Tiểu luận Điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn 2007-2009

Phân tích những ưu, nhược điểm của việc thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước việt nam giai đoạn 2007 - 2009. 1. Chính sách tiền tệ năm 2007 1.1. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2007 a. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM): b. Về công cụ dự trữ bắt buộc: c. Tái cấp vốn (TCV), tái chiết khấu (TCK) d. Về điều hành lãi suất: e. Về điều hành tỷ giá: 1.2. Đánh giá điều hành chính sách tiền tệ năm 2007: a. Những mặt đã đạt được b. Những mặt hạn chế 2. Chính sách tiền tệ năm 2008 2.1. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: a. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở: b. Về phát hành tín phiếu bắt buộc c. Về công cụ dự trữ bắt buộc: d. Về tái cấp vốn, tái chiết khấu và lãi suất e. Về tỷ giá 2.2. Đánh giá điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: 3. Chính sách tiền tệ năm 2009: a. Nghiệp vụ thị trường mở: b. Về dự trữ bắt buộc: e. Hỗ trợ lãi suất d. Về tỷ giá: c. Về tái cấp vốn, tái chiết khấu và lãi suất .

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn 2007-2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, CSTT thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò, vị trí của mình hay không lại phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam (VN) đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để điều hành thị trường tiền tệ. Hãy cùng nhìn lại quá trình điều hành CSTT của NHNN Việt Nam giai đoạn 2007-2009. 1. Chính sách tiền tệ năm 2007 Năm 2007, khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến. Tuy nhiên, năm 2007 là năm ảm đạm trong nền kinh tế Mỹ khi mà đồng đô la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế giới chịu ảnh hưởng, trong đó có VN. Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai đồng bộ, linh hoạt các giải pháp điều hành CSTT nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán (TPTTT) và tăng trưởng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát. 1.1. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2007 a. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM): Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên mua, thay đổi phương thức đấu thầu. Năm 2007, có 20 thành viên tham gia, gồm các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng (NH) liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài, tăng 20% so với năm trước, góp phần tăng khả năng điều tiết của nghiệp vụ này. Để nhanh chóng kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, NHNN đã tăng số phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở từ 3 phiên/1 tuần lên thực hiện giao dịch hàng ngày, tăng khối lượng tín phiếu NHNN bán ra, đa dạng hóa các kỳ hạn tín phiếu NHNN từ 14 đến 364 ngày, xác định mức lãi suất hợp lý để rút tiền lưu thông về. Lãi suất trúng thầu bình quân trong các phiên chào bán là 4,35%/năm. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện định kỳ hàng tuần 1 phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 14 ngày, nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các NHTM thực sự thiếu hụt vốn. Lãi suất chào mua bình quân khoảng 8,2%/năm. b. Về công cụ dự trữ bắt buộc: Từ giữa năm 2007, lạm phát có xu hướng tăng mạnh, NHNN đã nhanh chóng tăng tỷ giá DTBB gấp 1,5 – 2 lần (áp dụng từ tháng 6/2007) để hút tiền về. Tỷ lệ DTBB áp dụng với tiền gửi VND có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 5% lên 10%; (ngoại trừ NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương). Tỷ lệ DTBB áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 8% lên 10%. Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi VND và ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 2% lên 4%. c. Tái cấp vốn (TCV), tái chiết khấu (TCK) Năm 2007, nhìn chung, vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) xét trên toàn hệ thống tiếp tục dư thừa. Trong khi đó, hoạt động thị trường liên NH chưa thực sự thông suốt nên một số NHTM có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng đã tiếp cận các kênh tái cấp vốn của NHNN (dưới hình thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá. Đồng thời, từ đầu năm 2007 NHNN đã hạn chế việc tái cấp vốn thông qua cầm cố giấy tờ có giá. Hơn nữa, do các TCTD tiếp tục dư thừa vốn nên rất ít TCTD tiếp cận nguồn vốn này. Để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất đã công bố như lãi suất TCV 6,5%/năm, lãi suất TCK là 4,5%/năm. d. Về điều hành lãi suất: NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất do NHNN công bố như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định lãi suất thị trường. Đối với tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD kể từ ngày 01/01/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, theo đó, các TCTD được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận. Với cơ chế điều hành lãi suất như trên, lãi suất trên thị trường tiền tệ năm 2007 tương đối ổn định. Lãi suất trên thị trường liên NH biến động trong khoảng dưới 15%/năm. Lãi suất huy động của các NHTM biến động trong khoảng dưới 10%/năm. e. Về điều hành tỷ giá: Đứng trước áp lực đồng Việt Nam tăng giá, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng ngoại tệ dự trữ dự phòng khi xảy ra bất trắc, NHNN đã tung tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ Đôla, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước. Bên cạnh việc phát hành VND mua ngoại tệ, NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ +-0,25% lên +-0,5% và +-0,75% nhằm giảm áp lực lạm phát. Tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên NH giữa đồng Việt Nam với Đô la Mỹ tương đối ổn định, cả năm tăng 0,08%. 1.2. Đánh giá điều hành chính sách tiền tệ năm 2007: a. Những mặt đã đạt được - Quy mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế: + Lãi suất thị trường liên NH mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn của các TCTD ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006. - TPTTT mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực: + Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ 19,3% năm 2006 xuống 17,8% năm 2007. + Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2006 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế. - Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế: + Hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực: các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay NH để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội. + Chất lượng tín dụng được cải thiện: tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2007 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); của các NH liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%). b. Những mặt hạn chế Nếu quan sát những diễn biến của thị trường tiền tệ trong thời gian qua sẽ thấy hai sự can thiệp trái chiều rất đáng chú ý của NHNN Việt Nam. Một mặt, tung tiền đồng ra để mua vào đôla; nhưng mặt khác, tăng gấp đôi tỷ lệ DTBB để thu hồi lại lượng tiền đã tung ra. Như vậy, để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát của mình, NHNN đã thực hiện giải pháp tương đối đơn giản là đem cất bớt tiền. Tuy nhiên, việc cất bớt tiền ở thời điểm hiện nay có vẻ không hợp lý lắm: Thứ nhất, tuy các NH có vẻ dư thừa nguồn vốn trong những tháng đầu năm, nhưng có lẽ bây giờ là thời điểm nền kinh tế sẽ hấp thụ một lượng vốn lớn khi mà những thuận lợi có được từ việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO bắt đầu được phát huy. Nếu tăng DTBB lúc này, không những làm cho chi phí đầu ra của NH và doanh nghiệp gia tăng mà sự khan hiếm vốn cũng có thể xảy ra và sẽ đẩy các NH vào một cuộc đua lãi suất mới gây bất lợi cho nền kinh tế. Thứ hai, mục tiêu đưa tiền vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài là để tạo ra lợi nhuận. Để có được lợi nhuận, chỉ có cách duy nhất là đem tiền đầu tư tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Trường hợp đem tiền cất vào trong két làm dự trữ hoặc đầu tư vào những loại chứng khoán ít rủi ro sẽ tạo ra suất sinh lợi thấp. Khi đó, khoảng cách giữa chi phí vốn và suất sinh lợi sẽ rất lớn. Như vậy, thoạt nhìn thì thấy rằng việc can thiệp của NHNN rất hay, nhưng phân tích kỹ một chút sẽ thấy những bất ổn từ chính sách này. 2. Chính sách tiền tệ năm 2008 Năm 2008, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều sự kiện phức tạp, khó lường, xuất phát từ cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ. Trong nước kinh tế tăng trưởng chậm lại. Giá dầu thô tăng cao, cùng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hóa VN có hiện tượng “bốc hỏa” về giá. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tăng 17,18% - mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm, lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Trước tình hình đó NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá,… và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm 2008 đã thực sự thành công. 2.1. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: a. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở: Các giao dịch thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo hình thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất để bình ổn thị trường. Trong 7 tháng đầu năm 2008, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn 182 ngày là 7,5%/năm; đối với kỳ hạn 364 ngày là 7,75%/năm. Đồng thời để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28 ngày). Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT bằng các giải pháp linh hoạt. NHNN tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7-14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lý. b. Về phát hành tín phiếu bắt buộc Để thực hiện mục tiêu kiếm chế lạm phát, tháng 3/2008 NHNN phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc với khối lượng 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm. Về lãi suất tín phiếu NHNN bắt buộc, ngày 1/7/2008 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc từ 7,8%/năm lên 13%/năm nhằm tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay với khách hàng để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Ngày 22/12/2008, lãi suất tín phiếu NHNN được điều chỉnh giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm để phù hợp với các mức lãi suất khác do NHNN công bố. c. Về công cụ dự trữ bắt buộc: Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008 NHNN điều chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VNĐ và ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD (trừ NHNo&PTNT Việt Nam, một số TCTD hợp tác và NHTMCP nông thôn). Đồng thời mở rộng diện phải DTBB đối với loại tiền gửi kỳ hạn từ 24 tháng trở lên (trước đây chưa bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng) nhằm nâng cao khả nâng cao điều tiết công cụ DTBB. Những tháng cuối năm, để hỗ trợ các TCTD tăng cường cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ 11%/năm xuống 10% - 6%/năm và tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11% xuống 9% - 7%/năm. Cùng với việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB, NHNN linh hoạt điều chỉnh lãi suất tiền gửi DTBB bằng VND của các TCTD tại NHNN: điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi DTBB từ 1,2%/năm lên 3,6% - 5% - 10%/năm, và điều chỉnh giảm từ 10%/năm xuống 9% - 8,5%/năm. d. Về tái cấp vốn, tái chiết khấu và lãi suất Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, LSCB đã được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/08, LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh - 14%. Cùng với LSCB, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất TCV từ 6,5%/năm lên 7,5% -13% - 15%/năm, lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm lên 6% - 11% - 13%/năm áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ CSTT để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng đắn cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. CSTT thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%. Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08). Cùng với LSCB, để hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN cũng điều chỉnh giảm lãi suất TCV từ 15%/năm xuống 14% - 13% - 12% - 11% - 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuống 12% - 11% - 10% - 9% - 7,5%/năm;. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007). e. Về tỷ giá Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 là hết sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên NH xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong NH. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc lãi suất tiền gửi DTBB đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam),… Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/2008. Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam, cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá lên +3% từ 06/11/08 và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định. 2.2. Đánh giá điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: - Trong năm 2008, việc NHNN đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng việc đưa ra các quyết định dồn dập, có thể tạo ra những tác động không tốt cho hệ thống tài chính nói riêng, nền kinh tế nói chung. 20.300 tỉ đồng tín phiếu NHNN tương đương với 2% tổng vốn huy động trong hệ thống NH hiện nay. Nghĩa là việc phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu tương đương với việc nâng DTBB lên 2% đối với tất cả các loại tiền gửi. Nếu chỉ tính tiền đồng thì con số này sẽ trên 3%, cộng với 11% hiện tại thì tỉ lệ DTBB của các NH đã lên gần 15%. Quan sát trong năm 2008, lãi suất liên NH đã có lúc lên tới trên 40%, đây là một mức không tưởng được. Sau quyết định của NHNN, nhiều NH đã đóng cửa không cho vay, nghĩa là khả năng thanh khoản của các NH có vấn đề. Khách hàng đến vay, NH có quyền từ chối. Nhưng trong trường hợp khách hàng đến rút tiền thì NH không thể từ chối được vì điều này có thể tạo ra phản ứng dây chuyền từ mất thanh khoản cục bộ dẫn tới mất thanh khoản, thậm chí sụp đổ cả hệ thống. - Ở Việt Nam, trong hơn chục năm qua, chưa bao giờ lãi suất huy động vượt quá 10%. Mặt khác, lãi suất huy động quá cao, hoạt động tín dụng có khả năng sẽ gặp vấn đề bởi lãi suất cho vay cũng sẽ cao. Lúc này, chỉ có doanh nghiệp nào làm ăn với suất sinh lợi cao mới có khả năng vay vốn. Trong kinh doanh, nơi nào đầu tư sinh lời cao thì tiềm ẩn rủi ro cũng cao mà nó đồng nghĩa với nguy cơ vỡ nợ cao và vì thế, nguy cơ tạo ra nợ xấu cũng rất cao. Nợ xấu nhiều NH buộc phải tăng lãi suất để bù đắp lại. Chi phí lãi vay tăng thêm năm ba phần trăm, trong khi doanh thu lại giảm một vài phần trăm so tiền đồng tăng giá sẽ làm cho các doanh nghiệp kiểu này khó mà trụ nổi. Không chừng với lãi suất cao như vậy, chỉ còn có những khoản vay với suất sinh lời rất cao là chịu nổi. Lúc này, các khoản vay của NH toàn là các dự án có mức độ rủi ro rất cao và nguy cơ khủng hoảng hệ thống là khó tránh khỏi. Nợ xấu nhiều, lãi suất huy động cao thì thu nhập từ cho vay chưa chắc đã đủ để trả lãi huy động và có NH phải lấy tiền gốc để trả lãi và NH như vậy sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. 3. Chính sách tiền tệ năm 2009: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá Trước những tác động bất lợi như vậy, NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. a. Nghiệp vụ thị trường mở: Quan sát thông tin trên Website của NHNN, có thể thấy việc cung ứng tiền trong năm 2009 chủ yếu là bơm vốn qua kênh nghiệp vụ thị trường mở. Trong năm 2009 chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống (chào bán không đáng kể); lãi suất được NHNN công bố và thực hiện theo phương thức đấu thầu, kỳ hạn từ 1-2 tuần, nhưng chủ yếu là 2 tuần. Khối lượng chào mua tùy theo diễn biến vốn khả dụng và mục tiêu CSTT. Trong khoảng nửa đầu năm, khi vốn khả dụng của hệ thống tương đối ổn định thì khối lượng giao dịch ở mức thấp, khoảng từ 1000-1500 tỷ đồng/phiên, nhưng khi vốn khả dụng có xu hướng giảm do tín dụng được đẩy mạnh trong quá trình thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, khối lượng giao dịch tăng lên 8000-9000 tỷ đồng/phiên và vào cuối năm lên tới khoảng 1500 tỷ đồng/phiên. Trong tuần cuối năm 2009, thị trường mở được thực hiện 2 phiên/ngày để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD trong dịp tết dương lịch. b. Về dự trữ bắt buộc: Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống NH theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ DTBB từ 11% xuống 5%, lãi suất tiền gửi DTBB giảm từ 8,5%/năm (năm 2008) xuống 3,6%/năm (từ ngày 23/1/2009) và xuống còn 1,2% từ 17/07/09. c. Về tái cấp vốn, tái chiết khấu và lãi suất LSCB đã hạ dần từ 8,5% (từ 22/12/08) xuống giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) trước khi tăng lên 8%/năm (từ 01/12/2009) như hiện nay. NHNN đã giữ LSCB ở mức 7% trong khoảng 10 tháng. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô - yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Cùng với LSCB, để hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN cũng điều chỉnh giảm lãi suất TCV từ 9,5%/năm (năm 2008) xuống 8% - 7% (từ 10/4/2009) trước khi tăng lên 8% (từ ngày 25/11/2009); lãi suất chiết khấu từ 7,5%/năm (năm 2008) xuống 6% - 5% (từ 10/4/2009) trước khi tăng lên 6% (từ ngày 25/11/2009);. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô. d. Về tỷ giá: Tỷ giá được điều hành linh hoạt, kết hợp giữa việc điều hành tăng giá bình quân liên NH và điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá vào tháng 3/2009 từ ±3% lên ±5% và lại giảm xuống ±3% vào cuối tháng 11/2009. Đáng chú ý là vào ngày 26/11/2009, NHNN có sự điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá bình quân liên NH lên 17.691 VND/USD, tăng 5,44% so với mức 17.034 VND/USD của ngày 25/11/2009. Ngoài những công cụ nêu trên, NHNN còn Thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, đây là một sự linh hoạt trong điều hành khi các TCTD dư thừa ngoại tệ trong khi thiếu hụt VND để đẩy mạnh tín dụng VND theo chương trình hỗ trợ lãi suất. e. Hỗ trợ lãi suất Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm bốn nhóm giải pháp cơ bản. Trong đó nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất (hỗ trợ lãi suất ở mức 4% với doanh nghiệp) mà ở đó vai trò của hệ thống NH và các công cụ chính CSTT một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ. Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá” qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng VND,…); tạo sức ép cho tỷ giá,… Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tế ngày càng minh chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”, các NHTM không huy động được và cũng không cho vay được. Thứ ba, đồng thời với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, CSTT được thực thi nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho các NHTM duy trì lãi suất kinh doanh ở mức hợp lý, tăng vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay với lãi suất thấp (4-6%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) làm cho tăng trưởng tín dụng 7 tháng đầu năm ở mức cao (22,61%), góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dùng xã hội. Mặt bằng lãi suất thị trường tương đối ổn định, các NHTM huy động vốn từ thị trường để cho vay hỗ trợ lãi suất, NHNN không cần phát hành thêm tiền ra lưu thông. Có thể nói, năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô. Nền kinh tế thế giới đang vượt qua giai đoạn suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. CSTT với những công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong việc tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền vững. Muốn vậy chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng đắn trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NTM…và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdieu hanh chinh sach tien te.doc
Tài liệu liên quan