LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường nước ta được điều hành bằng một hệ thống pháp luật đồng bộ dân chủ và công khai. Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính hoàn chỉnh sẽ là những công cụ điều chỉnh có hiệu lực các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng trước mắt và lâu dài của đất nước, với những quyết định đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Sự can thiệp có giới hạn của nhà nước không cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Trong khuôn khổ pháp luật, mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng trong sản xuất kinh doanh (trừ lĩnh vực nhà nước cấm). Các yếu tố thị trường quốc dân hoà nhập với thị trường quốc tế, biết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra thị trường đa dạng, phong phú. Bên cạnh mặt tích cực thuận lợi cho việc phát triển kinh tế do cơ chế thị trường, còn nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Tình hình đó, yêu cầu phải có sự điều tiết mạnh mẽ của nhà nước để sử dụng và phát huy mặt tích cực như một động lực trong công cuộc đổi mới, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Vấn đề cần được quan tâm giải quyết là nhà nước phải có một "chính sách" mang tầm cỡ chiến lược đồng bộ và toàn diện nhằm phát huy tốt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là về tài chính - tiền tệ. Trong đó, thuế là một trong những công cụ có hiệu quả chủ yếu để thực hiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn liền với yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong cơ chế thị trường.
Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay, nhất là chủ trương " công nghiệp hoá - hiện đại hoá" để đất nước tạo ra sự chuyển biến to lớn. Nhà nước ta tiến hành cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế và thuế GTGT được ban hành và đưa vào thực hiện thay cho thuế doanh thu trước đây nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu, đồng thời đưa vào sử dụng một hình thức thuế hiện đaị phù hợp với đặc điểm cơ chế thị trường hiện nay và thông lệ quốc tế. Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến của hình thức thuế, thể hiện được vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. Mức độ thành công trong việc áp dụng luật thuế mới này như thế nào tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng và thực tế ở mỗi nước.
Xung quanh việc áp dụng VAT, vào Việt Nam còn rất nhiều băn khoăn, khúc mắc từ giá, thuế suất, hay là khấu trừ thuế Ngoài những thành công đã đạt được. Ta cần nghiên cứu sâu những khó khăn, khúc mắc tìm ra nguyên nhân để từ đó có những giải pháp, hướng khắc phục nhằm hoàn thiện hơn luật thuế GTGT, đồng thời nhằm đạt hiệu quả cao trong khi áp dụng luật thuế này.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải pháp hoàn thiện và đưa luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam vào cuộc sống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục.
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG
2
I. Luật thuế giá trị gia tăng.
2
1.Khái niệm.
2
2.đặc điểm của pháp luật thuế giá trị gia tăng.
2
II. Nội dung pháp luật thuế giá tri gia tăng.
2
1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế giá trị gia tăng.
2
2. Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng.
3
3. Phương pháp tính thuế.
4
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện luật thuế GTGT ở Việt Nam:
5
1. Về chính sách:
5
2. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế:
10
3. Những nguyên nhân khác:
11
IV. Một số giải pháp hoàn thiện và đưa luật thuế GTGT ở Việt Nam vào cuộc sống.
11
1. Hoàn thiện về cơ chế chính sách.
11
2. Cải cách hành chính thuế.
13
3. Củng cố bộ máy tổ chức ngành thuế
13
4. Về cách thức tổ chức thực hiện thuế GTGT:
14
KẾT LUẬN
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường nước ta được điều hành bằng một hệ thống pháp luật đồng bộ dân chủ và công khai. Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính hoàn chỉnh sẽ là những công cụ điều chỉnh có hiệu lực các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng trước mắt và lâu dài của đất nước, với những quyết định đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Sự can thiệp có giới hạn của nhà nước không cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Trong khuôn khổ pháp luật, mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng trong sản xuất kinh doanh (trừ lĩnh vực nhà nước cấm). Các yếu tố thị trường quốc dân hoà nhập với thị trường quốc tế, biết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra thị trường đa dạng, phong phú. Bên cạnh mặt tích cực thuận lợi cho việc phát triển kinh tế do cơ chế thị trường, còn nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Tình hình đó, yêu cầu phải có sự điều tiết mạnh mẽ của nhà nước để sử dụng và phát huy mặt tích cực như một động lực trong công cuộc đổi mới, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Vấn đề cần được quan tâm giải quyết là nhà nước phải có một "chính sách" mang tầm cỡ chiến lược đồng bộ và toàn diện nhằm phát huy tốt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là về tài chính - tiền tệ. Trong đó, thuế là một trong những công cụ có hiệu quả chủ yếu để thực hiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn liền với yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong cơ chế thị trường.
Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay, nhất là chủ trương " công nghiệp hoá - hiện đại hoá" để đất nước tạo ra sự chuyển biến to lớn. Nhà nước ta tiến hành cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế và thuế GTGT được ban hành và đưa vào thực hiện thay cho thuế doanh thu trước đây nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu, đồng thời đưa vào sử dụng một hình thức thuế hiện đaị phù hợp với đặc điểm cơ chế thị trường hiện nay và thông lệ quốc tế. Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến của hình thức thuế, thể hiện được vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. Mức độ thành công trong việc áp dụng luật thuế mới này như thế nào tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng và thực tế ở mỗi nước.
Xung quanh việc áp dụng VAT, vào Việt Nam còn rất nhiều băn khoăn, khúc mắc từ giá, thuế suất, hay là khấu trừ thuế… Ngoài những thành công đã đạt được. Ta cần nghiên cứu sâu những khó khăn, khúc mắc tìm ra nguyên nhân để từ đó có những giải pháp, hướng khắc phục nhằm hoàn thiện hơn luật thuế GTGT, đồng thời nhằm đạt hiệu quả cao trong khi áp dụng luật thuế này.
NỘI DUNG
I. Luật thuế giá trị gia tăng.
1.Khái niệm.
Pháp luật thuế giá trị gia tăng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng kí, kê khai, nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế giá trị gia tăng.
2.đặc điểm của pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Pháp luật thuế giá trị gia tăng có hai đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật thuế giá trị gia tăng có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng trong xã hội. Xuất phát từ nội dung được pháp luật điều chỉnh cho thấy pháp luật thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống. Phạm vi áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng có tính phổ biến so với pháp luật tiêu dùng khác.
Thứ hai, pháp luật thuế giá trị gia tăng chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện ở đây chủ yếu là các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quả lý, thu thuế giá trị gia tăng. Điều này lý giải việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng ở một quốc gia cần phải được xem xét đến nhiều yếu tố; một số trường hợp, việc ban hành Luật thuế giá trị gia tăng kèm theo đó là khoảng thời gian dài, đủ hội tụ điều kiện áp dụng.
II. Nội dung pháp luật thuế giá tri gia tăng.
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng.
Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng được quy định tại điều 4 luật thuế giá trị gia tăng: “Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).” Với quy định này và những quy định có liên quan đến đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng được ghi nhận tại điều luật khác, việc xác định điều kiện cần và đủ cho một chủ thể nằm trong diện nộp thuế giá trị gia tăng là hoàn toàn càn thiết.
Hàng hóa, dịch vụ muốn trở thành đối tượng phải chịu thuế giá trị gia tăng thì phải thuộc đối tượng trong điều 3 Luật thuế giá trị gia tăng 2008: “Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này.” Như vậy trong luật có quy định những nhóm hàng hóa không phải chịu thuế giá trị gia tăng, trong điều 5 luật thuế giá trị gia tăng có quy định 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Các quốc gia hiện nay đều đánh thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Việc đánh thuế như vậy tạo sự bình đẳng giữa hàng hóa, dịch vụ trong nước và nhập khẩu, mặc dù, trong chừng mực nhất định, có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu.
1.2. Cơ quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng.
Xuất phát từ đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng nên cơ quan quản lý thuế cũng liên quan đến hai lĩnh vực chủ yếu: sản xuất, kinh doanh trong nước và hoạt động nhập khẩu hàng hóa dịch vụ.
- Cơ quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Pháp luật hiện hành quy định hệ thống cơ quan thuế địa phương tổ chức quản lý, thu thuế giá trị gia tăng đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng thường xuyên.
- Cơ quan hải quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng đối với các chủ thể có hàng hóa nhập khẩu vào thị trường VIỆT NAM. Tương tự như hệ thống cơ quan thuế, hai quan địa phương thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động chuyển dịch hàng hóa qua biên giới, xác định các khoản thu đối với hàng hóa nhập khẩu, trong đó có thuế giá trị gia tăng.
Việc phân giao nhiệm vụ cụ thể cho hai cơ quan như vậy đã tạo ra sự chuyên môn hóa đối với hoạt động quản lý, thu thuế giá trị gia tăng, giúp giảm thất thoát nguồn thu.
2. Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng.
2.1 Giá tính thuế giá trị gia tăng.
Pháp luật thuế giá trị gia tăng VIỆT NAM quy định giá tính thuế giá trị gia tăng là giá chưa có thuế giá trị gia tăng, vấn đề này được quy định rõ tại điều 17 luật thuế giá trị gia tăng. Có quy định giá tính thuế đối với hoạt động kinh doanh phổ biến và hoạt động kinh doanh đặc thù.
Đối với hoạt động kinh doanh phổ biến, giá tính thuế hàng hóa dịch vụ chịu thuế là giá chưa có thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ đó. Trường hợp, hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, giá tính thuế giá trị gia tăng là giá đã có thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các loại thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng (thuế nhập khẩu kể cả các khoản phụ thu áp dunhj đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu nhập khẩu).
Đối với hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ dưới dạng đặc thù như cho thuê tài sản, gia công hàng hóa, xây dựng … tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy định chi tiết về giá tính thuế giá trị gia tăng.
2.2. Thuế suất.
Thuế giá trị gia tăng có phạm vi tác động rất rộng, ảnh hưởng rất lớn đến giá cả, dịch vụ. Vì vậy, thuế suất thuế giá trị gia tăng thường thấp.Thuế suất thuế giá trị gia tăng có ba mức: 0%, 5%, 10% cụ thể, được quy định cụ thể tại điều 8 luật thuế giá trị gia tăng.
Lưu ý đối với mức thuế suất 0%:
+ Khuyến khích hoạt động xuất khẩu do được hoàn thuế.
+ Kiểm soát hoạt động xuất khẩu nói chung và số lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nói riêng.
+ Hạ giá thành hàng hóa, dịch vụ, giúp hàng hóa Việt Nam dễ cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
3. Phương pháp tính thuế.
Tại điều 9 luật thuế giá trị gia tăng có quy định: “Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng gồm phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.” Như vậy sẽ có hai phương pháp tính thuế đó phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp.
3.1. Phương pháp khấu trừ thuế.
Xem xét quy định tại điều 10 luật thuế giá trị gia tăng, ta có công thức tính như sau:
Số thuế Giá trị gia tăng phải nộp
=
Thuế Giá trị gia tăng đầu ra
-
Thuế Giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ
Trong đó:
- Thuế Giá trị gia tăng đầu ra = (giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra) x (thuế suất thuế Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đó).
- Thuế Giá trị gia tăng đầu vào = tổng số thuế Giá trị gia tăng ghi trên hoá đơn Giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng, số thuế Giá trị gia tăng ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế Giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Điều kiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ: căn cứ vào phương pháp tính thuế, cơ sở kinh doanh muốn nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải chứng minh được số thuế giá trị gia tăng đầu vào và số thuế giá trị gia tăng đầu ra. Nếu cơ sở không chứng minh được thì không có căn cứ để khấu trừ thuế. Để chứng minh được số thuế giá trị gia tăng đầu vào và số thuế giá trị gia tăng đầu ra, cơ sở kinh doanh phải sử dụng đầy đủ hệ thống hóa đơn, chứng từ thanh toán theo quy định thống nhất của Bộ Tài chính. Vì nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ là phương pháp mang lại lợi ích nhất cho đối tượng nộp thuế nên thông qua đó, nhà nước khuyến khích các cơ sở kinh doanh sử dụng đầy đủ hệ thống hóa đơn chứng từ, góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp nhà nước kiểm soát được giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đang lưu thông trên thị trường. Vì vậy tại khoản 2 điều 10 Luật thuế GTGT quy định: “Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế”.
3.2. Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm.
Xác định thuế Giá trị gia tăng theo điều 11 luật thuế giá trị gia tăng phải nộp:
Số thuế Giá trị gia tăng
phải nộp
=
Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra
x
Thuế suất thuế Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đó
Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ
=
Doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra
-
Giá vốn của hàng hóa, dịch vụ bán ra
- Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra là giá thực tế mua, bán ghi trên hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên bán được hưởng.
- Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào bao gồm cả thuế giá trị gia tăng đã dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng bán ra.
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện luật thuế GTGT ở Việt Nam:
1. Về chính sách:
1.1. Đối tượng chịu thuế:
Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế gián thu điển hình mang tính trung lập cao. Tại mỗi khâu của quá trình sản xuất, khoản thuế phải nộp được chuyển sang khâu tiếp theo cho đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nó không ảnh hưởng gì đến quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên lý thuyết thì như vậy, vì nếu như các khâu này bị đứt đoạn tức là có trường hợp nào đó được liệt vào đối tượng không chịu thuế GTGT thì ưu điểm tránh đánh thuế trùng lắp không còn ý nghĩa nữa. Lúc này doanh nghiệp không phải kê khai nộp thuế đầu ra nhưng cũng không kê khai khấu trừ thuế đầu vào. Điều đó khiến cho việc dự đoán những tác động của thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vì thế các đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ nên giới hạn trong một số ít các trường hợp.
Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó là thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế đối với mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được thông thóang mà còn gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.
Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế GTGT thì Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Về thuế suất:
Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống chính sách thuế thường chú trọng nhiều đến mục tiêu tài chính (do áp lực của việc thoã mãn nhu cầu chi ngân sách nhà nước) và mục tiêu kinh tế (do yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới). Mục tiêu xã hội lại được thực hiện bằng cách lồng ghép trong chính sách thuế làm mất đi tính trung lập. Tính công bằng thực hiện tương đối ổn định giữa các thành phần kinh tế trong nước nhưng lại thường không ổn định khi thực hiện giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (do hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm). Vì vậy chính sách thuế thường xuyên thay đổi về thuế suất, hệ thống thuế suất khá phức tạp.
Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ thống nhiều mức thuế suất này.
Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể…
Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất. Giữa các khâu của quá trình sản xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng nộp thuế bị phân biệt đối xử. Chính vì lý do như vậy mà khi doanh nghiệp xác định hướng sản xuất kinh doanh của mình phải hao tốn thêm một lượng chi phí để xây dựng chiến lược mặt hàng, tính toán thuế cho từng sản phẩm, từng giai đoạn.
1.3. Phương pháp tính thuế:
Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng lắp, chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng 2 phương pháp tính thuế dẫn đến hai "sân chơi", không đảm bảo công bằng giữa đối tượng nộp thuế theo 2 phương pháp khác nhau.
Thực ra khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những hạn chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá đã có thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không công bằng giữa các địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ thuế suất riêng không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của thuế GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm đến tỷ lệ GTGT trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải nộp.
Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện tượng trùng thuế vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của phương pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế GTGT, trong trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến) thì phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam: Hiện nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, số thuế GTGT nộp của đối tượng này chỉ chiếm gần 20% tổng số thu về thuế GTGT. Và đây cũng là biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn không tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.
1.4. Chế độ hóa đơn chứng từ:
Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định số 89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn nảy sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
1.5. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT:
Dù đã qua một thời gian thực hiện không phải là ngắn nhưng những bất cập về khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT vẫn đang được rất nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm.
Thứ nhất là vấn đề khấu trừ thuế. Trước đây vẫn tồn tại một số điểm có quy định trái ngược nhau làm cho đối tượng nộp thuế không biết phải làm như thế nào. Luật thuế GTGT hiện hành đã cố gắng khắc phục những tồn tại đó.
Thứ hai là vấn đề kê khai và hoàn thuế GTGT. Do là một luật thuế mới được áp dụng tại Việt Nam nên để tránh cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, luật thuế GTGT đã có một số quy định về kê khai và hoàn thuế:
Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực ra là tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà nước. Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu nhưng vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này.
Hoàn thuế là một thuộc tính của thuế GTGT đòi hỏi vừa phải chính xác, chặt chẽ vừa phải nhanh gọn thuận lợi cho các đối tượng được hoàn thuế. Chính vì lý do đó mà các quy định của của Luật thuế GTGT cũng cố gắng sao cho các cơ sở kinh doanh được tối đa hóa các quyền để khấu trừ và hoàn thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong các quy định này: Đó là cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng, điều này sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.
Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế.
Trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự án ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.
2. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế:
Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh những thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể,… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo..
Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.
Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.
Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại một số điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố, cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý.. trình độ của một số cán bộ thuế còn non kém. Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.
Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên đã hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuê trong việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
3. Những nguyên nhân khác:
Khi bàn về nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đã gặp phải khi áp dụng thuế GTGT thì người ta thường đề cập tới hai nhóm nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nói về yếu tố khách quan thì có lẽ nguyên nhân lớn nhất là điều kiện, hoàn cảnh áp dụng thuế GTGT, khi mà chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu, các thành phần cũng như hoạt động kinh tế chưa phát triển một cách đồng đều,… Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì sự xuất hiện của của các đối tượng kinh tế mới cũng chưa được kịp thời đưa vào sự quản lý của luật thuế GTGT.
Còn về yếu tố chủ quan thì tư tưởng, cơ chế chính sách cũng đã hạn chế nhiều thành công của Luật thuế GTGT. Khi mới bắt đầu triển khai sắc thuế này, quan điểm nóng vội muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang thuế GTGT trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công mà không quan tâm đến giải pháp xử lý cần thiết mang tính quá độ cho giai đoạn chuyển tiếp: như không quan tâm đến vấn đề hàng tồn kho, tài sản cố định lớn trước ngày 31/12/1998. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp rất lo lắng và họ đã tìm mọi cách để trốn thuế.
IV. Một số giải pháp hoàn thiện và đưa luật thuế GTGT ở Việt Nam vào cuộc sống.
Áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta đã phát huy những ưu điểm trong việc thúc đẩy SXKD phát triển; đặc biệt là khuyến khích sản xuất hàng XK thúc đẩy ……. vì vậy, có thể nói thuế GTGT cũng như các sắc thuế khác trong hệ thống thuế Việt Nam đã góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Đi đôi với những ưu điểm đó cũng còn một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện hơn.
1. Hoàn thiện về cơ chế chính sách.
- Về đối tượng chịu thuế;
Mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. Áp dụng thuế GTGT đối với cả hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB cho phù hợp với nguyên tắc chung của thuế GTGT (thuế đánh trên tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ).
- Về thuế suất;
Có thể nói thuế suất là linh hồn của thuế là một yếu tố rất quan trọng nhất của một chính sách thuế bởi nó biểu hiện tập trung nhất các chính sách của nhà nước, phản ánh quan hệ giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Quy định mức thuế suất hợp lý sẽ kích thích sản xuất phát triểntăng thu NSNN Tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế xã hội . Việc quy định các mức thuế suất cao hay thấp sẽ quyết định sự thất bại hay thành công của một chính sách thuế. Nếu số lượng thuế suất quá nhiều sẽ làm cho chính sách thuế phức tạp khó quản lý dễ bị lợi dụng để thuế gây thất thu cho NSNN nhưng lại có ưu điển thể hiện được khả năng điều tiết linh hoạt của nhà nứoc trong những trường hợp cần thiết. Trái lại các mức thuế suất quá ít, nhà nước khó thực hiện được nhiều CSXH nhưng có ưu điểm tính đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng hạn chế tình trạng thất thu thuế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để khắc phục những tác động không tốt đối với KTXH của thuế GTGT căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản xây dựng cơ sở thuế hữu hiệu trên kinh nghiệm các nước là thực tiễn ở nước ta. Cơ sở thuế GTGT ở nước ta chỉ nên quyết định một mức thuế suất chung duy nhất áp dụng cho các loại là phù hợp với định hướng nói trên.
- Về phương pháp tính thuế;
Theo quy định ở nhà nước ta phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính thuế trực tiếp trongđiều kiện này khi nền kinh tế phát triển chưa cao, số lượng các cơ số sản xuất kinh doanh có quy mô vừa và nhỏ chưa thực hiện tốt chế độ kế toán hoá đơn chứng từ còn nhiều chưađáp ứng được yêu cầu tính thuế theo phương pháp khấu trừ qua thực tế cho thấy với hai phươg pháp tính thuế với mức doanh thu như nhau cũng khoản nộp thuế lại khác nhau. điều này chứng tỏ luật thuế vẫn chưa ổn định về phương pháp tính, dẫn đến không công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, xẽ tạo ra sân chơi không bình đẳng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh xuất phát từ kinh nghiệm của các nước và nguyên tắc hữu hiệu của một chính sách thuế mặt khác để thuế GTGT vận hành mang tính liên tục không gián đoạn, thì về lâu dài , nước ta chỉ nên quyết định tồn tại trong giai đoạn quá độ để chuẩn bị đầy đủ các điều kiện áp dụng theo phương pháp khấu trừ nếu đủ điều kiện còn lại chỉ nên áp dụng đối với đối tượng nộp thuế có doanh thu hàng năm thấp nhưng vẫn trên người chịu thuế GTGTcần phối hợp với việc triển khai hội doanh nghiệp để quản lý chặt trẽ khâu đăng ký sản xuất kinh doanh đến khâu quản lý tài chính của cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Về ưu đãi miễn giảm thuế;
Giảm bớt, tiến tới việc xoá bỏ việc ưu đãi miễn giảm thuế cho tất cả các đối tượng, đảm bảo tính công bằng và bình đẳng cho các đối tượng nộp thuế.
- Về hoàn thuế GTGT;
Đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
- Về khấu trừ thuế:
Đề nghị chỉ cho khấu trừ thuế đầu vào đối với 3 trường hợp là: mua hàng có hoá đơn GTGT, có hoá đơn thường (tức là mua hàng có hoá đơn) và một số trường hợp mua hàng theo quy định trong luật thuế GTGT.
2. Cải cách hành chính thuế.
- Hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế, đặc biệt là thuế GTGT. Hệ thống văn bản pháp luật sẽ được tách riêng ra thành hệ thống văn bản thuế và hệ thống văn bản hành chính đảm bảo các mục tiêu đơn giản, công bằng và không làm thiệt hại cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cơ quan thuế chỉ có chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế.
- Hoàn chỉnh chế độ xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Cải cách hệ thống kế toán thuế GTGT cho đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.
- Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng hoá đơn, chứng từ. Hiện nay, cho phép các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT. Đối với hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp, hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo phương pháp ấn định, sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế GTGT. Trong thời gian tới, có thể thực hiện quy định doanh nghiệp tự in hoá đơn. Hoá đơn do các doanh nghiệp tự in phải đảm bảo nội dung theo quy định thống nhất của Bộ Tài chính. Đẩy nhanh nối mạng phần mềm quản lý thuế trong phạm vi toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc phát hành và sử dụng hoá đơn chứng từ của các đối tượng nộp thuế.
3. Củng cố bộ máy tổ chức ngành thuế
- Cần củng cố tổ chức bộ máy ngành thuế theo hướng thống nhất về mặt hành chính trong quản lý thu thuế. Bộ máy hành thu phải bao gồm cả hệ thống thuế nội địa và hệ thống thuế xuất nhập khẩu.
- Hình thành chức năng quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế một cách độc lập trong thực thi luật, pháp lệnh về thuế. Tách riêng tổ chức dịch vụ về thuế để hình thành các công ty; dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ kê khai thuế.
4. Về cách thức tổ chức thực hiện thuế GTGT:
Để chính sách thuế GTGT thật sự đi vào đời sống kinh tế - xã hội một cách có hiệu quả, vậy cần thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp sau:
- Tăng cường bồi dưỡng đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ thuế, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thu thuế GTGT, nhất là áp dụng công nghệ tin học cho công tác quản lý và điều hành thu thuế. Đây là khâu quan trọng quyết định tính thực thi, tính hiệu quả của chính sách thuế, bởi việc quản lý thu thuế GTGT rất phức tạp nên tính trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế yếu hay thiết bị Quản lý lạc hậu sẽ không quản lý tốt thuế GTGT được mà sẽ làm ra tăng hiện tượng chốn thuế. Nếu công tác quản lý tốt sẽ thúc đẩy việc thực hiện nghiêm các quy định về sổ sách, chứng từ hoá đơn, hạn chế và khắc phục tình trạng thất thu thuế. Có chính sách động viên hợp lý đội ngũ cán bộ thuế, nhất là ở cơ sở, kết hợp với công tác giáo dục thường xuyên vquản lý chặt chẽ đội ngũ này chống tiêu cực lệch lạc.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cơ sở thuế GTGT bằng nhiều hình thức sinh động thiết thực đến mọi người hiểu rõ sản chất và nắm được những ưu điểm của thuế GTGT, tránh những hiểu lầm, nhận thức không đúng gây ngộ nhận do không hiểu biết về thuế GTGT tạo khe hở khác lợi dụng gây bất an cho nhân dân. Về lâu dài cần kết hợp với ngành giáo dục nghiên cứu các kiến thức cơ bản về các luật thuế vào chương trình giáo dục công dân trong trường phổ thông để giáo dục cho các công dân tg lại ý thức trách nhiệm và quyền lợi nghĩa vụ trong việc tự giác đóng thuế…
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế, thực hiện đồng bộ nghiêm túc các biện pháp kinh tế. Phối hợp chặt chẽ các cơ quan thuế với các cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thực thi pháp luật để kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm túc đối với các trường hợp in ấn hoá đơn giả, buôn bán hoá đơn giả và hoá đơn thật, các trường hợp chứng từ, hợp đồng giả, khống để trốn thuế gây thất thoát thu cho ngân sách nhà nước, thị trường biến động, cơ cấu lao động xã hội bị xáo trộn.
KẾT LUẬN
Qua một thời gian ban hành, thực hiện luật thuế GTGT ở Việt Nam đem lại nhiều thành công, những đồng thời cũng còn nhiều mặt hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên điều khẳng định trước hết là việc kiên quyết đưa luật thuết GTGT vào thực hiện là một thành công lớn, có ý nghĩa lịch sử trong quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Bởi lẽ thuế GTGT là một loại thuế tiên tiến được thực hiện và phát huy tác dụng tốt ở nhiều nước trên thế giới. Trong những năm thực hiện ở nước ta. Những ưu Việt của thuế GTGT so với loại thuế doanh thu trước đây là: khắc phục trình trạng đánh thuế, hạn chế tình trạng kinh doanh lỗ vẫn phải nộp, đóng góp tích cực vào việc xây dựng môi trường cạnh trang bình đẳng, tăng thu ngân sách nhà nước, hạn chế tình trạng thất thu thuế. Hơn nữa việc áp dụng thuế GTGT còn là một trong những điều kiện để đẩy nhanh qúa trình hội nhập ngày càng toàn diện với nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực, đồng thời góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thuế GTGT là loại thuế giảm thu chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm, được sản sinh trong quy định sản xuất kinh doanh, do nhà nước sản xuất kinh doanh nộp nhưng do người tiêu dùng cuối cùng chịu khi mua. Do đó, nó tác động ít nhiều đến nền kinh tế - xã hội cụ thể là là tác động đến giả cả thị trường, hợp đồng mua bán.
Rõ ràng, thuế GTGT có nhiều ưu điểm nổi trội hơn thuế doanh thu, áp dụng loại thuế này mang lại cho nền kinh tế nhiều thuận lợi mà trước hết là các cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh những mặt đã đạt được, thuế GTGT gặp khá nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng (như đã nêu ở trên bài). Những vướng mắc còn tồn tại phải được xem xét, tìm hiểu nguyên nhân để từ đó có những biện pháp, hướng đi nhằm hoàn thiện hơn luật thuế này. Để cho cơ sở thuế GTGT đúng là một sắc thuế tiên tiến và thành công trong hình thức thuế góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy việc thi hành luật thuế GTGT và các luật thuế mới là một bước tiến mới trong chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước trong bối cảnh ngày nay. Hy vọng rằng trong thời gian tới chúng ta bám sát thực tiễn hơn, nhanh chóng tìm ra, sửa chữa những bất hợp lý để cho thuế GTGT ngày một góp phần tích cực vào việc đưa đất nước tiến nhanh vững mạnh trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa mà Đảng đã đề ra. Để hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao, phải có sự quản lý của các cấp có thẩm quyền cùng hợp tác điều hành công tác thực hiện chính sách thuế để chính sách thuế này ngày một đi sâu vào cuộc sống và thuế GTGT sẽ là một sắc thuế không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình luật thuế VIỆT NAM.( trường đại học luật Hà Nội), 2010.
Luật thuế giá trị gia tăng 2008.
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ (Trường đại học kinh tế quốc dân_ khoa Ngân hàng tài chính).
Sách hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được sửa đổi bổ xung.
Tạp chí tài chính.
Tạp chí thực tiễn kinh nghiệm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung kho khan trong thue gtgt.doc