QĐTCK là một định chế tài chính chung gian trên TTCK . Nó đóng vai trò là chủ thể tham gia hoạt động năng nổ trên thị trường góp phần tạo lập kênh lưu thông các dòng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Ngày 20/07/2000 TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động đánh dấu một bước nhảy vọt lớn trong việc phát triển thị trường tài chính và thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế. Kể từ nay, Việt Nam không còn phải đối mặt với những khó khăn trong việc huy động những dòng vốn trung và dài hạn. Các doanh nghiệp đã tìm được chỗ dựa cho mình thông qua TTCK. Và người đầu tư cũng có nhiều cơ hội hơn khi họ tiếp cận thêm được một kênh đầu tư hấp dẫn trong đó có QĐTCK. Quỹ vừa đóng vai trò là người tạo lập cung hàng hoá cho thị trường (thông qua phát hành cổ phiếu/chứng chỉ quỹ ) vừa là phía cầu to lớn cho thị trường (người mua chứng khoán của các doanh nghiệp). Có thể nói phát triển TTCK phải đi liền phát triển các “định chế tài chính vệ tinh” . Và để thực hiện được điều này đòi hỏi phải phát huy hết các điều kiện và khả năng thúc đẩy hoat động của chúng . “Điều kiện và khả năng phát triển các QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cần phải được nghiên cứu tỷ mỉ hơn nữa để góp phần thúc đẩy hoạt động của các QĐTCK. Tôi rất mong nhận được những ý kiến, những tham luận quý báu từ phía thầy cô và bạn đọc . Một lần nữa xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô Trần Mai Hoa, cảm ơn các thầy cô giáo và bạn đọc đã và sẽ giúp đỡ tôi thực hiện tốt hơn nữa đề tài này.
49 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Điều kiện và khả năng phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán ở VN trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in học và cơ sở hạ tầng.
Để giải thích cho những kết quả không như mong muốn của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có một số lý do sau: Thứ nhất, hành lang pháp luật của Việt Nam không theo kịp nhịp đập thị trường. Các quỹ đầu tư chứng khoán có tầm nhìn xa trông rộng về phía thị trường Việt Nam nhưng lại không có sự hậu thuẫn đầy đủ từ phía Nhà nước. Thiếu điều kiện này cộng thêm sự dè chừng khi họ ở vị thế của những đối tác nước ngoài đã khiến các quỹ đầu tư này không thể tiếp cận đến những cơ hội đầu tư thuận lợi. Giới hạn của luật đầu tư nước ngoài và gần đây nhất là luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nước ngoài nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu của một tổ chức phát hành làm cho tác động của các quỹ đầu tư với các đối tác hoàn toàn không đủ mạnh. Khi nghị định 48/98 về chứng khoán và TTCK và kèm theo đó có quyết định 05/1998/QĐ-UBCK3 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ ra đời thì mặc dù có quy định về hoạt động của QĐTCK song khi áp dụng quyết định này vào quỹ đầu tư nước ngoài lại vướng phải một số bất cập: chẳng hạn, khoản 1 điều 3 của quy chế nêu rõ: “QĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư, được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ” hay khoản 2 điều 14 quy định “công ty quản lý không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, và không được đầu tư quá 20% tổng giá trị tài sản của một quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành” và khoản 3 điều 14 của quy chế quy định : “công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của các quỹ do mình quản lý mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành hoặc một công ty không niêm yết”. Nếu áp dụng những điều này trong điều kiện hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp có mức vốn dưới 10 tỷ, thì tỷ lệ vốn mà QĐT đầu tư vào một doanh nghiệp trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp. Mặt khác do tỷ lệ thấp nên buộc quỹ phải đầu tư vào nhiều doanh nghiệp khác nhau làm cho chi phí quản lý tăng lên dẫn đến hầu hết các quỹ đều không có lãi.
Lý do thứ hai đó là quan ngại của Chính phủ về những rủi ro do hình thức đầu tư gián tiếp mang laị mang lại cho nền tài chính quốc gia sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Chẳng hạn, ở Thái Lan, năm 1997 đầu tư gián tiếp nước ngoài chiếm tới 80% vốn đầu tư trực tiếp. Còn ở Việt Nam vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài hiện chiếm chưa đến 0,5% vốn đầu tư trực tiếp. Việt Nam cần có khoảng 3 đến 6 tỷ USD (10-20% FDI) vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì sẽ tạo sự sôi động cho TTCK và khi đó nhiều QĐTCK nhất định sẽ tham gia thị trường.
Thứ ba, lỗi cũng không hoàn toàn từ phía bên ngoài , chiến lược hoạt động thời gian đầu của các quỹ đầu tư dã có nhiều điểm không tương hợp với môi trường kinh tế Việt Nam. Hầu hết các quỹ chỉ tập trung tìm kiếm các dự án quy mô vốn lớn, trong thực tế vốn trung bình của doanh nghiệp Việt Nam chỉ khoảng chục tỷ đồng. Ngoài ra do đòi hỏi khắt khe về tỷ suất lợi nhuận nên trong thời gian đầu các quỹ đã tự trói buộc thị trường đầu tư của chính mình.
Những khó khăn trên cộng với nhiều khó khăn khác đã làm 2 trong số 6 quỹ ban đầu không đủ kiên nhẫn để đi hết chặng đường. Lazard &Templeton đã quyết định rút vốn khỏi Việt Nam. Còn lại 4 quỹ đầu tư nước ngoài đến nay vẫn còn tồn tại và hoạt động. Hy vọng ở tương lai không xa các quỹ sẽ dần lấy lại được vị thế của mình và chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin vào điều đó khi mà trên TTCK Việt Nam ngày càng có nhiều công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu và các nhà đầu tư ngày càng quan tâm TTCK hơn.
3. Sự cần thiết phải phát triển các QĐTCK ở Việt Nam.
Việt Nam đã bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của khoa học công nghệ và tri thức, do đó đòi hỏi Việt Nam phải phát triển cho kịp xu thế thời đại. Đầu tư cho phát triển chiều sâu, mũi nhọn tập trung chất xám trong những lĩnh vực ngành nghề then chốt là xu hướng chính. Muốn vậy phải có lượng vốn đầu tư, đặc biệt là VĐT dài hạn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Thực tế cho thấy phần lớn khối lượng các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang rơi vào tình trạng bị hạn chế tiếp cận với các luồng VĐT, kể cả luồng vốn cổ phần cũng như vốn vay dài hạn từ phía ngân hàng. Một hướng giải quyết vấn đề này là thành lập các QĐTCK cung cấp vốn cho các doanh nghiệp , đồng thời tạo kênh thông tin liên chiều giữa doanh nghiệp và thị trường.
Mặt khác quá trình CPH DNNN và phát triển TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn từng bước phát triển hoàn thiện. Với gần 1000 DNNN đã CPH và TTCK Việt Nam đã có 19 công ty tham gia niêm yết thì chưa thể nói là nhiều.Lượng nhà đầu tư trên TTCK chủ yếu vẫn là nhà đầu tư cá nhân có xu hướng đầu tư ngắn hạn trong khi đó thị trường vẫn vắng bóng các nhà đầu tư có tổ chức. Để kích cầu TTCK và kích cầu đầu tư cho nền kinh tế cần thiết phải thành lập các QĐTCK do nó giúp ổn định và phát triển thị trường thông qua lối đầu tư dài hạn có tính toán cân nhắc kỹ lưỡng. Ngoài ra QĐTCK còn kiến tạo nên hàng hoá cho thị trường giúp nhà đầu tư có thêm nhiều kênh đầu tư hấp dẫn, an toàn hơn và tính thanh khoản cao, giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và do vậy vừa ổn định phát triển thị trường, vừa thu hút thêm nhiều nhà đầu tư .
Những phân tích ở trên đã cho thấy trong giai đoạn hiện nay và sắp tới cần thiết phải thành lập các QĐTCK tại Việt Nam. Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình kết tinh các điều kiện, vai trò , các yếu tố chi phối cả khách quan lẫn chủ quan. Tuy nhiên nhìn lại các QĐTCK đã thành lập tại Việt Nam ta có thể thấy rõ một điều là tất cả đều là QĐTCK nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và chỉ có quỹ VEIL là hoạt động có hiệu quả. Tại sao vậy? QĐTCK đã có nhưng đó là quỹ của nước ngoài mà quỹ nước ngoài lại có một số bất lợi về cơ cấu như cơ cấu nguồn nhân lực : quỹ nước ngoài sử dụng phần lớn NNL là người nước ngoài có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư nhưng bị hạn chế trong tìm hiểu môi trường đầu tư Việt Nam và không có mối quan hệ rộng ở nội địa. Mặt khác quỹ huy động vốn chủ yếu là ngoại tệ do đó chịu rủi ro về tỷ giá hối đoái. Thứ ba, họ chỉ được phép nắm giữ phần thiểu số cổ phiếu của các công ty trong nước (tối đa 30%) và không có quyền kiểm soát cao. Trong khi đó QĐTCK nội địa lại có khả năng tồn tại và phát triển cao hơn. Nó có thể huy động vốn nội tệ (và như thế tránh rủi ro tỷ giá), không bị hạn chế quy mô đầu tư vốn cổ phần hoặc các chức vụ có liên quan tới kiểm soát công ty nhận đầu tư. Đội ngũ chuyên gia người Việt Nam làm việc sẽ tạo ra một mối quan hệ rộng và khả năng giám sát hiệu quả hơn. Như vậy sự cần thiết là phải thành lập các QĐTCK tại Việt Nam. Vấn đề còn lại ở chỗ lộ trình cho nó thành lập và để cho nó ra đời và hoạt động được cần phải hội tụ những điều kiện và khả năng gì?
II. Những điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam
1. Điều kiện phát triển QĐTCK trong hoàn cảnh Việt Nam.
Điều kiện tầm vĩ mô.
1.1.1. Các QĐTCK muốn phát triển trong một môi trường kinh tế nhiều thành phần trước hết phải có một hành lang pháp lý cho nó hoạt động. Vào năm 1994 Việt Nam đã sôt sắng chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK nhưng phải mất 4 năm sau đó khung pháp lý chung về chứng khoán và TTCK mới ra đời. Đó là việc ban hành nghị định 48/1998 /NĐCP về chứng khoán và TTCK ngày 11/7/98. Có thể coi đây là văn bản đầu tiên định hướng cho TTCK Việt Nam và các thành phần liên quan đến TTCK trong đó có hẳn chương V nói về QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Ban hành tiếp sau nghị định là một số thông tư, quyết định hướng dẫn cho nghị định. Liên quan đến QĐTCK và công ty quản lý quỹ có quyết định 05/98/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/98 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Như vậy nhìn chung các QĐTCK muốn ra đời và hoạt động tại Việt Nam đã có một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh. Các văn bản này là khung sườn, là chiếc xương sống xuyên suốt mọi vấn đề liên quan đến TTCK. Và chúng càng rõ ràng chi tiết bao nhiêu thì hoạt động của TTCK nói chung cũng như riêng QĐTCK càng được đảm bảo ổn định và phát triển bền vững. Để tạo điều kiện hơn nữa về khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển QĐTCK UBCKNN đã nghiên cứu bản dự thảo NĐ thay thế NĐ 48/98 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong bản dự thảo đề cập đến sửa đổi một số điều về QĐTCK theo hướng càng rộng mở hơn như bổ sung loại hình “QĐTCK không phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng” có lượng nhà đầu tư không nhiều, chủ yếu là các nhà đầu tư lớn có tổ chức và kinh nghiệm. Các điều kiện thành lập quỹ được quy định đơn giản và cụ thể hơn như chỉ có quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ ra công chúng mới phải xin phép UBCKNN cho thành lập. Còn QĐTCK không phát hành chứng chỉ ra công chúng thì chỉ cần đăng ký thành lập với UBCKN. Các nội dung liên quan đến quỹ đầu tư nước ngoài, công ty quản lý quỹ nước ngoài cũng được dự thảo quy định chi tiết hơn. Các giao dịch về chứng khoán đều được thực hiện bằng đồng Việt Nam . Tới nay bản dự thảo đã được bộ tư pháp thẩm định và đang chờ TTg CP ký ban hành. Hy vọng không lâu sau các điều kiện về hành lang pháp lý mới sẽ được chỉnh sửa theo hướng ngày càng rộng mở và chặt chẽ.
1.1.2. Không giống như phần lớn các TTCK tồn tại ở các nước Tư bản, TTCK Việt Nam ra đời trong nền kinh tế nhiều thành phần theo đình hướng XHCN. Hướng tồn tại và phát triển cho TTCK ở Việt Nam là đi từ thấp đến cao phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế đất nước từng thời kỳ. Trong thời gian đầu khi mới tiến hành CPH, lượng CTCP còn ít do đó kinh nghiệm tổ chức quản lý hoạt động trong các CTCP cũng như kinh nghiệm quản lý và điều hành các CTCP của các cơ quan hữu trách, các ban ngành liên quan chưa nhiều. TTCK lúc này hình thành nhằm định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Đối với các DN đã tiến hành CPH thì tiến tới đăng ký niêm yết trên TTCK, các công ty đang trong quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ thấy được lợi ích có được từ việc tham gia TTCK và từ đó có định hướng hoạt động cụ thể cho mình. Ngoài ra một lợi ích thiết thực hơn nữa khi định hướng hoạt động cho TTCK Việt Nam đó là tạo thêm kênh hàng hoá trung và dài hạn cho nền kinh tế, tạo một môi trường hấp dẫn cho sự tham gia của các định chế tài chính như các ngân hàng ,công ty bảo hiểm, và đặc biệt là các QĐTCK. TTCK Việt Nam đã ra đời nhưng cần đẩy mạnh hoạt động hơn nữa. Trong điều kiện tình hình thị trường bất ổn định như hiện nay cần phải có sự can thiệp kịp thời của các cơ quan ban ngành liên quan nhằm vực dậy thị trường. Ta không thể nói chỉ QĐTCK mới có vai trò kích cầu thị trường được, chính TTCK cũng tác động trở lại, nó là điều kiện cần cho QĐTCK hoạt động, điều kiện này có tốt thì QĐTCK mới hoạt động tốt được.
1.1.3. Một trong những điều kiện nữa cho QĐTCK hình thành và phát triển đó là quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đủ lớn đảm bảo kích thích hoạt động đầu tư vốn của các QĐTCK. Do đặc điểm của QĐTCK là đầu tư tài chính theo lối đầu tư gián tiếp thông qua các công cụ tài chính như CP,TP...do đó nếu không có các công cụ tài chính này thì QĐTCK không thể hoạt động được. QĐTCK hình thành vốn góp từ nhiều nhà đầu tư, đối tượng tham gia đầu tư vào quỹ là khá lớn do vậy lượng quỹ sử dụng để đem đi đầu tư không phải là nhỏ. Quỹ thường tìm kiếm các đối tượng đầu tư là các công ty lớn , có quy mô và thâm liên hoạt động lâu dài. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam đã thành lập và sẽ thành lập phải có một quy mô vốn tương đối lớn mới đủ điều kiện kích thích các QĐTCK hoạt động và phát triển. Một lượng hàng hoá dồi dào cả về số lượng và chủng loại lẫn chủng loại sẽ nguồn hành phong phú cho các QĐTCK lựa chọn đầu tư. Quy mô các doanh nghiệp này càng lớn bao nhiêu thì hàng hoá cho thị trường càng nhiều bấy nhiêu và từ đó các QĐTCK sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
1.1.4. Quá trình CPH tại Việt Nam đã diễn ra từ đâu những năm 90.Có thể nói các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chuển thành công ty cổ phần đã tạo ra một cơ chế quản lý mới cho các doanh nghiệp và ngoài ra nó còn tạo thêm cho thị trường các công cụ tài chính mới. Chính các công cụ này như đã nhắc ở phần trước, là nguồn hàng chính yếu cho các QĐTCK. Do vậy đi liền với sự ra đời và hình thành TTCK thì tức là cũng phải có sự ra đời và hình thành các công ty cổ phần và ở phần lớn các nước, hai yếu tố này luôn đi liền nhau. Tại Việt Nam,vào thời điểm TTCK ra đời đã có trên 460 CTCP được thành lập (nguồn: báo ĐTCK số 39-1/9/2000). Số lượng này so với gần 6000 doanh nghiệp nhà nước hiện tại đang hoạt động thì chưa phải là nhiều nhưng so thời gian lúc đó thì lượng công ty cổ phần cũng là khá lớn đối với quy mô TTCK Việt Nam. Có thể xem xét một số khía cạnh về quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam: ngay đầu những năm 1990 Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương và định hướng chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước sang mô hình quản lý mới đó là các công ty cổ phần. Nhiều năm sau đó quá trình cổ phần hoá diễn ra một cách ì ạch do chưa có một khung pháp lý nào hướng dẫn cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần . Mãi đến năm 1998 Chính phủ mới ban hanh Nghị định 44/1998 /NĐCP về chuyển DNNN thành CTCP, và từ đó đến nay các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành CPH đều phải theo những định hướng của NĐ này. Tuy nhiên cũng cần phải thấy một điều rằng mặc dù đã có các văn bản pháp luật điều tiết nhưng cũng vướng phải không ít bất cập khi tiến hành CPH các DNNN . Ví dụ như khi tiến hành CPH thì rất khó trong việc xác định giá trị doanh nghiệp do chưa có quy định cụ thể, hay khó khăn trong việc bán cổ phần cho người lao động, hoặc những trường hợp ban giám đốc không muốn doanh nghiệp mình tiến hành cổ phần hoá vì sợ mất chức mất quyền....Vì vậy đòi hỏi phải chấn chỉnh hơn nữa công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra còn phải tiến tới quá trình CPH các thành phần kinh tế khác. Theo định hướng phát triển kinh tế chung thì định hướng tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tiên thông qua các doanh nghiệp nhà nước, sau đó mới dần tiến đến cổ phần hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Điều này vừa thể hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vừa đảm bảo quá trình cổ phần hoá đi lên một mạch từ thấp đến cao theo định hướng chung trong phát triển TTCK Việt Nam và khi quá trình CPH diễn ra một cách thuận lợi thì sẽ tạo một lượng hàng hoá dồi dào cho TTCK, kích thích hoạt động của các QĐTCK.
1.1.5. Một trong những điều kiện khác cũng không thể thiếu được khi quỹ QĐTCK ra đời và hoạt động đó là sự đa dạng trong môi trường đầu tư. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động cho các QĐTCK đòi hỏi cẩn phải có nhiều ngành nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế tạo cơ hội lựa chọn đầu tư cho các QĐTCK. QĐTCK với một danh mục đầu tư đa dạng gồm nhiều loại chứng khoán khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, công cụ phái sinh...đầu tư vào nhiều ngành nhiều lĩnh vực sẽ đảm bảo mức độ cân bằng giữa rủi ro chấp nhận được và lơị nhuận tối ưu đem lại. Mặt khác khi môi trường đầu tư mở rộng thì sẽ có ngày càng nhiều loại QĐTCK được hình thành. Các quỹ này tạo thành một hệ thống trải rộng bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động và nhờ đó nguồn vốn đầu tư được cung cấp đều cho nền kinh tế. Thực tế hiện nay có thể cho thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam là khá đa dạng. Các doanh nghiệp dân doanh, quốc doanh hoạt động trong đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Tuy nhiên do yêu cầu tất yếu của xu thế hội nhập, các lĩnh vực đầu tư không chỉ đơn thuần như cũ mà nó phải được mở rộng và chuyên biệt hoá cao hơn vào ngành nghề đòi hỏi nhiều chất xám như nghiên cứu khoa học, hàng không, năng lượng...khi các lĩnh vực này được mở rộng thì môi trường đầu tư sẽ được nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Mảnh đất sống cho các QĐTCK sẽ thêm mâu mỡ hơn.
1.1.6. Độ rủi ro trong môi trường đầu tư cũng là một yếu tố cân nhắc của các QĐTCK. Bởi lẽ mỗi QĐTCK có một mục tiêu hoạt động riêng không giống nhau do vậy rủi ro mà họ chấp nhận cũng khác nhau. Mặc dù ta vẫn biết rằng lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao, các QĐTCK khi đầu tư đều mong thu được lợi nhuận lớn nhất, nhưng không quỹ nào lại muốn có rủi ro cao. Và do đó với một môi trường đầu tư ổn định ít có biến động sẽ hấp dẫn các QĐTCK tham gia. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có thể chế chính trị ổn định, có nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao. Điều này đã nói lên phần nào mức độ rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam .
Trên đây mới chỉ trình bày các điều kiện ở tầm vĩ mô trong hoàn cảnh Việt Nam. Những điều kiện này chi phối hoạt động và phát triển của các QĐTCK khi muốn hình thành hoặc đã hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù các yếu tố ngoại vi có ảnh hưởng không phải là nhỏ song cũng không thể không cân nhắc đến những yếu tố nội bộ cuả QĐTCK , những điều kiện tầm vi mô. Những điều kiện bên trong doanh nghiệp quyết định sự thành công hay thất bại cho chính hoạt động của nó. Và QĐTCK cũng phải xét đến những yếu tố này.
1.2. Điều kiện tầm vi mô.
1.2.1. Khi nói về nội bộ hoạt động của một doanh nghiệp điều đầu tiên cần nhắc đến đó là nguồn nhân lực. Đây là yếu tố then chốt cực kỳ quan trọng cho hoạt động của một chủ thể kinh tế bởi mọi hoạt động đều phải thông qua bàn tay của con người. QĐTCK là một đơn vị kinh tế mang tính chất phi sản xuất, hoạt động của nó đòi hỏi lượng chất xám cao. Quỹ sử dụng một lượng tiền vốn lớn thu được từ sự đóng góp của những nhà đầu tư để đem đi đầu tư,áp lực ở đây là lợi nhuận đem lại cho nhà đầu tư. Mọi hoạt động của quỹ dù theo cách nào hoặc thế nào đi nữa thì cuối cùng cũng phải hướng về mục tiêu lợi nhuận. Do vậy những người điều hành và quản lý quỹ phải tiến hành đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. Điều này đòi hỏi họ phải có kiến thức và kinh nghiệm hoạt động. Đội ngũ nhân viên của quỹ không những hiểu biết những kiến thức về đầu tư mà còn phải tinh thông nghiệp vụ, nắm rõ mọi đặc điểm của các thành phần kinh tế, đặc điểm hoạt động của các ngành lĩnh vực hay của doanh nghiệp. Không những đòi hỏi về hiểu biết mà đội ngũ nguồn nhân lực còn phải có đạo đức trong kinh doanh. Hoạt động của QĐTCK luôn phải coi trọng chữ tín bởi quỹ là nơi gửi gắm tiền của nhà đầu tư. Không nhà đầu tư nào dại dột đem tiền của mình cho một QĐTCK không có uy tín tiến hành đầu tư. Các nhân viên trong quỹ càng hoạt động một cách trong sạch bao nhiêu thì càng có nhiều nhà đầu tư gửi gắm lòng tin và khi đó quỹ sẽ ngày càng phát triển .
Hiện nay xét đến nguồn nhân lực cho hoạt động của QĐTCK ở Việt Nam mới chỉ đếm trên đầu ngón tay và phần lớn họ đều làm việc cho các công ty nước ngoài . Đội ngũ nguồn nhân lực cần được đào tạo theo hướng chuyên nghiệp mà cách nhanh nhất và hiệu quả đó là cho phép liên doanh giữa các công ty quản lý quỹ nước ngoài với các doanh nghiệp Việt Nam taọ điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp thu những bí quyết và kỹ năng cần thiết qua thực tế. Các chuyên gia quản lý người Việt Nam sẽ giúp các quỹ có tâm nhìn sát hơn với thực tế và có mối quan hệ rộng rãi hơn so với quỹ đầu tư hải ngoại.
1.2.2. Khi đã có một đội ngũ nhân viên trong sạch về đạo đức và thành thạo về nghiệp vụ thì vẫn chưa đủ. Bản thân nội bộ của quỹ hoạt động là vì mục tiêu gì ? và mục tiêu đó có phù hợp với mục tiêu phát triển TTCK và phát triển kinh tế xã hội đất nước hay không ? Định hướng và chiến lược đầu tư phù hợp là rất quan trọng khi quy mô thị trường còn nhỏ, các công ty cổ phần có thị vốn bé thì các QĐTCK không thể ồ ạt dốc vốn kinh doanh được. Mọi hoạt động của QĐTCK đều phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Quỹ đề ra mục tiêu chiến lược rõ ràng một mặt tạo dễ dàng cho quá trình quản lý hoạt động của quỹ một mặt kích thích thu hút sự tham gia của nhà đầu tư. Nếu định hướng của quỹ đi lệch khỏi quỹ đạo hoạt động,không phù hợp với nền kinh tế thì tất yếu quỹ sẽ sụp đổ, không thể phát triển và đứng vững được. Những điều kiện chiến lược hoạt động của QĐTCK thực tế đã chứng minh tình hình hoạt động của các quỹ tại Việt Nam một phần không hiệu quả. Các QĐTCK đều đầu tư trải rộng ra nhiều ngành theo các thời cơ cụ thể. Đây là kiểu đầu tư thụ động chứ không chủ động nên đã gây thất vọng trong công cuộc đầu tư. Do chiến lược hoạt động sai lầm đó mà đã có những chỉnh sửa ở một số quỹ, các quỹ hiện còn tồn tại chỉ tập trung vào một số lĩnh vực chính và đã nhắm tới đối tượng là các công ty cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam.
2. Khả năng phát triển các QĐTCK tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay và tương lai.
2.1. Giai đoạn hiện nay.
Có thể nói trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi mà TTCK đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm và đã có trên 970 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần, vẫn chưa có một QĐTCK nào được hình thành tại Việt Nam. Đây là một thực tế đáng buồn bởi hiện nay Việt Nam đang chủ trương đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế phấn đấu đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp. Do đó nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sẽ rất nhiều và không ngừng gia tăng. Nguồn vốn có thể được huy động từ ngân sách, thông qua các ngân hàng hay xin viện trợ....Nhưng ngoại trừ vốn ngân sách thì tất cả đều mang tính chất ngắn hạn và có chi phí vốn cao. Để tiếp cận được những nguồn vốn trung và dài hạn có chi phí vốn thấp chỉ có thể thông qua TTCK mà quỹ đầu tư là một trong những chủ thể tham gia thị trường cung cấp vốn cho các doanh nghiệp một cách hữu hiệu do quy mô đầu tư lớn và đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ có thể tham gia cùng quản lý hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Xét đến khu vực kinh doanh của Việt Nam hiện có trên 2 triệu doanh nghiệp hộ gia đình, 3 nghìn hợp tác xã, 24000 công ty tư nhân và 6000 doanh nghiệp nhà nước. Trong số 24000 công ty tư nhân có 700 công ty được hình thành dưới hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Các công ty này có thể là các công ty có quy mô và loại hình mà các QĐTCK quan tâm. Mặt khác các công ty của Việt Nam có những lợi thế so sánh trong một số ngành do tính sẵn có của tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động lành nghề chi phí thấp. Các công ty tăng trưởng cao, sẵn sàng tiếp nhận công nghệ, các mô hình kinh doanh đã được kiểm chứng và có tiềm năng niêm yết trên TTCK. Chúng là đối tượng hấp dẫn các QĐTCK. Xét vậy ta thấy khả năng phát triển cho các QĐTCK tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hoàn toàn có thể.
2.2. Khả năng phát triển trong tương lai của các QĐTCK.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang gia nhập chung vào nền kinh tế thế giới, sự mở cửa của Việt Nam chào đón tất cả những ai muốn tham gia đầu tư vào sẽ tạo điều kiện và khả năng cho hoạt động của các QĐTCK. Nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá , hội nhập và tự do mậu dịch. Để bắt kịp xu hướng đó Việt Nam đã từng bước cải cách nền kinh tế tạo cơ chế thông thoáng hơn để thu hút đầu tư tiến tới tham gia hội nhập dần vào các tổ chức kinh tế lớn như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á TBD (APEC) hay tổ chức thương mại thế giới (WTO) .Theo sau những hoạt động này sẽ là hàng loạt những gợi mở cho sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đó có QĐTCK. Hơn thế nữa gần đây TTCK Việt Nam đã chính thức ra đời, người dân Việt Nam đã dần dần hướng đến hoạt động của TTCK, các công ty cổ phần ngày càng nhiều. Đây là một môi trường hoàn toàn thuận lợi cho các QĐTCK thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. Cộng với những điều kiện thực tiễn đó, sự cải thiện về mặt pháp lý cũng đang có nhiều dấu hiệu đáng mừng. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ vừa được ký kết có thể coi là sự khởi đầu cho một điều kiện thông thoáng hơn đối với môi trường đầu tư. Theo hiệp định thì các công ty Mỹ có thể kiểm soát tới 49% cổ phần của các công ty Việt Nam ở các ngành viễn thông và thông tin Internet....Điều này đồng nghĩa với tỷ lệ nắm giữ cổ phần của phía nước ngoài ngày càng dần được tăng lên. Rồi sự nhảy vọt về thương mại và thị trường đầu tư mà hiệp định thương mại Việt –Mỹ và những nỗ lực tham gia WTO mà Việt Nam đang theo đuổi có thể mang lại là cơ sở để phát triển quan hệ thương mại đầu tư rất tiềm tàng giữa Mỹ và Việt Nam. Vì vậy có nhiều cơ sở tin rằng lượng vốn thu hút vào Việt Nam dưới cả hai hình thức trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FPI) sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới. Đây thực sự là một hướng gợi mở để các QĐTCK và TTCK trong nước hướng tới tương lai. Gần đây nhất có rất nhiều công ty nước ngoài đã được Chính phủ và UBCKNN chỉ định làm ngân hàng lưu ký đại diện cho các tổ chức đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Có thể nói những dấu hiệu trên cũng đủ để chúng ta tin vào tương lai phát triển các định chế tài chính trực tiếp, trong đó có các QĐTCK tại Việt Nam.
ChươngIII
Định hướng và những giải pháp cho việc hình thành và phát triển những điều kiện tạo thuận lợi cho các QĐTCK phát triển
I. Định hướng của Đảng và Nhà nước cho phát triển các QĐTCK ở Việt Nam.
Trong nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua có đề ra nhiệm vụ là: “Đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả...”. Như vậy ta đã thấy rõ định hướng của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động một cách có hiệu quả và phát triển bền vững. Định hướng chung này được cụ thể hoá trong bản dự thảo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam do UBCKNN kết hợp sự khảo sát và tư vấn của Ngân hàng phát triển Châu á thực hiện. Bản dự thảo đưa ra 3 mục tiêu tổng quát cho thị trường chứng khoán trong vòng 10 năm tới. Thứ nhất, huy động nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Thứ hai, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia. Thứ ba, củng cố ổn định hoạt động của thị trường, đồng thời mở rộng phạm vi quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động, hoàn thiện quản lý giám sát thị trường, bảo vệ có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường Tài chính quốc tế. Để thực hiện các mục tiêu tổng quát, dự thảo đề ra hàng loạt các mục tiêu cụ thể về hệ thống hoạt động TTCK, quy mô thị trường, về tổ chức trung gian tài chính trong đó có QĐTCK. Quy mô và số lượng tổ chức trung gian tài chính phụ thuộc vào quy mô thị trường. Đến năm 2005 sẽ có 15 đến 20 công ty chứng khoán, 3 đến 5 công ty quản lý quỹ. Năm 2010 số công ty quản lý quỹ sẽ tăng lên 5 đến 10 công ty. Sẽ có 3 đến 7 quỹ đầu tư CK vào năm 2005 và 10 đến 16 quỹ đầu tư vào năm 2010. Như vậy có thể thấy rõ Đảng và Nhà nước đã định hướng trong tương lai không xa cần thiết phải thành lập các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt là các QĐTCK. Vấn đề còn lại là tìm kiếm những giải pháp để các điều kiện và khả năng được hình thành và phát triển thúc đẩy sự hình thành và phát triển các QĐTCK .
II. Giải pháp để các điều kiện & khả năng được hình thành và phát triển thúc đẩy sự hình thành và phát triển các QĐTCK.
1. Mô hình hoại động cho các QĐTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.1. Những căn cứ lựa chọn.
Kinh nghiệm phát triển các QĐTCK lớn trên thế giới cho thấy các QĐTCK đã ra đời không lâu sau khi hình thành các TTCK và hình thức phát triển cũng khác nhau qua từng giai đoạn, từng thời kỳ phù hợp với quy mô hoạt động và đặc điểm của thị trường. Tại nước ngoài, vào những năm sơ khai của TTCK, QĐTCK đầu tiên ra đời được tổ chức theo mô hình tín thác. Nó rất phù hợp cho những giai đoạn đầu của TTCK. Khi quy mô hoạt động của các quỹ chưa lớn, lĩnh vực đầu tư không nhiều... thì quỹ được tổ chức dưới dạng quỹ đóng. Quỹ cố định lượng cổ phiếu bán cho nhà đầu tư và cổ phiếu của quỹ được tham gia trên TTCK, tạo thêm cho thị trường một loại hàng hoá và thu hút sự chú ý tham gia của nhà đầu tư. Nhưng trải qua những chu kỳ khủng hoảng kinh tế, quỹ đầu tư dạng đóng mất đi những ưu thế và bộc lộ một số nhược điểm: khi khủng hoảng giá cổ phiếu/chứng chỉ quỹ giảm mạnh do cung cầu chênh lệch, lượng người muốn bán cổ phiếu/chứng chỉ lớn hơn nhiều lần so với lượng người mua. Do đó giá trị đầu tư của quỹ bị tổn thất và các quỹ không trụ được sẽ buộc phải phá sản...khắc phục nhược điểm đó, QĐTCK dạng mở ra đời. Có thể nói lĩnh vực đầu tư của quỹ dạng mở có tính lưu hoạt cao hơn bởi đặc điểm của quỹ dạng mở là luôn phải duy trì một lượng tiền mặt đủ lớn để mua lại cổ phiếu /chứng chỉ của nhà đầu tư. Và phải trải qua nhiều năm, cho đến nay các QĐTCK mở vẫn là hình thức phổ biến trên thế giới và tồn tại ở nhiều TTCK phát triển. Một hình thức quỹ đầu tư khác hiện nay cũng đang rất phổ biến ở các nước phát triển đó là quỹ đầu tư vốn mạo hiểm. Đối với các quốc gia non trẻ có nền kinh tế nhỏ nhưng có khả năng phát triển cao, các doanh nghiệp cần vốn đầu tư vào những nghành lĩnh vực mới mang tính then chốt mũi nhọn như lĩnh vực công nghệ thông tin, khoa học công nghệ cao tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển thì quỹ đầu tư vốn mạo hiểm đóng vai trò “bà đỡ” cho những ý tưởng kinh doanh táo bạo đó. Các doanh nghiệp khởi sự lúc đầu thường đòi hỏi lượng vốn và khả năng quản trị khá cao. Chính nhu cầu này đã được đáp ứng bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm. Nói chung đối với mỗi nước, mỗi nền kinh tế khi hoạt động đều đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Các QĐTCK là một định chế trong một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế cho nên nó cũng tuân theo những nguyên tắc này. Từ việc tham khảo các mô hình QĐTCK trên thế giới ở trên chúng ta đã nghiên cứu hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam để từ đó đề ra một mô hình lựa chọn QĐTCK cho phù hợp. Xét về thực tế ở Việt Nam hiện nay nền kinh tế nước ta sau chuyển đổi đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều thành phần kinh tế được hình thành và đặc biệt hơn nữa đó là có sự ra đời của TTCK, một hình thức phát triển cao nhất của thị trường tài chính. Tuy đã có TTCK nhưng đại bộ phận dân chúng vẫn chưa hiểu rõ thế nào là chứng khoán, TTCK, công ty cổ phần, công ty đầu tư....các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán phần lớn còn non trẻ, kinh nghiệm quản trị yếu và quy mô vốn thấp. Mặt khác ở Việt Nam nhiều lĩnh vực nghành kinh tế còn chưa được chú trọng đầu tư mở rộng như lĩnh vực CNTT, thương mại điện tử, nghiên cứu khoa học...Xét đến đội ngũ nguồn nhân lực tuy dồi dào nhưng chủ yếu là lao động phổ thông nghiệp vụ còn ít ,nạn tham nhũng cửa quyền còn phổ biến...Từ tình hình như vậy khi muốn hình thành QĐTCK phải xác định rõ mô hình lựa chọn và có sự phối kết hợp cho thích ứng với yêu cầu và thực tiễn Việt Nam.
1.2. Mô hình lựa chọn QĐTCK tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Như ta đã xem xét ở trên,từ các mô hình QĐTCK tham khảo ở nước ngoài kết hợp với điều kiện cụ thể hoàn cảnh Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã có định hướng chung cho hoạt động của TTCK và có những quy định chi tiết cho những thành phần tham gia vào thị trường trong đó có QĐTCK. Trong điều 2 quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ có nêu rõ:
1. Các bên tham gia trong hoạt động của QĐTCK là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư.
2. Công ty quản lý quỹ chịu trách nhiệm thành lập, quản lý QĐTCK và thực hiện đầu tư.
3. Ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm giám sát Công ty quản lý quỹ và bảo quản lưu ký tài sản của QĐTCK nhằm bảo vệ lợi ích cho người đầu tư.
4. Người đầu tư góp vốn tạo thành QĐTCK và được hưởng lợi từ việc đầu tư của QĐTCK.
Quy định trên đã thể hiện rõ mô hình QĐTCK được lựa chọ là mô hình tín thác. Việc lựa chọn mô hình này đã được các chuyên gia của UBCKNN đưa ra trên cơ sở nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm của các nước có những điều kiện phát triển thị trường ban đầu tương tự Việt Nam, ví dụ Malayxia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Mặc dù các nước này hiện nay đã có TTCK phát triển ở mức khá cao song họ vẫn duy trì QĐTCK theo kiểu này. Mô hình này sẽ thích hợp với thị trường Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển, khi hiểu biết của công chúng về chứng khoán và hoạt động của TTCK còn ít. Mặt khác nó hạn chế được những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ hoạt động giữa Hội đồng quản trị quỹ và những người điều hành trong công ty quản lý quỹ, và khi lựa chọn mô hình này sẽ tạo thêm cho TTCK Việt Nam một loại hàng hoá mới đó là CP/chứng chỉ của quỹ đầu tư tín thác sẽ được giao dịch trên TTCK nếu quỹ tổ chức dưới dạng quỹ đóng. Hình thức QĐTCK dạng tín thác đã được lựa chọn trong quyết định về QĐTCK và Công ty quản lý quỹ của Chính phủ. Nhưng có một thực tế đáng bàn là ở Việt Nam các QĐTNN khi tham gia hoạt động tại Việt Nam lại chủ yếu tồn tại dưới hình thức QĐT mạo hiểm. Vậy có nên chăng đề xuất thêm các mô hình QĐT đầu tư mạo hiểm cho giai đoạn hiện nay? Chúng ta cùng lật lại vấn đề QĐT nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Chủ yếu các quỹ này đều đầu tư theo lối mạo hiểm là do khi đặt chân vào Việt Nam họ cũng có hy vọng đầu tư vào TTCK nhưng do nhiều lý do như đã đề cập nên buộc các quỹ này phải tìm lấy hướng đi mới đó là săn lùng các dự án mới khởi sự chủ yếu là dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài có quy mô vốn lớn đáp ứng yêu cầu đầu tư vốn cuả quỹ. Mặt khác do thời gian đăng ký hoạt động của quỹ tại Việt Nam ngắn nên chỉ có lối đầu tư mạo hiểm là phù hợp...Nhưng thực tế nếu thành lập QĐT mạo hiểm ngay hiện nay thì chưa đủ điều kiện bởi còn nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, nguồn tài chính đáp ứng cho quỹ và nhất là chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn và do vậy hình thành QĐT vốn mạo hiểm ở Việt Nam phải để ở tương lai.
2. Giải pháp tầm vĩ mô.
2.1. Giải pháp đầu tiên phải kể đến đó là xâydựng một văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK một cách chi rõ ràng có tham khảo kinh nghiệm các nước khác để tiến tới hình thành luật chứng khoán Việt Nam. Trước khi ra đời TTCK. Chính phủ Việt Nam đã cho ra đời NĐ48/98/NĐCP về chứng khoán và TTCKd, kèm theo đó có quyết định 05/98/QĐ-UBCK3 ban hành quy chế tổ chức hoạt động của QĐTCK và Công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên sau hơn 3 năm thực hiện, các văn bản trên đã bộc lộ những khiếm khuyết và thiếu sót cần phải sửa đổi. Theo tin từ UBCKNN cho biết tất cả 9 nội dung của nghị định 48 sẽ được đề nghị sửa đổi, bao gồm: phát hành và niêm yết CK, giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung, công bố thông tin, trung tâm GDCK, SGDCK, CTCK, đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ, tham gia của các bên nước ngoài, các hành vi bị cấm và thanh tra, giám sát, xử phạt. Chẳng hạn đối với các QĐTCK nước ngoài, nên quy định một tỷ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp ở mức làm sao đảm bảo chi phí trên một đồng vốn ở mức hợp lý. Đặc biệt nên quy định thuế vốn để các quỹ dự trù được chi phí, và không nên quy định cứng nhắc tỷ lệ đầu tư tối thiểu là 60% tổng giá trị tài sản của QĐTCK vào CK. Và nên có những ưu đãi cho lĩnh vực đầu tư gián tiếp nước ngoài giống như cho lĩnh vực đầu tư trực tiếp ví dụ như miễn giảm thuế lợi tức thời gian đầu hoạt động, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đối với các QĐTCK trong nước quy định mức vốn pháp định hiện nay là 5 tỷ đồng là qúa thấp. Theo kinh nghiệm của một số nước lân cận như Hàn Quốc, mức VPĐ cho một QĐTCK là 40 triệu USD, Malaysia có mức vốn tối thiểu 5 triệu RM. Do vậy vận dụng đưa vào Việt Nam thì QĐT trong nước nên có mức vốn quy định tối thiểu 30-40 tỷ đồng. Một số điều nữa cũng cần được làm rõ trong mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật liên quan: ở mục 1, điều 61 luật Doanh nghiệp quy định, thủ tục và trình tự chào bán cổ phần được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Tuy nhiên NĐ/48/98/NĐCP là văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và TTCK hiện nay thì chỉ quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, GDCK và các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán và TTCK (điều 1-NĐ48) . Có nhiều quan hệ về chứng khoán và giao dịch chứng khoán chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh như hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài...Như vậy hiện tại cần phải sửa đổi Nghị định, xây dựng và ban hành pháp lệnh về chứng khoán và TTCK thay thế Nghị định không còn phù hợp. Và trong tương lai tiến tới xây dựng luật chứng khoán.
2.2. Thứ hai, phát triển TTCK Việt Nam từng bước từ TTGDCK lên đến SGDCK, đồng thời phát triển thị trường OTC (over-the-counter) thống nhất dưới sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo phù hợp môi trường phát triển kinh tế xã hội đất nước. Các công ty tham gia niêm yết lúc đầu trên thị trường là các công ty trong nước, hoạt động làm ăn hiệu quả. Sau tiến dần đưa thêm hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng hoá của các QĐTCK. Nhưng trước tiên cần sửa đổi lại định hướng ban đầu cho hoạt động của TTCK Việt Nam. Khi TTCK Việt Nam sắp đi vào hoạt động. Chính phủ cũng như các cơ quan ban ngành đều coi và TPCP làm mặt hàng chủ đạo trên TTCK, được giao dịch trên thị trường tập trung. Điều này là không phù hợp bởi loại chứng khoán này thường được giao dịch trên thị trường giao dịch qua quầy (OTC) và do các trung gian TC đảm nhiệm vai trò “nhà tạo thị trường”. Thị trường TPCP “đóng băng” trong thời gian qua đã cho thấy rõ điều không phù hợp đó. Mặt khác cũng cần ngày càng phải mở rộng quy mô TTCK. Có như vậy mới tạo môi trường hấp dẫn thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư cả cá nhân và tổ chức. Dự thảo của Chính phủ về phát triển TTCK trong thời gian tới sẽ tiến hành mở rộng quy mô củaTTGDCK TP HCM để thu hút khoảng 300000 nhà đầu tư trong đó chú trọng nhà đầu tư là tổ chức tạo điều kiện hoạt động cho khoảng 50 đến 70 CTCK và hàng nghìn doang nghiệp niêm yết trên thị trường . Như vậy sắp tới các QĐTCK sẽ có nhiều điều kiện và khả năng hơn để tham gia trên TTCK.
2.3. Thứ ba, chúng ta cần thực hiện đẩy nhanh tiến độ CPH cácDNNN và đặc biệt là CPH các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong tiến trình CPH muốn thực hiện tốt thì phải khắc phục được những khó khăn còn tồn tại như tâm lý ngại CPH, không xây dựng phương án sản xuất kinh doanh , xác định giá trị quyền sử dụng đất, bán cổ phiếu cho người nước ngoài...Muốn làm được điều đó phải tuyên truyền giáo dục cho mọi người biết lợi ích của việc CPH sẽ đem lại cho họ nhiều hơn so với hình thức doanh nghiệp cũ . Nếu doanh nghiệp nào thuộc diện CPH mà trây ỳ không chịu tiến hành thì có thể cưỡng chế, sa thải ban giám đốc. Phương án sản xuất kinh doanh phải được xây dựng cụ thể khi tiến hành CPH không những cho những năm đầu hoạt động mà còn cho những năm tiếp theo. Cần phải giải quyết vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi CPH không đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp nên giá trị cổ phiếu bị giảm đi rất nhiều khiến doanh nghiệp bị định giá thấp. Ngoài xúc tiến cho quá trình CPH, chúng ta còn cần phải để ý đến quy mô của doanh nghiệp bởi đây là điều kiện khá quan trọng tạo sức hấp dẫn đầu tư cho các QĐTCK. Quy mô các doanh nghiệp ở Việt Nam hầu hết đều nhỏ do đó cần có những biện pháp nâng dần thị vốn doanh nghiệp lên như tiến hành sát nhập hợp nhất các công ty, tổ chức doanh nghiệp theo mô hình “công ty mẹ - con” hay thành lập các nghiệp đoàn kinh tế trong cùng một ngành liên kết giữa các nghành.
2.4. Việc phát triển các điều kiện vĩ mô thúc đẩy QĐTCK hình thành và hoạt động còn phải tính đến yếu tố xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng, mở rộng địa bàn đầu tư ra nhiều ngành lĩnh vực mới, tiến hành hội nhập môi trường đầu tư của Việt Nam với khu vực và thế giới. Kết cấu cơ sở hạ tầng của Việt Nam cần phải được xây dựng và phát triển hơn nữa như củng cố và tăng cường mạng lưới giao thông cả về số lượng và chất lượng công trình. Xây dựng mới các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung kết hợp với việc mở rộng ra nhiều lĩnh vực như công nghiệp dân dụng, công nghệ thông tin, viễn thông, dầu khí...Khi lĩnh vực hoạt động được mở rộng, các QĐTCK sẽ có khả năng tham gia đầu tư lớn vào các dự án. Việc hội nhập môi trường đầu tư sẽ thúc đẩy sự tham gia của các QĐTCK nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần đảm bảo mức độ rủi ro phù hợp khi tiến hành bất kỳ hoạt động kinh tế nào. Đảm bảo giữ vững ổn định về chính trị, củng cố an ninh quốc phòng, phát triển hội nhập kinh tế theo hướng “hoà nhập chứ không hoà tan” . Có như vậy mới tạo nét riêng cho kinh tế Việt Nam phát triển ổn định theo hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Giải pháp tầm vi mô.
3.1. Để QĐTCK có một cấu trúc nội bộ vững chắc cần phải đào tạo cho nó một đội ngũ những người quản lý quỹ tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm và đạo đức. Muốn phát triển QĐTCK tại Việt Nam, cần xúc tiến các điều kiện này như tổ chức các lớp học về chứng khoán và TTCK trên các phương tiện thông tin đại chúng, UBCKNN cần kết hợp với các trường đại học, cao đẳng, các công ty tài chính đào tạo một đội ngũ nhân viên then chốt đủ khả năng làm việc trong các QĐTCK. Tiến hành cho học viên đi học tập trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài giúp họ nắm bắt sâu sát hơn hoạt động của các QĐTCK.
3.2. Không những thế bản thân QĐTCK phải có định hướng hoạt động và phát triển cụ thể thông qua các kế hoạch được duyệt. Mỗi một hoạt động đầu tư đều phải lập kế hoạch dự định. Kết quả cho một công cuộc đầu tư của quỹ phải được tính toán rõ ràng. Chiến lược hoạt động vừa đảm bảo mục tiêu phát triển quỹ vừa phù hợp với đường lối phát triển thị trường chung, TTCK nói riêng . Về mục tiêu tổng thể, QĐTCK phải hoạt động phù hợp với chủ trương, đường lối và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đảng và nhà nước, nhưng các QĐTCK cần phải được dành cho quyền điều hành độc lập. Nếu các quyết định đầu tư không tuân thủ theo một quy trình thẩm định khoa học và chịu tác động chủ quan duy ý chí của cấp này hay cấp khác sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề như đầu tư thất bại, thua lỗ mất vốn và mất cả uy tín kinh doanh . Do vậy, cho dù một QĐTCK do nhà nước thành lập và góp vốn ban đầu cũng cần dành cho quỹ này quyền tự chịu trách nhiệm, tự quyết định đầu tư cho các mục tiêu phù hợp định hướng của nhà nước.
Kết luận
QĐTCK là một định chế tài chính chung gian trên TTCK . Nó đóng vai trò là chủ thể tham gia hoạt động năng nổ trên thị trường góp phần tạo lập kênh lưu thông các dòng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Ngày 20/07/2000 TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động đánh dấu một bước nhảy vọt lớn trong việc phát triển thị trường tài chính và thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế. Kể từ nay, Việt Nam không còn phải đối mặt với những khó khăn trong việc huy động những dòng vốn trung và dài hạn. Các doanh nghiệp đã tìm được chỗ dựa cho mình thông qua TTCK. Và người đầu tư cũng có nhiều cơ hội hơn khi họ tiếp cận thêm được một kênh đầu tư hấp dẫn trong đó có QĐTCK. Quỹ vừa đóng vai trò là người tạo lập cung hàng hoá cho thị trường (thông qua phát hành cổ phiếu/chứng chỉ quỹ ) vừa là phía cầu to lớn cho thị trường (người mua chứng khoán của các doanh nghiệp). Có thể nói phát triển TTCK phải đi liền phát triển các “định chế tài chính vệ tinh” . Và để thực hiện được điều này đòi hỏi phải phát huy hết các điều kiện và khả năng thúc đẩy hoat động của chúng . “Điều kiện và khả năng phát triển các QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cần phải được nghiên cứu tỷ mỉ hơn nữa để góp phần thúc đẩy hoạt động của các QĐTCK. Tôi rất mong nhận được những ý kiến, những tham luận quý báu từ phía thầy cô và bạn đọc . Một lần nữa xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô Trần Mai Hoa, cảm ơn các thầy cô giáo và bạn đọc đã và sẽ giúp đỡ tôi thực hiện tốt hơn nữa đề tài này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Quốc Anh -“Quỹ đầu tư, động lực thúc đẩyTTCK”-Báo đầu tư chứng khoán số 5/2000.
2. Nguyễn Ngọc Chính- “Chân dung những nhà đầu tư trong bóng tối”- Báo Đầu tư chứng khoán số 6,7,8,9,10/2000.
3. Tiến Đạt - “Tối đa hoá lợi ích qua QĐTCK”- Báo Đầu tư chứng khoán số 11/2000.
4. Phương Lan Hương -“Lựa chọn mô hình quỹ đầu tư tại Việt Nam”- Báo Đầu tư chứng khoán số 13/2000.
5. Thu Hằng -“Các ưu nhược điểm của quỹ hỗ tương”- Báo Đầu tư chứng khoán số 26/2000 .
6. Phương Hoàng -“Phân biệt quỹ đầu tư dạng đóng và dạng mở”- Báo Đầu tư chứng khoán số 27/2000 .
7. Chí Tín -“Đã đến lúc trình làng các quỹ đầu tư ”- Báo Đầu tư chứng khoán số 40/2000 .
8. Hải Phương -“Quỹ đầu tư mạo hiểm “bà đỡ” cho những ý tưởng kinh doanh táo bạo”- Báo Đầu tư chứng khoán số 43/2000.
9. Ngoc Hạnh -“Tìm hiểu về mô hình quản lý các khoản đầu tư vào quỹ”- Báo Đầu tư chứng khoán số 55/2000.
10. Mạnh Hùng -“QĐTCK chậm ra đời”- Báo Đầu tư chứng khoán số 68/2000 .
11. Hà San -“Các quỹ đầu tư không chính thức tự phát hình thành trên TTCK ”- Báo Đầu tư chứng khoán số 75/2000.
12. Bùi Viết Thuyên -“Mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ vốn đầu tư mạo hiểm”- Báo Đầu tư chứng khoán số 79/2000.
13. Hải Bằng -“Các quỹ đầu tư tại Việt Nam : Tuổi cao sức yếu”- Báo Đầu tư chứng khoán số 102/2001.
14. Chí Tín -“Các nhà đầu tư là tổ chức đã đến lúc tham gia thị trường” -Báo Đầu tư chứng khoán số 111/2002.
15. Nguyễn Hồng -“Nhiều nhà đầu tư là tổ chức sẽ tham gia TTCK Việt Nam ”- Báo Đầu tư chứng khoán số 117/2002.
16. “Quỹ đầu tư chứng khoán ”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 2/1999.
17. “Giải thích quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ ”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 3/1999.
18.Thanh Hà -“QĐTCK loại hình huy động vốn tối ưu cho nền kinh tế ” - Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 4/1999.
19. Phương Lan Hương -“Các loại quỹ đầu tư - một định chế tài chính trung gian trên thị trường vốn ”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 7/2000.
20. Bùi Quang Đàm và Phạm Long -“QĐTCK ở Việt Nam những giải pháp nhằm thúc đẩy việc thành lập và phát triển”-Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 3/2000.
21. Thái ngọc Hiền -“QĐT và lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp ”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 12/2001+02/2002.
22. Nguyễn Văn Định -“QĐTCK- Vai trò quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán” -Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 8/2001.
23. Thanh Hương -“Quỹ đầu tư - Vai trò và thời điểm xuất hiện”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 3/2002.
24. Thanh Hà - “Thúc đẩy phát triển QĐTCK-giải pháp giảm áp lực cầu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hiện nay”- Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 3/2002.
25. Lê Huy Chí -“QĐTCK vai trò và khả năng thành lập ”- tạp chí chứng khoán VN số 7-7/2002.
26. Huy Nam - “Các quỹ đầu tư - Một định chế tài chính trung gian thuyết phục ” -Thời báo kinh tế Việt Nam số 58/1999.
27. Huy Nam -“Close fund và Clone fund ”- Thời báo kinh tế Việt Nam số 64/1999.
28. Hải Bằng -“Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam ” -Thời báo kinh tế Việt Nam số 90/1999.
29. Nguyễn Hồng -“Mô hình tổ chức các QĐTCK ở Việt Nam” Thời báo kinh tế Việt Nam số 98/1999.
30. TS Nguyễn Sơn -“QĐTCK vừa phát hành vừa tổ chức đầu tư chứng khoán ”- Thời báo kinh tế Việt Nam số 6/2000.
31. Huy Nam -“Quỹ đầu tư được thành lập như thế nào”- Thời báo kinh tế Việt Nam số 61/1999.
32. NĐ 48/1998/NĐCP ngày 11/7/1998 về CK& TTCK.
33. QĐ 05/1998/QĐ- UBCK3 ngày 13/10/1998 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ.
34. Tài liệu về bài giảng: “Luật áp dụng trong nghành chứng khoán ”- UBCKNN 2000.
35. Nguyễn Huy Dương -“Đầu tư vốn mạo hiểm hình thức đầu tư phát triển mạnh trong nền kinh tế tri thức”-Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 04/01.
36. Nguyễn Văn Định -“Hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam” - Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 08/01.
37. Th.s Trần Đăng Khâm -“Để thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia vào thị trường CKVN”- Tạp chí tài chính tiền tệ số 02/02.
38. Ts. Nguyễn Sơn -“QĐT và vấn đề thành lập QĐTCK ở VN”- Tạp chí ngân hàng số 6/2000.
39. Thanh Hà -“Phát triển QĐT thúc đẩy quá trình CPH”- Tạp chí tài chính số 5/2000.
40. Adam Sack &John MC Kenzie -“Hình thành một QĐT mạo hiểm ở VN”- Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 4-9/1998.
41. Đặng Quang Gia -“Từ điển TTCK”- Nhà xuất bản thống kê 2001.
42. Dự thảo nghị định thay thế nghị định 48/98.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu…………………………………………………
1
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán…………………………………………………………...
3
I. Khái niệm, phân loại và vai trò của QĐTCK…………………
3
1. Khái niệm QĐTCK…………………………………………..
3
2. Phân loại QĐTCK……………………………………………
4
2.1. Phân loại theo nguồn vốn huy động………………………..
4
2.2. Phân loaị theo chính sách đầu tư ………………………….
9
3. Vai trò của QĐTCK………………………………………….
10
3.1. Vai trò đối với nhà đầu tư………………………………….
10
3.2. Vai trò đối với doanh nghiệp………………………………
12
3.3. Vai trò đối với nền kinh tế…………………………………
13
II. Quá trình hình thành và phát triển các QĐTCK trên thế giới
14
III. Các nhân tố và khả năng ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển các QĐTCK………………………………………….
16
1. Yếu tố pháp lý………………………………………………..
16
2. Yếu tố môi trường……………………………………………
17
3. Yếu tố nội bộ của quỹ………………………………………..
18
Chương ii: Điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay…………………………..
19
I. Khái quát chung về hoạt động của TTCK VN……………….
19
1. Quá trình hình thành và phát triển TTCK VN……………….
19
2. Tình hình hoạt động của các QĐTCK tại Việt Nam…………
21
3. Sự cần thiết phải phát triển các QĐTCK ở Việt Nam………..
26
II. Những điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam………………………………………
27
1. Điều kiện phát triển………………………………………….
27
1.1. Điều kiện tầm vĩ mô…………………………………….…
27
1.2. Điều kiện tầm vi mô.………………………………………
32
2. Khả năng phát triển các QĐTCK ở Việt Nam……………….
33
2.1. Trong giai đoạn hiện nay…………………………………..
33
2.2. Khả năng phát triển trong tương lai………………………..
34
Chương III: Định hướng và những giải pháp cho việc hình thành và phát triển những điều kiện tạo thuận lợi cho các QĐTCK phát triển……………………………………….
36
I. Định hướng của Đảng và Nhà nước cho phát triển các QĐTCK ở Việt Nam……………………………………………
36
II. Giải pháp về các điều kiện và khả năng được hình thành và phát triển thúc đẩy sự hình thành và phát triển các QĐTCK…...
37
1. Mô hình hoạt động cho các QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay…………………………………………………...
37
1.1. Những căn cứ lựa chọn…………………………………….
37
1.2. Mô hình lựa chọn QĐTCK tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay…………………………………………………………
38
2. Giải pháp tầm vĩ mô………………………………………….
40
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật………………………………..
40
2.2. Hệ thống thị trường………………………………………...
41
2.3. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước…………………
42
2.4. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng…………………………..
42
3. Giải pháp tầm vi mô………………………………………….
43
3.1. Đội ngũ nguồn nhân lực……………………………………
43
3.2. Chiến lược hoạt động và định hướng của quỹ……………...
43
Kết luận……………………………………………………
44
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………
45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0825.doc