MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I. lịch sử phát triển của phật giáo nhật bản.
1. Quá trình du nhập của phật giáo nhật bản.
2. Quá trình phát triển phật giáo ở nhật bản.
2.1. Thời kỳ đầu
2.2. Thời kỳ “Nhật Bản hoá”.
2.3. Thời kỳ tồn tại
II. Phật giáo từ sau Minh Trị duy tân đến nay
1. Thời kỳ Minh Trị
2. Sự phát triển của phật giáo sang hình thức mới
3. Tình hình phật giáo sau chiến tranh thế giới thứ II
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Khi nói đến Nhật Bản là chúng ta hình dung ngay đến một xứ sở với những cây Sakura rực rỡ khoe sắc dưới ắnh nắng mặt trời, với những phong tục tập quán mang đậm bản sắc như nghệ thuật uống trà (Chado), nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) và nghệ thuật vườn cảnh . Nhưng có một nét đẹp trong văn hoá Nhật Bản mà không dễ ai cũng có thể cảm nhận được. Đó là một nền văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh của người Nhật Bản. Một trong những yếu tố tạo lên nền văn hoá tâm linh đó là đạo phật. Mặc dù đất nước Nhật Bản trải qua bao nhiêu biến cố của lịch sử, nước lúc thịnh, lúc suy nhưng phật giáo vẫn luôn song hành tiến tới tương lai cùng nhân dân Nhật Bản. Đạo phật quan trọng tới mức người ta nghĩ rằng nếu không có đạo phật ở Nhật Bản thì truyền thống văn hoá và truyền thống tôn giáo sẽ khác hẳn.
Trong bài tiểu luận này, do kiến thức còn hạn chế em không đi sâu vào phân tích toàn bộ quá trình phát triển của phật giáo, qua các thời kỳ mà chỉ xin khái quát lại những hiểu biết của mình về đạo phật ở Nhật bản. Rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của thầy cô và các bạn đồng nghiệp về bài viết này.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đôi nét về đạo Phật ở Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đôi nét về đạo Phật ở Nhật Bản (TL; 3)
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I. Lịch sử phát triển của phật giáo nhật bản.
1. Quá trình du nhập của phật giáo nhật bản.
2. Quá trình phát triển phật giáo ở nhật bản.
2.1. Thời kỳ đầu
2.2. Thời kỳ “Nhật Bản hoá”.
2.3. Thời kỳ tồn tại
II. Phật giáo từ sau Minh Trị duy tân đến nay
1. Thời kỳ Minh Trị
2. Sự phát triển của phật giáo sang hình thức mới
3. Tình hình phật giáo sau chiến tranh thế giới thứ II
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Khi nói đến Nhật Bản là chúng ta hình dung ngay đến một xứ sở với những cây Sakura rực rỡ khoe sắc dưới ắnh nắng mặt trời, với những phong tục tập quán mang đậm bản sắc như nghệ thuật uống trà (Chado), nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) và nghệ thuật vườn cảnh ... Nhưng có một nét đẹp trong văn hoá Nhật Bản mà không dễ ai cũng có thể cảm nhận được. Đó là một nền văn hoá tinh thần, văn hoá tâm linh của người Nhật Bản. Một trong những yếu tố tạo lên nền văn hoá tâm linh đó là đạo phật. Mặc dù đất nước Nhật Bản trải qua bao nhiêu biến cố của lịch sử, nước lúc thịnh, lúc suy nhưng phật giáo vẫn luôn song hành tiến tới tương lai cùng nhân dân Nhật Bản. Đạo phật quan trọng tới mức người ta nghĩ rằng nếu không có đạo phật ở Nhật Bản thì truyền thống văn hoá và truyền thống tôn giáo sẽ khác hẳn.
Trong bài tiểu luận này, do kiến thức còn hạn chế em không đi sâu vào phân tích toàn bộ quá trình phát triển của phật giáo, qua các thời kỳ mà chỉ xin khái quát lại những hiểu biết của mình về đạo phật ở Nhật bản. Rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của thầy cô và các bạn đồng nghiệp về bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
I- Lịch sử phát triển của phật giáo nhật bản.
1. Quá trình du nhập của phật giáo vào nhật bản. Từ sau công nguyên đạo phật đã vượt qua khỏi biên giới của triết lý truyền thống Ấn Độ và mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang nhiều nước ở Trung Nam Á và Đông Bắc Á. Nhật Bản cũng là một nước không nằm ngoài sự ảnh hưởng của đạo phật.
Từ thế kỷ thứ III, Nhật Bản đã có những tiếp xúc với cô đồng bói toán và các thổ hào của các bộ tộc ở Trung quốc. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ V Nhật Bản, bắt đầu tiến hành các cuộc xâm lược, cướp bóc và các thợ lành nghề là người Triều Tiên, Trung Quốc đã bị bắt về Nhật Bản. Nhiều người trong số tù binh đã trở thành người mang kỹ thuật mới về cho người Nhật, đồng thời họ cũng chính là người mang nền văn minh từ lục địa đến quần đảo Nhật Bản. Một trong số những tri thức đó là những tri thức về phật giáo.
Đạo phật chính thức được đón nhận ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI ( năm 538 sau công nguyên). Cũng từ đó trở đi, phật giáo đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng văn hoá xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên đạo phật ở Nhật Bản không được sao chép nguyên bản trực tiếp từ Ấn Độ mà đạo phật trước khi vào Nhật Bản đã được phát triển ở Trung Quốc và đôi chút biến đổi ở Triều Tiên. Đồng thời đạo phật khi du nhập vào nhật bản vô tình hay hữu ý đã được bản địa hoá cho phù hợp với trình độ nhận thức và với một số tín ngưỡng bản địa lợi dụng nó tạo điều kiện để đạo phật dễ thâm nhập vào quần chúng nhân dân Nhật Bản. Như vậy là có sự tác động qua lại giữa đạo phật và các giá trị truyền thống của người dân Nhật Bản. Đạo phật là một yếu tố kích thích các giá trị truyền thống phát triển và ngược lại.
Nhân tố tôn giáo và trí tuệ quan trọng nhất mà đạo phật đưa vào Nhật Bản chính là nguyên tắc siêu nghiệm và phủ nhận thế giới. Nguyên tắc này đại diện cho một xu hướng giá trị hoàn toàn mới, đó là một sự kiến giải không hề có trong tư tưởng tôn giáo vốn có của Nhật Bản. Trước khi có đạo phật du nhập vào và khi đạo phật vào Nhật Bản, những người phản đối cũng
như những người ủng hộ đạo phật đều coi phật tổ là Kami, một Kami từ nước ngoài tới. Ngay cả đạo phật thời kỳ đầu du nhập cũng bị coi như là một phương tiện nhằm thoả mãn những quan tâm của trần thế và các tượng phật được mọi người thán phục chỉ vì vẻ đẹp tinh tế.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về đạo phật Nhật Bản không có sự thống nhất về nguyên nhân làm cho đạo phật có thể bén rễ vững chắc trong xã hội của Nhật Bản. Một số người cho rằng việc truyền bá đạo phật vào Nhật Bản là kết quả của sự bành trướng tư tưởng văn hoá Trung Hoa hơn là hệ quả của nhu cầu nội tại của nước Nhật. Một số người khác lại cho rằng đây chính là kết quả của sự phát triển lôgic của xã hội vì lúc đó xã hội Nhật Bản đang trong giai đoạn hình thành và phát triển chế độ phong kiến cho lên lúc này các nhà triết lý của đạo phật và Khổng giáo đã có những tư tưởng phù hợp với nhu cầu lúc đó là xây dựng một chế độ phong kiến trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều nằm trong tay Hoàng Đế chấm dứt phân tranh và thống nhất đất nước. Như vậy, phật giáo ít nhiều cũng có những ảnh hưởng đến sự phát triển trong buổi đầu của nền văn hoá nhật bản và sự phát triển của đất nước Nhật.
2. Quá trình phát triển của phật giáo Nhật bản.
(Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ XIV)
Phật giáo bắt đầu được truyền vào Nhật Bản từ thời kể thế Thiên Hoàng (507 đến 531) nhưng phải đến thời thái tử Thánh Đức thì mới có những bước phát triển rộng rãi và truyền bá công khai. Dưới góc độ của lịch sử và dựa vào phương pháp phân kỳ phật giáo Nhật bản, ta có thể chia quá trình hoàn thành và phát triển phật giáo của Nhật bản thành ba thời kỳ chính như sau:
2.1 - Thời kỳ đầu (từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ VIII).
Đây là thời kỳ tiếp nhận phật giáo hay còn gọi là thời kỳ “truyền bá”. Từ thời kỳ này, đạo phật đã được coi là công cụ trực tiếp của công đình và
một bộ phận tăng lữ, quý tộc Nhật Bản. Do đó nó phát triển rất nhanh và mạnh mẽ. Trong thời gian này, tất cả có sáu giáo phái được thành lập.
Trong quá trình phát triển phật giáo ở giai đoạn này, thì người có công lớn nhất phải kể đến là hoàng thân Shotoku. Ông là người nhật đầu tiên thực sự hiểu được tư tưởng của đức phật và tin tưởng sâu sắc vào đạo phật. Tháng 4 năm 12 Suy Cổ, thái tử Shotoku đã cho ban hàng hiến pháp 17 điều trong đó ông dùng tư tưởng phật giáo để chỉ đaọ về tinh thần, lấy lý luận nho gia làm căn cứ chính trị và lấy nguyên tắc pháp gia làm phương pháp thi hành.
Điều thứ 2 trong hiến pháp ghi: “Thành kính đối với tam bảo(phật, pháp, tăng). Đây là trung quy của tứ sinh, là cực tông của vạn quốc. Đời nào, người nào mà không theo pháp ấy ? người ta ít lầm nỗi, tội ắc có thể cải tạo nếu không quy tam bảo lấy gì làm rõ thẳng cong. Như vậy, công dụng của quy tam bảo là có thể uốn thẳng thành cong. Con người ta hoặc giả hướng thiện, nếu giáo dục không đúng thì không ai coi thiện như nước chảy xuôi. Và phép giáo hóa gửi ở sự chỉ đạo tối cao của tín ngưỡng tam bảo với mục đích cao cả nhất của nhân gian. Ngay cả chúng sinh bốn loại nếu rời bỏ tam bảo thì cũng không còn cửa nào thoát khỏi bể khổ.” Qua đây ta có thể thấy được thái tử tôn sùng tam bảo sâu sắc biết nhường nào.
Trong thời gian thái tử Shotoku (574 - 662) cầm quyền đã có 46 ngôi chùa được xây dựng và có hơn 1376 tăng ni, phật tử tham gia. Đặc biệt là năm 645 khi “chiếu thư” đầu tiên về phát triển phật giáo được công bố thì phật giáo đã được phát triển nhanh chóng đến cuối thế kỷ thứ VII cả nước đã có hơn 540 ngôi chùa với hơn 3363 tăng ni và phật tử tham gia đạo phật. Sau này người ta tôn sùng thái tử Shotoku là Thánh Đức đây là cách gọi tôn kính để ghi nhớ công đức lớn lao của ông.
Trong suốt các thế kỷ từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VIII, nhờ vào sự ủng hộ của nhà nước mà đạo phật đã phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng rộng lớn đến mọi tầng lớp nhân dân . Thời kỳ này có rất nhiều chùa, tự viện của đạo phật được xây dựng nhiều nghệ nhân đã tạc những bức
tượng phật tuyệt đẹp, một trong những tác phẩm tiêu biểu ở đền Todaiji thuộc Nara.
Người Nhật tin sùng đạo phật nhưng không vì vậy mà họ bỏ tín ngưỡng đối với các chư thần vốn có từ xưa của Nhật Bản. Họ đã không loại trừ truyền thống Shinto bản đại mà họ còn hướng tới sự hợp nhất một cách hài hoà giữa đạo phật và đạo Shinto. Họ đã thờ phật song song với thờ thần. Đặc biệt là một thánh tự được xây dựng trong khuôn viên của điện thờ Shinto.
Như vậy, mối quan hệ với các tôn giáo khác có tầm quan trọng trong việc xác định tương lai, tính chất thích nghi với các điều kiện sở tại cũng như sự chuyển hoá của đạo phật trong các tình huống cụ thể của đất nước N hật Bản. Đặc biệt là sự biến đổi của đạo phật dưới hình thức “Zen” vào khoảng thế kỷ VII đã trở thành học thuyết của giới võ sĩ đạo.
2.2. Thời kỳ Nhật Bản hoá( từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XIV).
Trong thời kỳ này sự hỗn dung giữa tư tưởng của đạo phật và đạo Shinto đã được diễn đạt một cách có hệ thống bằng các giáo phái hỗn dung như Ryobu và Sanno của đạo Shinto. Nhưng đồng thời với xu hướng trên vẫn có sự tranh cãi giữa đạo phật và đạo Shinto. Những người theo đạo phật cho rằng các Kami của đạo Shinto là những biểu hiện thứ hai của đức phật và bồ tát, còn các người theo đạo Shinto thì lại cho rằng thực thể đầu tiên hay cái bản thể là do các Kami tạo lên và họ còn cho rằng các đức phật và bồ tát chỉ là sự biểu hiện của Kami mà thôi.
Tuy nhiên vào khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ X, phật giáo dòngTendai, sau khi đạt đến sự thịnh vượng đã có những ảnh hưởng tích cực đến hệ thống giáo dục của Nhật Bản. Và sau đó đã phân hoá với thần đạo. Cuối cùng thì giáo phái này đã tách ra thành các giáo phái: Tendai, Shugei, Shinsei, Dimon.
Một bước phát triển quan trọng khác của đạo phật, được đánh dấu bằng những phong troà tiến bộ của tôn giáo mới ở thời kỳ Kamakura (1193
-1333). Về sau giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn “quần chúng hoá” hay là “sự hình thành của đạo phật theo kiểu nhật bản”. Các nhà sư Nhật Bản được phép lập hạnh phúc gia đình với tư tưởng phật ở tâm và mọi người đều có thể trở thành phật. Trong thời kỳ này đã xuất hiện một số tư tưởng gia của đạo phật như: Honen, Shinran, Dogen và Nichiren. Đây chính là bốn vị đã sáng lập ra bốn giáo phái mới của đạo phật tương ứng là: Jodshu, Jodo, Shinshu, Thiền tông và Hokke. Bốn giáo phái này, đã tạo nên những đóng góp vĩ đại không chỉ cho lịch sử phật giáo Nhật Bản mà còn cho lịch sử tư tưởng Nhật Bản nói chung.
Chẳng hạn, Honen (1133 -1212) đã tìm ra con đường giác ngộ đạo phật mà mọi người đều có thể hiểu được rõ ràng. Ông nhận thấy có thể cứu vớt được linh hồn khi người ta có quan niệm Nenbutsu tức là Namu Amida Butsu nghĩa là cầu khấn Adiđà hay Nam mô A di đà phật. A di đà là vị phật của cuộc sống, là ánh sáng vô biên. Với lòng tin này vào a di đà và niềm Tịnh độ (Jodo), Honen đã thành lập ra giáo phái Jodo hay còn gọi là Tịnh độ tông.
Một trong những môn đệ của ông là Shinran (1173 - 1262), người ta đã tiến xa hơn trong việc nhấn mạnh tới lòng tin tuyệt đối vào quyền lực cứu vớt của adiđà và hệ quả tất yếu của điều đó. Shinran gạt bỏ tất cả lòng tin của mình vào bất kỳ cái gì khác trên thế giới, kể cả vào khả năng của cá nhân mình. Ông đã dẫn cả tư tưởng của sư phụ mình và kết luận một cách logic rằng: Con người tụng Nenbutsu và tin vào adiđà đều không dựa vào bất kỳ khả năng hay quyền lực nào của con người mà chỉ do đức phật cho phép anh ta làm được như vậy. Ông nói “dù cho người thiện có thể được tái sinh ở niềm tịnh độ thì cái ác lại càng nhiều thêm”, đây là cách diễn đạt hùng hồn về niềm tin chủ yếu dựa vào sự phủ nhận hoàn toàn của bản thân mình. Ngoài ra, ông còn bắc bỏ tổ chức tự viện truyền thống, ông cho rằng cái đó là không cần thiết nữa. Ông còn tán thành quan niệm các thầy tu có thể lấy vợ, sinh con tức là sống một cuộc sống mộ đạo giữa những người bình thường và có những quan tâm đến truyện thế tục.
Dogen (1200 -1253) chính là người đã sang Trung Quốc để tìm lời dạy đích thực của đức phật, và ông đã tin vào cách tu luyện tạo thiền của đức phật chính là phương pháp đã giúp đức phật được giác ngộ. Khác hản với Shinran và Dogen. Đã nhấn mạnh đến đời sống tu viện ẩn dật, khổ hạnh và kỷ luật nhằm mục đích cố gắng giữ gìn một cuộc sống tôn giáo. Tuy nhiên ông đã đề cao sự siêu nghiệm và đơn giản hoá đời sống tôn giáo.
Nichiren (1222 -1282), sau một thời gian dài tìm tòi, ông đã tin rằng Kinh Liên Hoa(Myohorengekyo) có lời dạy cuối cùng của đức phật liên quan đến sự giải thoát. Vì thế, ông đã dạy cho các tín đồ của mình tụng kinh liên hoa, ông tin rằng quyền lực siêu phàm của kinh này sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Lập trường của Nichiren được coi là dân tộc chủ nghĩa, xuất phát từ sức mạnh siêu nhiên, được áp dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sau này giáo phái của ông được chia thành nhiều giáo phái phụ và trở thành nguồn gốc của nhiều tôn giáo mới.
Tất cả các nhà lãnh đạo tôn giáo thời kỳ Kamakura, tuy khác nhau về cách tiếp cận với chân lý của đạo phật nhưng lại giống nhau trong việc thừa nhận ý nghĩa của cái siêu nghiệm và chống lại các nhà lãnh đạo của các đạo phật trước đây. Những tư tưởng và hoạt động của họ đều tạo nên sự thức tỉnh tôn giáo, thậm chí nó còn tạo nên một môi trường giống như một cuộc cải cách tôn giáo. Do đó lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, đạo phật đã thấm sâu vào nhân dân và trở thành phong trào quần chúng
2.3 thời kỳ tồn tại (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX)
Dưới chế độ phong kiến Nhật Bản, những ảnh hưởng của đạo phật đã bị thu hẹp mậc dù vẫn còn sức mạnh tiềm tàng trong dân chúng, nguyên nhân là do chính sách hai mặt của chế độ Mạc phủ Tokuga a (1603-1867) là vừa lợi dụng ,vừa kiềm chế sự phát triển của đạo phật .Sau khi cách mạng duy tân diễn ra thì tình hình cũng không sáng sủa lên. Và chỉ đến khi chính phủ tuyên bố ban hành hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng thì đạo phật mới được khôi phục địa vị hợp pháp của mình.
II-phật giáo từ Minh Trị duy tân đến nay.
1. thời kỳ Minh Trị (1868 - 1991).
Trong thờ kỳ Mạc phủ(1603 -1867) thì ảnh hưởng của đạo phật đã bị thu hẹp, dưới sự quản chế của Mạc phủ thì phật giáo không phải lo cơm ăn, áo mặc nhưng cũng đã mất dần đi sức phê phán đối ngoại của mình. Đặc biệt là sau cuộc cách mạng duy tân năm 1868, Minh Trị Thiên Hoàng lên nắm quyền, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước đườc hình thành. Về tư tưởng chủ nghĩa phục cổ quân quyền thần đạo, tức là lấy thần đạo làm quốc giáo. Như vậy, vào thời gian này thì vai trò của đạo phật đã bị suy giảm nghiêm trọng.
Ngay sau khi lên ngôi, thì đến tháng 3 năm Khánh Ưng, Hoàng Đế Minh Trị đã công bố lệnh “tách thần phật”. Lệnh này có nội dung là: Khôi phục bổ nhiệm quan thần kỳ, phật tự, chia riêng rẽ, các tăng lữ phải ăn mặc theo thần đạo, cấm thờ phật và dùng các vật dụng thường có trong chùa: mõ , chuông..., cấm không được dùng thuật ngữ của nhà phật để gọi tên các thần.
Mệnh lệnh “tách thần phật” đã tạo điều kiện cho những thế lực chống phật nhân cơ hội đó đã ra tay truy bức giết hại các tăng ni, phật tử, tạo thành làn sóng điên cuồng phá phách các tượng phật, các chùa viện với quy mô lớn, ở phiên Phú Sơn là nơi Chân tông thịnh hành nhất đã có đến hơn 1320 chùa đã bị hợp nhất làm một.
Việc tàn sát các tăng ni, phá các tuợng phật và đốt chùa đã tạo ra một làn sóng phẫn lộ của các tăng ni và nhân dân Nhât Bản. Họ đã có những phản ứng quyết liệt, nhất là những nơi lực lượng Chân tông đang thịnh hành . Ví dụ như năm thứ 4 Minh Trị có cuộc bạo động ở tam Hà Đại Tân , năm thứ 5 ở Tín Việt, năm thứ sáu ở Việt Tiền, Kim Lập ...
Lo sợ sự phản kháng của các tín đồ đạo phật có thể đi đến cao trào, chính phủ Minh Trị đã ra tuyên bố là: Sự tiêu diệt đạo phật không phải là ý muốn của chính phủ và chính phủ giải thích rằng chỉ cấm thần và phật hỗn
dung thì không có nghĩa là xoá bỏ phật giáo. bất luận là chính sách của chính phủ có chủ trương tiêu diệt phật giáo hay không nhưng kế hoach của các quan thần và một số người, một số học giả thần đạo có những hành động tỏ ra muốn dập tắt phật giáo.
Sau khi mà lệnh”tách thần phật” vẫn không tiêu diệt được phật giáo nhưng về mặt quản lý thì phật giáo đã bị ghép vào phạm vi thần đạo. Tư tưởng phật giáo đã không thể chấp nhận được đối với quan niệm quản lý tôn giáo của Minh Trị. Tháng tư năm thứ ba Minh Trị đã lợi dụng các tăng lữ phá giới để tuyên truyền tư tuởng thần đạo đến năm thứ năm Minh Trị các chùa Bản Nguyên Tây và Bản Nguyên Đông, cùng một số chùa khác của các phái khác đã cử phật tử của mình ra nước ngoài để khảo sát tình hình thực tế. Khi trở về họ đã lấy tôn giáo của toàn thế giới để phê bình chính sách tôn giáo của chính phủ Minh Trị. Họ đã cùng nhau bàn bạc kế hoạch để uốn nắn những tệ hại của giới tăng ni và nêu rõ mục đích, lợi ích của phật giáo đối với quốc gia, đồng thời yêu cầu chính phủ Minh Trị sớm tỉnh ngộ để ban hành nhưng chính sách đúng đắn hơn đối với phật giáo.
2. Sự phát triển của phật giáo mới.
Dưới sự ảnh hưởng của làn sóng chính trị thần đạo và thời đại mới xây dựng khoa học, các tông phái xuất gia trong phật giáo đã không còn gì để tự bảo vệ nữa nhưng phật giáo mới tại gia thì lại bắt đầu phát huy những tiềm lực mạnh mẽ của mình.
Năm thứ 27 Minh Trị duy tân xảy ra một cuộc chiến tranh Trung -Nhật, và một cao trào đế quốc chủ nghĩa, quân quốc chủ nghĩa đang dâng cao ở Nhật, phật giáo để tồn tại được, phải biểu hiện tinh thần yêu nước và trở thành người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc. Phật giáo đã trở thành công cụ xâm lược đối ngoại. Vì các dân tộc châu Á ở phía đông, đa số là những người theo tín ngưỡng đạo phật nên họ đã lợi dụng tình cảm của các tín đồ phật giáo giương cao khẩu hiệu: “ vùng thịnh vượng chung của Đại đông Á
“, nhưng đây chỉ là vận động hộ pháp của tín đồ phật giáo, là phương pháp chứ không phải là mục đích.
Từ năm 1897, các tông phái phật giáo của Nhật Bản đã triển khai phương pháp nghiên cứu phật giáo mới. Đó chính là sự tự do nghiên cứu ở bất kỳ nước nào trên thế giới, để từ đó tiếp thu những cái văn minh của xã hội bên ngoài nước Nhật. Từ phong trào tiếp thu cái mới này đã xuất hiện rất nhiều nhà nghiên cứu phật giáo: Nam điều văn hùng, lạp nguyên nghiên thọ, thanh mộc văn giáo.. . Không khí học thuật mới này còn kéo dài mãi đến thời Đại Chính (1912 -1925 ) với thành quả rực rỡ.
Ví dụ như cư sĩ nhân sơn đã thành lập được cơ sở khắc kinh kim năng ở nam kinh, lại còn xây dợng cả tinh xá kỳ viên, đây có thể coi là sự mở đầu cho việc tổ chức giáo dục phật giáo mới ở Nhật Bản.
Dưới niên hiệu Đại Chính(1912 -1925), nhiều trường đại học chuyên khoa của các tông phái phật giáo Nhật Bản đã xuất hiện. Các trường này đã đào tạo ra được một hệ thống nhân tài về phật học. Sau khi đi sâu vào tìm hiểu áp dụng phương pháp nghiên cứu mới thì những thành tựu của các học giả Nhật bản đã vượt xa cả các nước Âu - Mỹ. Phương pháp nghiên cứu mới đó là học tập các nước Âu - Mỹ.
Nhưng đến sau niên hiệu Đại Chính, phật giáo Nhật Bản do có sự ảnh hưởng của triết học phương Tây và cơ đốc giáo đã gần như thoát ly khỏi hình thái và quan niệm của phật giáo Trung Quốc. Thời kỳ này các nhà tu hành chỉ ở trong núi chờ đợi chúng sinh đến cứu khổ bị xã hội đào thải. Chỉ có phong trào giáo hoá phổ cập rộng rãi trong nhân dân thì mới có thể phát triển được. Phong trào phát triển tín ngưỡng phật giáo ngày càng lan rộng, tư tưởng dân chủ đã trỗi dậy. Phật giáo dần dần hướng về hoạt động chính trị xã hội như năm 1964 sáng giá học hội đã phát triển thành Đảng Công Minh, đây là chính đảng có thế lực lớn thứ ba ở nước Nhật.
Sự giao thoa của văn hóa Đông - Tây đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của phật giáo Nhật. Đạo phật Nhật Bản đã tiến hành
công cuộc cải cách, tức là các giáo phái mới tách ra khỏi cái cũ. Phật giáo từ 13 dòng, 56 phái đến năm 1950 đã tăng lên 162 phái. Nguyên tắc chung của tôn giáo mới ra đời là không tôn giáo nào là không coi trọng việc tổ chức và phát triển công việc của tôn giáo, với sức mạnh đoàn kết chặt chẽ và kiên cường nhằm lôi kéo thêm tín đồ.
3. Phật giáo sau đại chiến thế giới hai đến nay.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với sự kiện, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân đồng minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Chiến tranh đã kết thúc nhưng Nhật bản lại là nước bại trận, mọi cơ sở vật chất kỹ thuật đều bị thiệt hại nặng nề. Trước tình hình đất nước như vậy thì phật giáo cũng chịu chung số phận. Nhất là sau đó quân đội Mỹ kéo vào chiếm đóng Nhật bản và tiến hành công cuộc “Mỹ hoá ở Nhật bản”. Đặc biệt là tình hình kinh tế của Nhật bản trở lên rất khó khăn, Mỹ đã nhân cơ hội này đưa hàng hoá của đạo cơ đốc vào cứu trợ cho những người bị đói, sự cứu trợ của đạo cơ đốc đã làm cho người dân Nhật phải đi theo đạo cơ đốc.
Trước tình khó khăn như vậy, giáo hội phật giáo của Nhật ở nước ngoài cũng đẫ vận chuyển vật tư cứu tế cho các phật tử ở trong nước. Nhưng chiến tranh đã tàn phá quá nặng nề lên sự cứu viện đó cũng không ăn thua gì. Đã vậy, lại còn thêm chính sách chia lại ruộng đất của chính phủ càng làm cho tình hình phật giáo lâm vào tình trạng bi đát hơn, chỉ có một số dòng là đứng vững trong cuộc khủng hoảng này: Tinh đô và Chân tông. Như vậy, tiền đồ của đạo phật Nhật bản thời kỳ này trở lên rất ảm đạm.
Trong khi có rất nhiều tông phái bị phá sản sau chiến tranh, thì xã hội Nhật lại xuất hiện sự hoạt động của phật giáo tự do thay thế. Họ hoặc là xây dựng lại hệ thống chùa viện độc lập, biên soạn thánh điển phật giáo bằng tiếng Nhật bản, các nhà sư dạy học kiếm sống hoặc giáo dục các tù nhân ở trong tù. Và có những ngôi chùa, lợi dụng nhà cửa dư thừa đã làm nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ . . . đáp ứng nhu cầu xã hội.
Phật giáo truyền thống của Nhật đang bị trào lưu phật giáo mới tấn công. Phật giáo mới ra đời đã lấy Kinh Pháp Hoa làm tư tưởng chủ đạo và họ cũng có một tổ chức vững chắc, hoạt động sôi nổi và cũng có số lượng tín đồ phát triển tương đối. Nhưng các tông giáo mới này, không có khả năng thống nhất với toàn bộ tông phái cũ, bởi vì giữa chúng có khoảng cách về tư tưởng.
Phật giáo Nhật thời kỷ hậu chiến tranh đang có những thay đổi lớn lao. Các thứ bậc tăng lữ ngày xưa, các trưởng môn nhân, và các tàn dư của nhiều tập tục cũ đều không còn nữa vì nó không được mọi người coi trọng, thậm trí còn được huỷ bỏ một cách tự nhiên. Các cơ cấu loại như: Dòng, chế độ hoàng thất . . . Ngày nay chỉ còn tính chất tượng trưng, giấc mộng của cái gọi là “môn tích” không còn tái hiện nữa. Một biểu hiện rõ ràng nữa là: “Phật giáo đọc kinh” đã bị chuyển thành “phật giáo giáo hoá”. Các kiến trúc của chùa viện cũng được áp dụng bằng các kiểu dáng mới hiện đại. Tăng lữ để tóc là chuyện thường.
Do sự phát triển của các dịch vụ du lịch mà các ngôi chùa cổ ở Tokyo, Osaka...nghiễm nhiên trở thành các di tích lịch sử nổi tiếng. Đặcbiệt là hai ngôi chùa một vàng và một bạc, đại diện cho hai nền văn hoá Bắc sơn và Đông sơn đã thu hút được số lượng khách du lịch đáng kể.
Ngày nay, trong xã hội hiện đại nhật bản đã có 9 trường tiểu học, 51 trường trung học, 131 trường cao đẳng và 24 trường đại học để phục vụ cho việc đào tạo nhân tài phật học. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đã có 179 tiến sĩ và vô số các thạc sĩ, học sĩ. Đã có rất nhiều học giả đã nổi danh, với những công trình chuyên luận về phật giáo làm mọi người phải kinh ngạc, còn các tác phẩm bình thường thì không thể thống kế hết được.
Mục tiêu chủ đạo của phật giáo là “Cứu nhân độ thế ”. Và để phục vụ cho mục tiêu này họ đã xây dựng một hệ thống gồm 116 viện dưỡng lao phật giáo, 13 viện cứu hộ, 26 viện cứu hộ, 3 viện tàn phế . . . Ngoài ra còn có 220 cơ sở phúc lợi nhi đồng, 38 thư viện, 49 viện bảo tàng
và các hoạt động khác của cá nhân phục vụ xã hội: Giáo dục phạm nhân trong các nhà tu, boả vệ nhân quyền, uỷ viên điều đình . . .
Hiện nay, ở Nhật bản đã có trên 160 giáo phái, 14908 ngôi đền và chùa với số người theo đạo phật là 89,033 triệu người chiếm khoảng 40,4% dân số Nhật.
Như đã nói ở trên, đời sống kinh tế trong các chùa của Nhật không được sung túc lắm, vì thế các nhà sư truyền giáo trong tín đồ của đạo phật cũng phải làm việc để kiếm sống. Vì với số lượng chùa và các tăng lữ đông đảo thì không ai, không tổ chức xã hội nào có thể cáng đáng được cho nên họ phải tự làm việc. Nhưng cũng từ đó thì đạo phật cũng được đưa ra khỏi chùa chiền và đi vào đời sống của nhân dân, tạo điều kiện cho phật giáo có cơ hội đi sâu vào đời sống nhân dân. Mà từ đó có thể thích ứng với hoàn cảnh thời đại. Hoàn cảnh thời đại ngày nay đang thúc giục mọi tôn giáo phải bước lên con đường “Nhân gian hoá ” tức là thoát ly cái thế tục và cất cao giọng hát siêu thoát thế gian.
Kết luận
Trong quá trình truyền bá của đạo phật sang bất cứ một khu vực nào trên thế giới, đạo phật đều phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt và sự chèn ép quyết liệt của các tôn giáo khác ở bản địa. Phật giáo thời kỳ đầu đến Nhật Bản cũng phải chịu chung số phận như vậy. Nhưng trong quá trình hội nhập và phát triển, đạo phật ở Nhật Bản đã có mối quan hệ tốt đẹp với các tôn giáo khác, người dân đã dần chấp nhận nó. Đó là sự hoà nhập đạo phật với đạo thần ở Nhật. Sự phân chia chức năng giữa đạo phật và đạo Shinto trong đời sống của người dân có thể coi là một biểu hiện của tính liên tục hài hoà. Đó là cái được coi như một đặc điểm của tôn giáo và văn hóa Nhật bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn thị thuỳ Anh “Tìm hiểu về đạo phật Nhật bản” tạp chí nghiên cứu Nhật bản số 5 tháng 10 năm 1999. Trung tâm nghiên cứu Nhật bản.
2. Pháp sư thánh nghiêm - Lịch sử phật giáo thế giới. Tập I - NXB - HN 1995.
3. Lược sử văn hoá Nhật bản tập I - II. NXB: Khoa học xã hội - HN 1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vh19-.doc