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).
Thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 một chỉ số quá thấp thể hiện nền kinh tế tăng trưởng không bền vững hay đúng hơn là không tăng trưởng. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất đi luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập về nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989. Lý do cơ bản giải thích cho vấn đề này chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng nổi.
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
Thời kỳ này đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tệ, trong đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
2.1. Chính sách tỷ giá.
Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện cải cách cơ chế điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam (VND) với Đôla Mỹ. Ngân hàng Nhà nước đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Chính phủ đã ủy quyền cho Thống đốc NHNN được toàn quyền điều hành quỹ một cách linh hoạt.
Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 9/1991) và Hà Nội (tháng 11/1991). Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và NHNN. Ngoài ra, các ngân hàng được phép tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của Đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không được vượt quá 0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
2.2. Đánh giá tác động
Chính phủ đã có những bước đi mới để tỷ giá đồng VND được linh hoạt hơn theo nhu cầu thị trường và điều này đã tạo nên những chuyển biến trong tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Bảng 02: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1991
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Tỷ giá thị trường (USD/VND)
Mức tỷ giá
(đồng)
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Giá trị (triệu USD)
% Tăng, giảm
Mức tỷ giá
(đồng)
% Tăng, giảm
1989
3900
130
1320
127,12
2565,8
93,08
-1245,8
72,50
4100
82
1990
6300
161,54
2404
182,12
2752,4
107,27
-348,4
27,96
6500
158,54
1991
9767
155,03
2087,1
86,82
2338.4
84,96
-251,3
72,13
11975
184,23
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê
Bảng 4 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng nội tệ đã giảm xuống 9767 đồng/đôla năm 1991; trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 3 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia bao gồm cả những nước tư bản phương tây.
Do tỷ giá chính thức được điều chỉnh tiến sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ nét hơn, chính xác hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá, thể hiện xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong ba năm 1989-1991 yếu tố nổi bật trong tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu là mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Đơn cử như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức thu hẹp mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Xét về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1991, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá đồng nội tệ, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bên cạnh đó, việc tỷ giá giảm mạnh kéo theo sự tăng lên đáng kể trong đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp đã làm phong phú hơn danh mục xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc liên doanh thường dẫn đến tình trạng góp vốn thông qua công nghệ và thế là Việt Nam bắt đầu nhập về những công nghệ mới như công nghệ dán da, công nghệ xử lý chất thải...những công nghệ từ trước tới nay chưa từng có trong danh mục nhập khẩu để rồi đi đến sản xuất những chủng loại hàng có thể cũng chưa bao giờ xuất hiện trong danh mục xuất khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, thay vào đó là sự lên ngôi của thị trường Châu Á trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên cả lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thời kỳ này do có lợi thế về giá cộng với rủi ro tỷ giá hoàn toàn không có nên đã yên tâm phát triển sản xuất, mạnh bạo hơn trong vấn đề vay vốn và bước đầu sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả.
Có thể nói, việc mở rộng hoạt động ngoại thương sang khu vực đồng USD là một bước đi quan trọng, tỷ giá đồng VND được điều chỉnh bởi thị trường đã góp phần thay đổi bộ mặt xuất nhập khẩu của Việt Nam.
3. Giai đoạn 1992 – 1999
3.1 Chính sách tỷ giáChị Thùy ơi em thấy phần này về chính sách tỷ giá, em điều chỉnh lại thành chung chung thế này nhé vì chia nhỏ giai đoạn như trc em chẳng thấy cái “đấu giá tại trung tâm giao dịch” đâu cả
Tiếp tục những bước thay đổi trong chính sách điều hành tỷ giá, ngày 20/10/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập với quy mô lớn hơn, hoạt động linh hoạt hơn. Do đó, tỷ giá hối đoái ngày cảng phản đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, NHNN nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
3.2 Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu
Nhìn vào bảng trên có thể thấy trong các năm từ 1992 – 1999, duy chỉ có năm 1992 là Việt Nam đạt xuất siêu. Tuy nhiên, thành tích xuất siêu kéo dài không được bao lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra.
Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Song thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Năm 1994, nếu mức tăng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 36% ở mức giảm giá danh nghĩa nội tệ 2,96% thì sang năm 1995, mức tăng xuất khẩu chỉ đạt khoảng 34% bởi tỷ giá giảm rất thấp, ở mức 0,14%.
Bảng 03: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá
giai đoạn 1992-1999
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Hệ số co giãn
Mức tỷ giá
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Thâm hụt (triệu USD)
% Tăng, giảm
Xuất khẩu (ηx)
Nhập khẩu (ηn)
1992
10720
109,75
2580,7
123,65
2540,7
108,65
40
-15,92
1993
10640
100
2985,2
100
3924
100
938,8
100
1994
10955
102,9
4054,3
135,8
5825,8
148,5
1771,5
143,7
1,32
-1,44
1995
10970
100,1
5448,9
134,4
8155,4
140
2706,5
149,7
1,34
-1,40
1996
11100
101,2
7255,9
133,2
11143,6
136,6
3887,7
153,6
1,32
-1,35
1997
11175
100,7
9185
126,6
11592,3
104
2407,3
126,2
1,26
-1,03
1998
12985
116,2
9360
101,9
11499,6
99,2
2139,6
122.9
0,88
-0,85
1999
14004
107.848
11541.4
123.306
11742.1
102.109
200.7
101,7
1,14
-0,94
(Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước)
Căn cứ vào số liệu ở Bảng 1 trên, có thể thấy việc tỷ giá luẩn quẩn quanh biên độ giao động +/- 0,5% giai đoạn 93-96 đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị định cao hơn so với giá trị thực của nó vận động rất đúng theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và thực sự gây tổn hại đến sản xuất trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tăng tỷ giá dường như ưu ái cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Giá đô la hạ xuống 12,5% từ khoảng 12.000 tháng 1/1993 xuống 10.600 cuối năm khiến hàng nhập theo giá đô la cũng được rẻ đi 12,5% . Nếu lấy năm 1992 làm mốc, đồng Việt Nam đã lên giá 24% trong 3 năm 1993 – 1995 và theo đó giá hàng xuất khẩu cũng bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc.
Hình 03 : Diễn biến tỷ giá USD/VND giai đoạn 1992 -1999
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng Đô la cũng đã phần nào khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật...Điều này cũng khiến công tác mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do công tác xúc tiến thị trường giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được tiến hành rầm rộ nên qui mô thị trường không những không bị thu hẹp mà ngày càng được mở rộng hay nói cách khác, thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng mấy đến vấn đề thị trường xuất-nhập khẩu.
Khủng hoảng giai đoạn 1997 – 1998 đã thay đổi toàn bộ quan điểm điều hành tỷ giá của Việt Nam. Xét thấy việc cố định tỷ giá ở mức cao là không thể được, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh ngay tỷ giá đồng Việt Nam. Cơ chế điều hành tỷ giá tỏ ra hoạt động có hiệu quả khi chỉ trong vòng 1 năm (1997 so với 1996 ) đồng Việt Nam đã giảm giá 16%, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa được thu hẹp, tác động tích cực đến ngoại thương Việt Nam. Rõ nét nhất là kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, chỉ dừng ở mức 4%, đưa mức nhập siêu xuống 2,4 tỷ so với 3,8 tỷ năm 1997 so với 1996. Và đặc biệt năm 1999, mức nhập siêu chỉ còn khoảng 200 triệu đô la.
Mặc dầu vậy, khi đặt đồng Việt Nam trong tương quan với giá tiền tệ các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng thì giá đồng Việt Nam vẫn còn ở mức cao. Trung bình, tỷ lệ mất giá so với đô la của các đồng tiền thuộc khu vực khủng hoảng là 30-40%, cao nhất là đồng Rupiah của Indonesia với độ mất giá đến hơn 80%, ngay cả đồng đô la Singapore cũng bị sụt giá 16% trong khi đó đồng Việt Nam chỉ được giảm giá trung bình 8,25%. Thực tế này đã không mang lại điều kiện về giá cho hàng hóa Việt Nam để có thể cạnh tranh được trên thị trường các nước Đông Nam Á. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao lượng xuất khẩu của Việt Nam không tăng mấy trong năm 1998, kéo theo kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng xuất khẩu đứng ở mức thấp 1,9%.
Tóm lại, có thể nói tác động bao trùm của tỷ giá lên hoạt động ngoại thương thời kỳ này mang tính tích cực. Lần đầu tiên chúng ta đã dung hòa được mối quan hệ vốn mâu thuẫn giữa xuất khẩu-tỷ giá-nhập khẩu. Nhập khẩu được kiểm soát còn xuất khẩu trở nên chủ động hơn trên những thị trường mới và thời kỳ 1997-1999 có thể xem là thời kỳ thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
4. Thời kỳ 2000-2010
Trong 10 năm từ 2000 đến 2001, nền kinh tế Việt Nam vượt qua được khủng hoảng tài chính tiền tệ tại châu Á, từng bước hội nhập sau hơn vào nền kinh tế thế giới. Đặc biệt với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO năm 2005, nền kinh tế Việt Nam mới có cơ hội thử sức mình tại sân chơi cởi mở hơn. Cùng với những cam kết về tự do hóa thương mại mà chính phủ Việt Nam đã kí trong các vòng đàm phán, các rào cản đối với hàng nhập khẩu dẫn dỡ bỏ, hàng hóa 150 nước thành viên vào thị trường Việt Nam thuận lợi hơn và hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có nhiều cơ hội xuất ra thị trường rộng lớn.
4.1. Chính sách tỷ giá
Việt Nam thi hành chính sách quản lý tỷ giá “thả nổi có sự điều tiết của nhà nước”. Theo đó, nhà nước sẽ quản lý thông qua “tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng và biên độ giao động được phép”. Vào đầu mỗi ngày giao dịch, Ngân hàng nhà nước sẽ ấn định một mức tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng và theo đó, các ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá mua và bán ngoại tệ của mình trong phạm vi biên độ dao động được phép. Sự tăng và giảm giá đồng Việt Nam được đánh giá dựa vào mức tỷ giá bình quân mà ngân hàng nhà nước ấn định và biên độ dao động được phép thể hiện sự “quản lý” của nhà nước đối với tỷ giá giao dịch của đồng Việt Nam.
Hình 04: Biến động tỷ giá 2000-2010 Tổng hợp website Ngân hàng Á Châu :
Tiếp tục những bước quản lý từ năm 1999, sang năm 2000, ngân hàng nhà nước Việt Nam vẫn duy trì mức biên độ dao động được phép trong khoảng 1% tuy nhiên đến tháng 3/2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nên kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, tỷ giá bán ra niêm yết tại các ngân hàng thương mại luôn ở mức trần. Đến tháng 3 năm 2008, ngân hàng nhà nước quyết định tăng biên bộ giao động được phép từ 1% lên 3%, tuy nhiên, động thái này của chính phủ cũng chỉ giúp thị trường ngoại tệ tại các ngân hàng bớt căng thẳng đến tháng 3 năm 2009,thêm 1 lần nữa biên độ dao động lại được diều chỉnh tăng thêm 2% lên mức 5% kèm theo đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng cũng được điều chỉnh tăng 3,4%.
Với hy vọng những can thiệp mạnh tay của ngân hàng nhà nước cho phép các NHTM chủ động hơn trong việc niêm yết tỷ giá tuy nhiên liên tục tỷ giá của các ngân hàng thương mại đạt mức kịch trần và liêp tiếp trong năm 2009 và năm 2010, nhà nước hạ biên độ giao động và tăng tỷ giá liên ngân hàng và hiện nay, biên độ dao động được phép đang ở mức 1%.
Lý giải cho điều này, nguyên nhân chính là từ cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam mất cân đối, hàm lượng chế biến trong hàng xuất khẩu thấp trong khi lại nhập khảu nhiều hàng hóa tiêu dùng mà chưa chú trọng đến việc nhập khẩu để sản xuất hàng hóa trong nước. Điều này làm cho nhập siêu của Việt Nam tăng cao trong năm 2007-2008 dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cho nhập khẩu căng thẳng. Thêm vào đó, để giải quyết ngoại tệ trước mắt cho nhập khẩu đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nên Ngân hàng nhà nước cho phép các ngân hàng Thương mại cho doanh ngiệp vay bằng ngoại tệ để bán lại cho ngân hàng lấy VND để thu mua hàng hóa trong nước nên khi các khế ước vay này đến hạn trả nợ cũng tạo sức ép lên thị trường ngoại tệ.
Cũng có 1 lý do nữa cần phải kể đến là trong khi ngân hàng nhà nước kiểm soát và can thiệp mạnh mẽ vào thị trường ngoại tệ mua bán trong các ngân hàng thương mại thì lại thả nổi thị trường tự do. Tâm lý đầu cơ của các doanh nghiệp xuất khẩu găm giữ ngoại tệ trên tài khoản và các cá nhân thì tích trữ ngoại tệ từ thị trường tự do, điều này dẫn đến có sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ giá niêm yết tại ngân hàng thương mại và tỷ giá ngoài thị trường tự do có thời điểm lên tới hàng nghìn điểm.
4.2. Đánh giá tác động
Cùng với việc tự do hóa thương mại, kim ngạch hàng hóa trao đổi tăng lên cũng là lúc chính phủ cần thận trọng hơn trong chính sách quản lý tỷ giá theo hướng không chủ thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu mà còn phải đảm bảo cân bằng cán cân thương mại.
Tổng hợp bảng số liệu về tỷ giá hối đoái của Việt Nam và tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2010:
Bảng 04: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá
giai đoạn 2000-2010
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Mức tỷ giá
(đồng)
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Giá trị (triệu USD)
% Tăng, giảm
2000
14,782
5.55
14,483
25.49
15,637
33.06
-1,154
-674.99
2001
14,846
0.43
15,029
3.76
16,218
3.71
-1,189
-3.03
2002
15,270
2.86
16,706
11.16
19,745
21.75
-3,039
-155.59
2003
15,512
1.58
20,149
20.61
25,256
27.91
-5,107
-68.05
2004
15,744
1.49
26,504
31.54
31,954
26.52
-5,405
-6.71
2005
15,857
0.72
32,442
22.40
36,978
15.72
-4.536
16.77
2006
15,994
0.86
39,632
22.16
44,412
20.10
-4,780
-5.38
2007
16,080
0.53
48,561
22.53
62,682
41.14
-14,121
-195.42
2008
16,448
2.28
62,685
29.08
80,714
28.77
-18,029
-27.67
2009
17,815
8.31
57,096
-8.91
69,949
-13.33
-12,853
28.71
2010
19,118
7.34
72,192
26.44
84,801
21.23
-12,609
1.90
(Nguồn: Tổng hợp trên số liệu của Ngân hàng Á châu và Tổng cục thống kê)
Trong 5 năm từ 2001 đến 2005, khi Việt Nam chưa thành thành viên WTO, tỷ giá đồng VND được duy trì ở mức tương đối ổn định, theo đó kim ngạch xuất khẩu cũng được duy trì ở mức tăng đều tuy nhiên cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt trong khoảng 4 đến 5 tỷ đô la Mỹ. Mức thâm hụt này phản ánh đúng nhu cầu và phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, sau năm 2005, đặc biệt là cuối năm 2006 và bước sang năm 2007, kim ngạch nhập khảu của Việt Nam tăng nhảy vọt. Điều này được lý giải là do khi mở cửa nền kinh tế, hàng nhập khẩu ồ ạt vào thị trường Việt Nam trong khi hàng xuất khẩu vẫn loay hoay chưa tìm tạo ra được bước nhảy. Thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục tăng 195,42% so với năm 2006. Tình hình này làm cho lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam bị giảm sút nghiêm trọng.
Sang năm 2009, chính phủ 2 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng và đến cuối năm 2010. Đồng VND bị giảm giá liên tục 8.3% năm 2009 và 7.3% năm 2010.
Nhìn vào số liệu phản ánh về tỷ lệ tăng giá đồng tiền Việt Nam với sự thay đổi trong cán cân thương mại có thể nói độ nhạy của những thay đổi trong cán cân đối với thay đổi trong tỷ giá là rất thấp. Nếu như năm 2009 khi đồng Việt Nam giảm giá 8.3% thì cán cân được cải thiện 28.7% nhưng với 7.3% giảm giá trong năm 2010 thì cán cân chỉ được cải thiện 1.9%. Chúng ta cũng nhận thấy sự tác động không thống nhất của những thay đổi về tỷ giá lên sự thay đổi của kim ngach xuất nhập khẩu cũng như cán cân thương mại càng cho thấy những thay đổi về tỷ giá của ngân hàng nhà nước và thị trường ngoại hối trong thời gian qua chưa hỗ trợ được cho kim ngạch xuất nhập khẩu cũng như cán cân thương mại của Việt Nam.
Có thể nói, giai đoạn 2000-2010 nền kinh tế Việt Nam nói chung và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng được vận động trong môi trường tự do cạnh tranh. Những thay đổi của chính sách tỷ giá ít nhiều tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại tuy nhiên, mức tác động này chưa tương xứng với vai trò của chính sách tỷ giá trong 1 nền kinh tế mở. Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam vẫn chưa được điều hành như một công cụ tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu mà mới chỉ dừng lại ở việc ổn định tình hình tiền tệ.
Trong thời gian tới, cùng với các công cụ quản lý khác, nhà nước sẽ có những biện pháp đồng bộ nhằm thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu, tăng dự trữ ngoại tệ và chính sách tỷ giá được điều hành theo hướng tích cực hơn.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÊN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
1. Giải pháp mang tính vĩ mô
1.1 Phương pháp xác định và điều chỉnh tỷ giá
Định hướng chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ những năm đầu đổi mới là quyết định gắn đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ đã làm cho giá trị thực của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ thường xuyên biến động theo mọi thăng trầm của đồng đô la Mỹ. Điều đó phần nào ảnh hưởng đến ngoại thương Việt Nam và bóp méo vai trò của tỷ giá trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng như chính thực tế của Việt Nam đã chứng minh rằng qúa trình tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện nền kinh tế và thị trường tài chính – tiền tệ đang ngày càng quốc tế hóa hiện nay, không thể không nhận ra và tận dụng những lợi ích to lớn từ thương mại và phân công lao động quốc tế. Ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng bền vững, Việt Nam phải tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu. Muốn vậy, Việt Nam phải duy trì tỷ giá hối đoái sao cho những người xuất khẩu có lãi khi bán sản phẩm ra thị trường thế giới. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng Nhà nước phải luôn điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa phản ánh được những chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát trong nước và thế giới.
Việc xác lập một tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam có tính chất cạnh tranh hiện nay là một điều cần thiết, hợp lý nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập của những hàng hóa nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích việc lập kế hoạch và kiểm soát tài chính hợp lý cho mọi khoản vay nước ngoài, sao cho nguồn lực ngoại tệ quý hiếm và đắt giá này được sử dụng tiết kiệm hiệu quả.
1.2 Xây dựng và hoàn thiện thị trường ngoại hối ở Việt Nam
Việt Nam đã thực hiện có chế tỷ giá linh hoạt và sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò thiết yếu. Liên quan chặt chẽ đến vấn đề này là việc phát triển thị trường ngoại hối. Một thị trường ngoại hối có khả năng thanh khoản cao và hoạt động có hiệu quả sẽ cho phép tỷ giá đáp ứng tín hiệu của thị trường, giảm thiếu các rủi ro tỷ giá.
Với thị trường ngoại hối, mỗi doanh nghiệp đều có khả năng trở thành một thành viên của thị trường, trực tiếp tham gia tiến hành các nghiệp vụ mua bán vay mượn ngoại tệ trên thị trường. Khi đó, mỗi doanh nghiệp kinh doanh XNK sẽ chủ động phối hợp với các ngân hàng tiến hành những nghiệp để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn ngoại tệ của mình và qua đó tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Do vậy, xây dựng hoàn chỉnh một thị trường ngoại hối ở Việt Nam không những là yêu cầu của phát triển mà còn là một giải pháp mà các cơ quan quản lý vĩ mô cần quan tâm.
1.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ khác
Như đã phân tích ở trên, việc khan hiếm ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng không chỉ xuất phát từ sự mất cân đối trong hoạt động xuất nhập khẩu mà một phần do tâm lý găm giữ ngoại tệ và sự thả nổi thị trường tự do. Để những điều chỉnh về tỷ giá hối đoái thật sự có hiệu quả, chính phủ cần kết hợp chặt chẽ công cụ tỷ giá hối đoái với những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ như việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khẩu đối với VND và USD, đưa ra mức trần lãi suất huy động VND, USD theo hướng lãi suất huy động USD thấp hơn huy động VND một mức hợp lý. Ngoài ra, có thể chính phủ xem xét đến các quy định kết hối, theo đó các doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải bán lại ngoại tệ cho ngân hàng mộ tỷ lệ nhất định. Đặc biệt, việc kiểm soát chặt chẽ thị trường tự do là một biện pháp cần thiết để ổn định tỷ giá hối đoái.
1.4 Một số giải pháp vĩ mô khác
Xây dựng hệ thống ngân hàng thông tin hỗ trợ hoạt động tỷ giá và xuất nhập khẩu:
Thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam, là thứ bảo bối giúp các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các ngân hàng thông tin có thể được xây dựng bởi chính các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với sự hỗ trợ tài chính của nhà nước. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu Nhà nước đứng ra thành lập ngân hàng thông tin, sau đó sẽ thu lệ phí từ các doanh nghiệp sử dụng.
Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới:
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp này quảng bá trên thị trường thế giới như tham gia hội chợ, triển lãm nước ngoài.
Ngăn chặn, đẩy lùi hoàn toàn hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại:
Các hoạt động này làm xáo trộn thị trường trong nước, kìm hãm sự phát triển của xuất khẩu, hủy hoại năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Do vậy, cần phải từng bước đẩy lùi tiến tới xóa bỏ hoàn toàn buôn lậu, gian lận thương mại.
2. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Trong các nhân tố rủi ro, rủi ro về tỷ giá là một trong những rủi ro lớn và dễ gặp nhất. Đối với nhà nhập khẩu, rủi ro hối đoái xảy ra khi ngoại tệ mà nhà nhập khẩu phải trả trong tương lai lên giá so với bản tệ.
2.1 Các giải pháp nghiệp vụ trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương
Bước khởi đầu một thương vụ ở bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là việc ký kết hợp đòng ngoại thương. Chính những điều khoản trong hợp đồng này sẽ chi phối toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Hiện nay phần lớn các quốc gia trên thế giới áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, do đó những biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự ổn định giá trị của nguồn vốn, lợi nhuận và các khoản phải thu phải chi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Do vậy, trong mỗi thương vụ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải đặc biệt quan tâm tới các khả năng biến đọng của tỷ giá hối đoái và ảnh hưởng của nó đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chú ý tới các điều khoản thanh toán trong hợp đồng ngoại thương, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể phần nào tránh được rủi ro do biến động của tỷ giá hối đoái đem lại.
2.2 Các chiến lược tự bảo hiểm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Để tránh bị thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng như có kế hoạch đảm bảo trạng thái ngoại hối cho các khoản thanh toán cũng như thu nhập bằng ngoại tệ trong tương lai thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng như nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn (hợp đồng Forward), sử dụng thị trường tiền tệ phòng chống rủi ro, hợp đồng option, …
2.3 Các giải pháp trong quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh nghiệp xuất khẩu
Tỷ giá chính thức đóng vai trò như là một thước đo bình đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bởi mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới mục tiêu:
Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá chính thức < Tỷ giá nhập khẩu
Các doanh nghiệp chỉ có thể có lãi khi họ đạt được mục tiêu trên. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng hạ tối thiểu tỷ giá xuất khẩu của mình bằng cách tiết kiệm chi phí, làm giảm giá thành sản xuất, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu quốc tế để có thể nâng giá bán hàng xuất khẩu gần với mức giá quốc tế mà vẫn mở rộng được thị trường.
2.4 Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái
Với giải pháp này, doanh nghiệp không cần có chiến lược phòng chống rủi ro hối đoái mà tiến hành tạo lập quỹ dự phòng. Quỹ này được hình thành từ lợi nhuận do chênh lệch tỷ giá khi tỷ giá biến động thuận lợi và dung để bù đắp lỗ khi tỷ giá biến động bất lợi cho doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu có những cải cách kinh tế theo hướng mở đến năm 2010. khi mà Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO được 5 năm, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam nói riêng có nhiều bước chuyển biến quan trọng. Tỷ giá hối đoái thể hiện vai trò là một trong những công cụ cần thiết để Việt Nam hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
Tuy nhiên, do những khó khăn về cơ cấu xuất nhập khẩu cũng như lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất hạn chế nên trong thời gian qua, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ổn định kinh tế vĩ mô. Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDP, góp phần kiềm chế lạm phát...chứ chưa thể hiện vai trò là một công cụ xuất nhập khẩu.
Kinh nghiệm nghiên cứu từ chính sách điều hành tỷ giá của Thái Lan và các nước láng giềng có thể giúp Việt Nam tận dụng lợi thế, vượt qua khó khăn để điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt, có lợi cho nền kinh tế.
Qua nghiên cứu, nhóm đã thống kê một số số liệu về tỷ giá và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000-2010. Những thống kê và phân tích được trinh bày trong bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót tuy nhiên, nhóm nghiên cứu hy vọng những kiến nghị mà nhóm đưa ra sẽ góp phần giúp Việt Nam có một cơ chế điều hành tỷ giá hợp lý, tài trợ đúng mức cho hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Bài nghiên cứu được hoàn thành với sự hướng dẫn của TS.Nguyễn Xuân Nữ cùng sự giúp đỡ của các bạn lớp CH KTTG 17B.
Trân trọng cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỌI NGƯỜI ƠI CHO EM XIN CÁI TÀI LIỆU THAM KHẢO VỚI
(1) Lê Xuân Hiếu - Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và phá giá đồng nội tệ – Tài Chính, tháng 7/2001
(2) Nguyễn Ngọc Thanh -Lịch sử tỷ giá Việt Nam- Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 3/2003.
(3) PGS.Đinh Xuân Trình -Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Nhà xuất bản giáo dục, 2001
(4) Niên giám thống kê 2002; Nhà xuất bản thống kê.
(5) Nguyễn Thanh Hà - Nhìn nhận về những biến động về tỷ giá USD tại Việt Nam trong thời gian qua – Tài Chính, 9/2001.
(6) Bảng số liệu dựa trên tài liệu của Ngân hàng Á Châu và tổng cục thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Danh gia tac dong ty gia len hoat dong XNK VN 08_05.doc