Tiểu luận Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững. Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc xây dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong Nghị quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín dụng thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng 7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển cao của kinh tế đối với nước ta. Em mạnh dạn chọn đề tài: ‘’Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam’’, bài viết đã song nhưng không thể nào tránh được những hạn chế và sai sót, rất mong sự quan tâm góp ý, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn. LỜI MỞ ĐẦU PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán 1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán 2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường 3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK 4. ưu và nhược điểm của TTCK PHẦN II: THỰC TRẠNG TTCK Ở VIỆT NAM I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam 1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế theo cơ chế TT. 2) Môi trường tăng trưởng kinh tế và nhu cầu đòi hỏi thành lập TTCK 3.Những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam 4. Tình hình hoạt động TTCK ở Việt Nam hiện nay PHẦN III: MỘT SỐ GP CHO SỰ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM. 1. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp 2. Giải pháp cần thiết cho sự phát triển của TT trái phiếu Chính phủ 3) Đẩy mạnh công tác đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới các công ty cổ phần Kết luận

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững. Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc xây dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong Nghị quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín dụng thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng 7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển cao của kinh tế đối với nước ta. Em mạnh dạn chọn đề tài: ‘’Giải pháp để phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam’’, bài viết đã song nhưng không thể nào tránh được những hạn chế và sai sót, rất mong sự quan tâm góp ý, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn. Sinh viên: Nông văn Lực Lớp: K41- 01.04 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán. 1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán. a. Khái niệm. Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến nay chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”. Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là “cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là chứng khoán giao dịch sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao đổi). Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được định nghĩa như sau: “An organized market Where Securities are Bought Sold undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi chứng khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra một định nghĩa nêu lên được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu (Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép của hai từ đồng nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh người ta dùng từ Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những phân tích trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng khoán” là bằng chứng giấy trắng mực đen về quyền sở hữu. Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa dạng hoá trong đời sống kinh tế. Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã thoát ly định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới. Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi 0ta nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào đó mà muốn hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của nó. b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK” Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất ra hàng hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người. Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường chứng khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay. Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động ...). Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau, hợp đồng mua bán, trao đổi. Không biết do sự phát triển của các thương gia hay hiệu quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày càng đông lên. Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và khoảng cách các phiên chợ ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần được tu bổ thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu được hình thành. Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên hệ thống vi tính các (yết giá liên tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu, không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao miệng. Các nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm cuối mạng vi tính. Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và giao dịch chứng khoán. Sau khi đã giao dịch thương lượng trên thị trường. + Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif, 1987 thị trường Monep. Các thị trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường giao ngay qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực sự trong thời đại mới. Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường. Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK là kênh bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố hạ tầng quan trọng nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì rất là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò chủ yếu sau: a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát triển què quặt. Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và người có vốn. Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng. b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh và có hiệu quả hơn. Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với nhà đầu tư khi đầu tư vốn. Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người này mong muốn đầu tư tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã tăng nguồn vốn vay dân. Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh. Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu việc sát nhập mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua TTCK. Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi nó sẽ bám vào tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN. c. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai. Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp người ta phải có phương pháp xác định cho từng tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá cả của chứng khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời chỉ số thị trường (market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói chung. Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó. Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức độ cổ tức mà các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp cho cổ đông của mình. Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ có doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển vọng trong tương lai. Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như chức năng TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát, TTCK đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen đầu tư... nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở tầm vi mô hay vĩ mô. 3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK a. Nguyên tắc hoạt động. Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động tuân theo các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc trung gian thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Trong đó có môi giới trung gian và thương gia chứng khoán. * Nguyên tắc đấu giá: mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc đấu giá. Vì vậy không phải bạn muốn mua là mua được ngay mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hiện nay có ba hình thức đấu giá cơ bản. + Đấu giá trực tiếp: các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau. Thông qua một trung gian (chuyên gia chứng khoán tại quầy giao dịch trong sân). + Đấu giá gián tiếp: là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau. + Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống Computer nối mạng giữa máy chủ và các cơ sở giao dịch với hệ máy và công ty chủ máy khoán thành viên. * Nguyên tắc công khai: là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán ra công chúng đều được công khai, như là các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh doanh của các công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên các phương tiện thông tin đại chúng. b) Điều kiện cho sự hình thành TTCK Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập được ngay. Mà muốn thành lập TTCK và hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo một số những điều kiện nhất định. * Điều kiện về cổ phần hoá có nền kinh tế ổn định rồi vấn đề tạo nguồn hàng cho thị trường. Gắn liền với lĩnh vực này là chương trình cổ phần hoá và việc phát hành trái phiếu công ty cũng như trái phiếu chính phủ. Để tạo môi trường cho cổ phần hoá chúng ta phải: xây dựng cơ sở dữ liệu để phân loại các doanh nghiệp Nhà nước, trên cơ sở đó quản lý và áp dụng hình thức cổ phần hoá cho từng loại hình. Xử lý vấn đề nợ tồn đọng, trên cơ sở nâng cao tài sản có của doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình cổ phần. Xây dựng hệ thống kế toán và đánh giá giá trị doanh nghiệp. * Điều kiện pháp lý: thị trường chứng khoán liên quan đến vấn đề sở hữu, quan hệ vay mượn và quan hệ kinh tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy có rất nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của TTCK. Do nhu cầu về vốn cao nên trong giai đoạn đầu TTCK hoạt động sẽ không có tổ chức nếu không có hệ thống pháp lí điều chỉnh kịp thời. Vì vậy xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho TTCK phát triển là tiêu đề duy trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư. Có nhiều văn bản pháp lí được xây dựng. + Luật /pháp lệnh nghị định về CK và TTCK. + Luật /nghị định về lưu giữ CK. + Luật/ nghị định về Uỷ ban CK quốc gia. + Quy định về niêm yết, giao dịch, quĩ đầu tư... Những văn bản gián tiếp tác động đến TTCK: + Luật dân sự + Luật thương mại. + Luật Thuế. + Luật doanh nghiệp. + Luật đầu tư. * Điều kiện kĩ thuật và tổ chức. Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây dựng một hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá thích hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch ban đầu, mặt khác tính được xu hướng mở rộng của thị trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển các tổ chức hoạt động trên thị trường. + Các công ty bảo hành phát hành CK. + Các công ty môi giới CK. + Các công ty giao dịch CK cho chính mình. + Các quĩ đầu tư. + tổ chức tư vấn. + Nhân viên giao dịch C/I. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đồng thời phát triển các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía các tổ chức CK các tổ chức KDCK. * Điều kiện về con người. Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của TTCK. Vì đây là một ngành mới, rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho TTCK, cần thực hiện trước khi thành lập TTCK khoảng ba năm các đối tượng cán bộ cần đào tạo. + Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại Ủy ban chứng khoán. + Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ trợ. + Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK. 4. Ưu và nhược điểm của TTCK. a. Những ưu điểm. + Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Nhờ TTCK mà đại đa số dân chúng đều có thể tha gia được và công cuộc đầu tư ít ỏi của mình làm cho vốn đầu tư sẽ sinh lời và lại làm cho kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư trong dân chúng. + Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn. Trước đây các đơn vị kinh doanh phụ thuộc lớn vào ngân này để có vốn kinh doanh. Ngày nay các đơn vị kinh doanh cũng như Nhà nước huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. + Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội về mặt kinh tế Nhà nước vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh. Vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền vào lưu thông. Tạo ra sức ép lạm phát thông qua TTCK việc phát hành trái phiếu hết sức thuận lợi. + TTCK là công cụ kiểm soát thu hút vốn đầu tư nước ngoài. TTCK là công cụ cho phép kiểm soát vốn ĐTNN tốt nhất vì nó hoạt động công khai. + TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Một khi việc đầu tư vào doanh nghiệp là có lợi cho tầng lớp dân từ thì qua TTCK các khoản tiết kiệm sẵn sàng từ bỏ bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư. + Thị trường CK là điều kiện cho quá trình cổ phần hoá: cổ phần hoá là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Đòi hỏi phải có TTCK, TTCK là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự pháp luật, phù hợp với tâm lý người đầu tư. + TTCK kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn: Nhờ TTCK các doanh nghiệp mới có thể đem bán phát hành cổ phiếu; trái phiếu của họ mà ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận cổ phiếu, trái phiếu hợp lệ: như kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh... dân chúng cũng mua cổ phiếu của công ty thành đạt. Vì vậy sẽ kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn. b. Những nhược điểm. Như đã nêu trên TTCK có vai trò tích cực trong huy động vốn song nó chỉ phát huy khi hoạt động tốt, đảm bảo lành mạnh cần thiết. Nhưng bên cạnh đó TTCK có nhiều mặt tiêu cực cần tránh để hạn chế thấp nhất những rủi ro tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó. + Yếu tố đầu cơ: yếu tố này làm ảnh hưởng dây truyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá cao giả tạo, điều này có thể dẫn đến sự khan hiếm hay thừa thãi làm cho giá cổ phiếu tăng giảm đột biến. + Mua bán nội gián: Đây là hiện tượng một cá nhân nào đó lợi dụng việc làm thu được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng giá cổ phiếu trên thị trường đó. + Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK luật về TTCK cũng đã hạn chế các nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán, vì nếu để việc này xảy ra sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không hề nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của đơn vị đó. Mọi sự mua bán ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác. PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam 1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế quản lý theo cơ chế thị trường Trong mấy chục năm qua khi nền kinh tế của nước ta đang ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế phát triển rất chậm, có thời gian rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, cùng với nạn lạm phát phi mã, cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn và đặc biệt là những khó khăn to lớn trong đời sống của nhân dân. Từ những yếu kém của cơ chế cũ đến năm 1986 Đảng và Nhà nước đã chuyển sang cơ chế mới : cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sau hơn 15 năm tồn tại và phát triển theo cơ chế này nền kinh tế đã có những biến đổi đáng mừng và đem lại một số thành quả quan trọng bước đầu. Theo cơ chế mới, các hình thức được đa dạng hoá, nền kinh tế trở thành nền kinh tế hỗn hợp có nhiều thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể... Cùng với nó trong nông nghiệp cũng có nhiều thay đổi, ruộng đất giờ đây đã trao cho các hộ gia đình sử dụng dài hạn. Nhờ đó mà lương thực thực phẩm không những đủ tiêu dùng trong nước mà còn có để xuất khẩu. Cụ thể là từ năm 1989 nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo và hiện nay đang đứng thứ 3 trên thế giới. Trong công nghiệp và dịch vụ Nhà nước đã giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp và doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả kinh doanh của mình. Do đó đã làm giảm sự mất cân đối giữa cung và cầu hàng hoá đồng thời Nhà nước thả nổi giá cho phép hình thành thị trường vàng và ngoại tệ, xoá bỏ hệ thống bao cấp giá. Việc làm này đã khống chế và làm giảm lạm phát từ đó đời sống nhân dân được cải thiện hơn. Đặc biệt mấy năm nay Nhà nước đã đưa ra một loạt chính sách thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có việc khuyến khích thành lập các công ty liên doanh, đưa ra bộ luật mới về đầu tư nước ngoài 12/1987. Ngoài ra còn ban hành các pháp lệnh về ngân hàng và luật về các công ty TNHH và công ty cổ phần nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Chính những thay đổi tích cực trên đã tạo nên một cơ sở để thành lập nên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Thực ra, chứng khoán đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam, đó là những công trái dài hạn, những trái phiếu ... được phát hành và thường áp đặt cho công chúng mua khi Nhà nước cần vốn để làm một việc lớn nào đó. Với lãi suất thấp giá trị đồng tiền không được bảo đảm và biện pháp hành chính thiếu hấp dẫn nên kết quả của chứng khoán không cao. Khi nền kinh tế có nhiều thành phần, khu vực kinh tế tư nhân được mở rộng, luật công ty ra đời. Theo đó các công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu, trái phiếuvà chúng trở thành những mặt hàng của thị trường chứng khoán. Nếu một TTCK được thành lập việc mua bán các mặt hàng trên sẽ dễ dàng hơn và do đó việc thu hút vốn sẽ thuận tiện hơn. Qua mấy năm đổi mới, nước ta đã đẩy lùi được lạm phát mà vẫn đạt được mức tăng trưởng tương đối cao. GDP tăng bình quân trong 5 năm 1991- 1995 là 8,2%, đặc biệt năm 1995 đạt 9,5%. Lạm phát giảm từ 67,1 năm 1991 xuống 14,4% năm 1994 và là 12,7% năm 1995. Với một đất nước kém phát triển như nước ta, việc phát triển kinh tế trong hoàn cảnh lạm phát cao và đang trong thời kì quá độ như lúc này là rất khó khăn. Sự tăng trưởng phát triển đồng nghĩa với quá trình CNH- HĐH đất nước. 2) Môi trường tăng trưởng kinh tế và nhu cầu đòi hỏi thành lập TTCK a- Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển kinh tế Ngày nay phát triển kinh tế đã trở thành một thách thức thường xuyên đối với một quốc gia, một dân tộc. Phát triển nhanh hay chậm trong điều kiện bùng nổ dân số không chỉ đem lại sự giàu có thịnh vượng hay nghèo nàn lạc hậu mà còn củng cố, nâng cao hoặc làm xói mòn, hạ thấp vị trí và vai trò của một nước trong cộng đồng quốc tế. Quy luật của phát triển là: các nguồn tiết kiệm, tích luỹ trong xã hội phải được huy động, tập trung hầu hết vào lĩnh vực đầu tư nhanh, nhiều, đều đặn thì nền kinh tế đất nước sẽ phát triển với tốc độ cao. Bắt đầu từ tiết kiệm chuyển sang đầu tư tạo nên sự phát triển rồi trở lại tiết kiệm được nhiều hơn, chuyển sang đầu tư lớn hơn tạo nên tốc độ phát triển cao hơn... b- Tiết kiệm- nguồn gốc của đầu tư Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhanh khi có đủ vốn đầu tư và tốc độ tăng của lượng vốn đầu tư hăng năm lớn gấp ba, bốn lần tốc độ tăng của tổng sản phẩm quốc dân(GDP). Tiết kiệm là nguồn gốc sản sinh ra đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào hai nhân tố: qui mô tiết kiệm lớn hay nhỏ và khả năng huy động tập trung các nguồn tiết kiệm chuyển giao vào đầu tư cao hay thấp. Nhưng qui mô của đầu tư lại phụ thuộc vào qui mô và hiệu số giữa thu nhập và chi tiêu thì qui mô của thu nhập tăng nhanh hơn chi tiêu thì qui mô tiết kiệm tăng và ngược lại qui mô tiết kiệm giảm. Điều này thể hiện rõ trong kinh tế vĩ mô qua công thức : S = Yd - C Trong đó : S là qui mô tiết kiệm Yd là thu nhập thoả dụng C là qui mô tiêu dùng Trên thế giới hầu hết các nước đều xem tiết kiệm là nguồn đầu tư chính và tiết kiệm là một quốc sách. Với việc làm này Nhật Bản đã đạt được thành công to lớn. Mỗi năm nhân dân Nhật Bản tiết kiệm 20% thu nhập của mình dùng để đầu tư và gần 50 sau đại chiến thế giới thứ hai Nhật đã trở thành nước công nghiệp hiện đại nhất nhì thế giới. Nguồn tiết kiệm của cả nước gọi là tổng tiết kiệm và nó bao gồm: Nguồn tiết kiệm trong dân cư Nguồn tiết kiệm trong các doanh nghiệp Nguồn tiết kiệm của Chính Phủ Nhưng trong ba nguồn này thì nguồn tiết kiệm trong dân cư là lớn nhất. Nó là nguồn vốn cơ bản để phát triển đầu tư tạo lợi nhuận. Có đủ vốn đầu tư và sử dụng nó có hiệu quả sẽ dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Lãng phí vốn đầu tư là loại lãng phí lớn nhất của một nền kinh tế, là hoạt động làm xói mòn hiệu quả của tiết kiệm, làm hạn chế một phần tốc độ tăng trưởng kinh tế. c- Vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư ngoài nước Tổng nguồn vốn đầu tư do hai nguồn cung ứng là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước . Nếu sử dụng nguồn vốn trong nước thì sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư kiềm chế lạm phát, không bị tác đông bởi sự biến động của thị trường vốn quốc tế, không phải trả lợi tức bằng ngoại tệ, không bị người nước ngoài bóc lột và bị chuyển lợi nhuận bằng ngoại tệ về nước họ; toàn bộ tài sản tăng lên đều của nước mình. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoài nước có tác dụng nhanh chóng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế . 3. Những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam a. Những thuận lợi Năm 1986 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên tiền đề để hình thành một thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước. Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong mấy năm qua khá khả quan, lạm phát được giảm xuống còn 17,2% năm 1992 và 5,2% năm 1993, ổn định kinh tế đi đôi với tăng trưởng, đầu tư nước ngoài lên tới gần 15 tỷ đô la... thì ý tưởng hình thành một thị trường chứng khoán ở Việt Nam là có thể khả thi trong một tương lai gần . Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích luỹ của mình. Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút ra kinh nghiệm bổ sung những khiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước. Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra đời một thị trường chứng khoán ở nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh ngân hàng (điều 32 và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân hàng phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng 8/92 Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ “Để chuẩn bị việc cho ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam mà hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề, các nội dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm triển khai và các bước triển khai “ . b. Những khó khăn Nền kinh tế chưa thật ổn định, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở, chưa đẩy lùi được nạn tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối. Về môi trường pháp lý, hệ thống pháp luật của chúng ta những năm nay tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu, chưa đồng bộ và kém hiệu lực . Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán như: luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được sửa đổi, bổ sung. Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin. Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán. 4. Tình hình hoạt động TTCK ở Việt Nam hiện nay. TTCK đã ra đời từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ. Tuy nhiên để Việt nam có thể hoà vào cùng với sự phát triển của thế giới và tạo đà thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển chúng ta phải cố gắng để xây dựng nên một TTCK. Đây là một công việc rất khó khăn đòi hỏi sự cố gắng, quyết tâm của nhiều ban ngành cũng như của các cấp lãnh đạo. Sau ba tháng ráo ríêt chuẩn bị, một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa trong đời sống kinh tế chính trị của nước ta đó là việc khai trương TTCK đầu tiên của nước ta ngày 20/ 7/ 2000. a) Về các doanh nghiệp tham gia vào TTCK Tại thời điểm thành lập, nước ta có 600 công ty cổ phần, trong đó có 60 công ty đủ điều kiện niêm yết trên TTCK nhưng chỉ có 5 công ty tham gia niêm yết. Hiện nay đã có sự biến đổi nhưng chưa đáng kể đã có tới 660 công ty cổ phần trong đó có 80 công ty có đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết nhưng số lượng các công ty tham gia niêm yết vẫn chỉ dừng lại ở con số 5 gồm : Hpaco, REE, SAM, Lafooco và TMS. Với cầu cổ phiếu từ lúc đầu và sau khi thành lập tăng nhanh nhưng số công ty tham gia niêm yết ít nên hàng hoá trên TTCK thiếu rất nhiều, cung không đáp ứng đủ cầu. Để giúp cho TTCK hoạt động sôi động và có hiệu quả, Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi về thuế, phí... nhằm kích thích sự tham gia niêm yết của các công ty cổ phần. Tuy nhiên, cho đến nay những chính sách ấy vẫn chưa có hiệu quả, thể hiện ở chỗ số lượng các công ty tham gia niêm yết vẫn chưa tăng thêm. Vậy vì sao các công ty chưa tham gia niêm yết? Một thực tế cho thấy qua khảo sát có tới 62% các công ty chưa có ý định hoặc chưa đủ điều kiện tham gia trên TTCK. Nguyên nhân chủ yếu là do các công ty chưa nhận thức được dầy đủ lợi ích của việc niêm yết chứng khoán trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, thiếu hụt các kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ tiền tệ ngân hàng và chứng khoán. Trong 100 doanh nghiệp được khảo sát có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Nhiều khả năng có thể họ chỉ tham gia dưới hình thức phát hành cổ phiếu chứ không thành lập công ty chứng khoán. Khi được hỏi về mục đích tham gia TTCK thì 38 doanh nghiệp đều có chung mục đích là nhằm đa dạng hoá hoạt động của công ty, tạo chỗ đứng trên TTCK, sử dụng tốt nguồn vốn và kinh doanh chứng khoán để kiếm lời. Một số rất ít các công ty có mục tiêu thành lập quỹ đầu tư chứng khoán và có công ty tham gia để thực hiện nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNNN trên địa bàn tỉnh như công ty XNK tỉnh Bình Dương. 35 doanh nghiệp phản ánh những vướng mắc kiến thức về TTCK, chỉ có 5 trong số 38 công ty đã từng hoạt động trong lĩnh vực tài chính, 10 công ty có đội ngũ cán bộ am hiểu về tài chính, tiền tệ, ngân hàng và 7 doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên được đào tạo về lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Còn về dự kiến mô hình công ty chứng khoán và các hoạt động kinh doanh chứng khoán thì cả 38 doanh nghiệp đều băn khoăn không biết thành lập theo mô hình nào cho phù hợp. Sau khi được các điều tra viên giải thích thì hầu hết đều muốn thành lập theo mô hình công ty cổ phần vì khả năng huy động vốn của loại hình công ty này cao, phù hợp với tính năng động của cơ chế thị trường. Tỷ lệ cụ thể là: + Công ty cổ phần: 28 DN + Công ty TNHH: 8 DN + Công ty liên doanh: 2 DN + Công ty trực thuộc : không có + Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán: không có Trong năm hình thức hoạt động hầu hết các doanh nghiệp xin hoạt động môi giới sau đó tới tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, hai nhiệm vụ còn lại là tư doanh và bảo lãnh phát hành thì rất ít các doanh nghiệp xin hoạt động vì vốn pháp định của những hoạt động này thì khá cao so với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Tỷ lệ hoạt động cụ thể như sau: + Môi giới : 36 DN + Tư doanh: 13 DN + Bảo lãnh phát hành : 4 DN + Tư vấn đầu tư : 35 DN + Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán : 19 DN Như vậy cần có biện pháp điều chỉnh để tỷ lệ này được cân đối, giúp cho hoạt động kinh doanh trên TTCK được đầy đủ và trọn vẹn hơn. b. Về chủng loại hàng hoá trên thị trường Phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/ 7/ 2000 chỉ có 2 loại cổ phiếu được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán thành phố HCM là cổ phiếu của công ty cơ điện lạnh REE và Công ty cáp và vật liệu viễn thông SACOM. Đến phiên giao dịch thứ 4 có thêm 3 loại chứng khoán nữa là cổ phiếu của công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO), công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương (TRANSIMEX) và trái phiếu Chính phủ CP1- 0200 và tiếp đến phiên giao dịch thứ 12 lại đưa tiếp trái phiếu Chính phủ CP1- 0100 vào giao dịch và đến phiên thứ 34 thì có CP1A- 0100 nhưng không có người mua và người bán loại trái phiếu này. Đến tháng 11, kể cả trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển đã được cấp giấy phép niêm yết. Nhìn chung ngay từ đầu chủng loại hàng hoá rất ít ỏi và kéo dài cho đến tận bây giờ. c. Khối lượng từng chủng loại hàng hoá được giao dịch Tính đến đầu tháng 11/ 2000, TTCK Việt Nam đạt được tổng số giá trị giao dịch vào khoảng hơn 40 tỷ VND, một con số rất khiêm tốn chỉ bằng 1/10 của một ngày giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán Takarta. Điều này có thể lý giải được là do hàng hoá giao dịch trên TTCK Việt Nam đã ít về chủng loại lại còn ít về số lượng mỗi loại. Tình trạng này đã gây nên mất cân đối cung cầu một cách nghiêm trọng. Diễn biến của thị trường cho thấy khối lượng chứng khoán được giao dịch có tăng nhưng một số loại chứng khoán thì giao dịch nhỏ giọt, thậm chí chỉ được giao dịch sau một phiên rồi mất bóng suốt 19 phiên sau đó mới trở lại nhưng với khối lượng giao dịch rất nhỏ (như TM15). Có một số nguyên nhân khác nhau về số lượng trái phiếu chính phủ được giao dịch với số lượng thấp là: Tâm lý người đầu tư cho rằng cổ phiếu thì được hưởng lợi tức cao hơn so với khoản lợi tức mà trái phiếu mang lại; thiếu thông tin về cách xác định giá trái phiếu; mức phí giao dịch trái phiếu được đánh giá là khá cao và lãi suất trái phiếu chưa hấp dẫn . Tính đến tháng 4/2001 TTGDCK TPHCM đã tổ chức 5 đợt đấu thầu trái phiếu cổ phần (TPCP) và 1 đợt bảo lãnh phát hành nhưng chỉ có 2 đợt đấu thầu đầu tiên là thành công với tổng khối lượng trúng thầu là 600 tỷ đồng và 1 đợt bảo lãnh phát hành với khối lượng 500 tỷ đồng. Cho đến nay sự hưởng ứng của công chúng trong đầu tư vào TPCP vẫn không có gì biến đổi so với hồi tháng 11/2000, điều này chứng tỏ tính thanh khoản của TPCP trong thời gian vừa qua có nhiều hạn chế . Đến nay khối lượng hàng hoá trên thị trường bắt đầu đã tăng lên và có hy vọng sẽ giảm tốt sức ép về cung hàng hoá trên thị trường vì các công ty đang bắt đầu bán ra với số lượng lớn hơn. Giá cả một vài cổ phiếu bắt đầu chững lại ở mức 38000 đến 41000 đ/CP như cổ phiếu REE và SAM. Ngược lại giá cổ phiếu của HAP, TMS và LAF vẫn tăng với kịch bản giá đụng trần sau mỗi phiên giao dịch. Tại phiên giao dịch cuối cùng của tháng 3, giá của cổ phiếu HAP là 71000đ/CP, 64000đ/CP cho TMS và 32600đ/CP cho LAF. Hiện nay rất khó đoán trước giá của chúng sẽ tăng tới mức nào. Nhìn chung, TTCK hiện nay đã có nhiều biến động, giá cả của một số loại cổ phiếu tăng nhanh nhưng cũng có loại chững lại và khoảng cách chênh lệch giá cổ phiếu của các loại cũng rất lớn. Chỉ số Việt Nam- index vẫn tiếp tục tăng tới mức cao nhất từ trước đến nay vào cuối tháng 3 và dự đoán sẽ còn tăng nữa. PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM TTCK Việt Nam đang được phát triển trong điều kiện còn chưa đầy đủ nền tảng cơ sở hạ tầng, thiếu kiến thức kinh nghiệm và chưa đạt được độ tin cậy cao từ phía nhà đầu tư. Để phát triển TTCK ta cần thực hiện một số biện pháp sau: 1. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp Trái phiếu và cổ phiếu công ty là những loại chứng khoán khá phổ biến trên thị trường đồng thời chúng cũng được xác định là nguồn hàng chính cho thị trường. Nhưng thực tế hiện nay tiến trình cổ phần hoá còn chậm, chất lượng kém nên phần lớn các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để phát hành ra công chúng đồng thời sự yếu kém của hệ thống pháp luật cũng chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành chứng khoán. Do đó ta cần có một số biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, nâng cao chất lượng của các công ty cổ phần hoá: - Đơn giản hoá các điều kiện phát hành, niêm yết chứng khoán cho phù hợp với điều kiện Việt Nam - Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá và nâng cao chất lượng doanh nghiệp cổ phần hoá - Cần điều chỉnh chính sách cấp phát vốn ngân sách Nhà nước đối với các DNNN, mở rộng quyền làm chủ tài chính doanh nghiệp - Cần có các chính sách khuyến khích thành lập mới cho các công ty cổ phần bởi đây là loại hình công ty cung cấp chủ lực hàng hoá chứng khoán cho thị trường. - Có các giải pháp cho tình trạng chênh lệch cung cầu trên thị trường hiện nay. 2. Giải pháp cần thiết cho sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ Trái phiếu chính phủ là một trong 2 loại hàng hoá chính của thị trường chứng khoán bên cạnh cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp - Cần chuẩn hoá mọi điều kiện kỹ thuật của trái phiếu như thống nhất chủ thể phát hành là Bộ tài chính; tổ chức phát hành nên thông qua một số tổ hợp phân phối chứng khoán, nhằm tạo ra sự thống nhất trong thời hạn đáo hạn của trái phiếu chứ không nên trực tiếp phát hành riêng lẻ như hiện nay, qua đó dễ dàng đưa các trái phiếu vào niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. - Cần đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu ra công chúng với nhiều loại thời hạn khác nhau: 1, 3, 5, 10, 15, 20 năm trong đó có điều khoản khuyến khích đối với các trái phiếu có thời gian đáo hạn tương đối dài (10- 20 năm) - Mệnh giá nên phát hành đồng nhất và không nên đưa ra mệnh giá quá lớn. Cần mạnh dạn phát hành trái phiếu công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực thuộc kỹ thuật công nghệ cao ra thị trường vốn quốc tế. - Cần có chính sách lãi suất hợp lý, cũng cần có chính sách miễn giảm thuế đối với trái phiếu chính phủ cũng như trái phiếu doanh nghiệp theo từng thời điểm. Cũng cần có chính sách miễn giảm thuế đối với trái phiếu Chính phủ đối với các nhà đầu tư có tổ chức (hiện tại thuế thu nhập từ trái phiếu đối với các cá nhân đã được miễn). 3) Đẩy mạnh công tác đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới các công ty cổ phần - Cần đẩy mạnh đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước thông qua các biện pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư và thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước hiện có phù hợp với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. - Điều chỉnh việc đầu tư thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước theo hướng vốn ngân sách chỉ đầu tư cho những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, công ích và hỗ trợ một phần cho phát triển công nghệ cao. Vốn tín dụng ưu đãi chỉ nên áp dụng cho những dự án thuộc diện được khuyến khích theo luật đầu tư trong nước. Các hoạt động thuần tuý khác đều phải sử dụng nguồn vốn tín dụng thông thường và thông qua phát hành trái phiếu ra công chúng dưới sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế có uy tín. KẾT LUẬN Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp nhưng hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó giúp giảm bớt “phí tổn trung gian” tạo điều kiện cho người đi vay và người cho vay lựa chọn cách đầu tư sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất đồng thời cũng là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết và phát triển nền kinh tế. Nhờ những ưu việt vượt trội đó, TTCK được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế giới. Nước ta nói riêng và các nước đang trong xu hướng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nói chung nhu cầu vốn là rất lớn và rất khó huy động. Nhưng nhờ hoạt động phát hành chứng khoán, người lao động cảm thấy mình thật sự là chủ nhân, cảm thấy được bình đẳng do đó họ cố gắng dốc hết sức lực và tiền của để phát triển đơn vị, xí nghiệp của mình. Tóm lại nhu cầu vốn để xây dựng và phát triển đất nước đã đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng và phát triển TTCK. Quá trình hình thành TTCK ở nước ta đã phát sinh nhiều yếu tố tác động nên quá trình ấy có thể nhanh hơn hay chậm hơn và từng bước có thể được điều chỉnh khác đi, song những điều kiện cơ bản và tiên quyết cho việc hình thành TTCK và thị trường vốn dứt khoát phải có chương trình triển khai được xây dựng trên cơ sở kế hoạch có tính đến điều kiện khu vực và quốc tế, đồng thời phải kiên quyết và dứt điểm trong triển khai thực hiện. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán- Kinh nghiệm của các nước trên thế giới Bộ tài chính- 1993 2. Hướng tới một thị trường chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam Trần Du Lịch 3. Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và môi giới chứng khoán NXB Thế giới- HN 1993 4. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam PTS. Nguyễn Văn Luân PTS. Trần Quốc Tuấn PTS. Ngô Minh Châu (NXB Thống kê) 5. Thời báo kinh tế Việt Nam 6. Công báo 7. Tạp chí thương mại 8. Tạp chí ngân hàng 9. Đầu tư chứng khoán 10. Thị trường tài chính tiền tệ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….1 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG……………………………………………2 I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán………………………..2 1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán..…2 2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường………………………………..4 3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK……………7 4. ưu và nhược điểm của TTCK………………………………………………10 PHẦN II: THỰC TRẠNG TTCK Ở VIỆT NAM………………………….13 I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam……………13 1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế theo cơ chế TT.13 2) Môi trường tăng trưởng kinh tế và nhu cầu đòi hỏi thành lập TTCK……14 3.Những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam ………………………16 4. Tình hình hoạt động TTCK ở Việt Nam hiện nay………………………..18 PHẦN III: MỘT SỐ GP CHO SỰ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM.22 1. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp………22 2. Giải pháp cần thiết cho sự phát triển của TT trái phiếu Chính phủ……22 3) Đẩy mạnh công tác đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới các công ty cổ phần………………………………………………….23 Kết luận……………………………………………………………24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA152(chungkhoan).doc
Tài liệu liên quan