Đối với những hạng mục cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại quan trọng của nền kinh tế, quy mô vốn đầu tư lớn, yêu cầu trình độ kỹ thuật cao, nhưng chưa thể mang lại hiệu quả trực tiếp cho nhà đầu tư thấp, thường không hấp dẫn các doanh nghiệp tư nhân trong nước hay các nhà đầu tư nước ngoài thậm chí họ cũng không thể đảm nhận được thì Nhà nước cần có chính sách đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và cho thuê với chi phí thấp.
Trên cơ sở xác định các kênh thương mại của nền kinh tế gắn với yêu cầu hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu để xác lập quy hoạch hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại của nền kinh tế (cả về quy mô, trình độ và loại hình cơ sở vật chất) một cách tương ứng. Trong đó, chú trọng đến việc hình thành và phát triển hệ thống phân phối hàng hoá toàn cầu của Việt Nam, nhất là tại các thị trường Hoa Kỳ, EU, , hình thành và phát triển các trung tâm giao dịch, mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có tầm cỡ khu vực và thế giới ở Việt Nam; xây dựng cơ sở vật chất cho thương mại điện tử
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1711 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986, chính sách mở cửa đổi mới của Nhà nước đã được áp dụng và dần đưa nền kinh tế trong nước phát triển đi lên, vượt qua cơn khủng hoảng. Thị trường trong nước dần được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất hàng hoá. Sự kiện Vịêt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước ngoặt quan trọng tạo điều kiện phát triển thị trường trong nước và trên toàn thế giới. Nền kinh tế Việt Nam được khôi phục một cách nhanh chóng và có bước tiến bộ, để có được những thành quả đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của công tác phát triển hàng hoá, dịch vụ.
Với mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì việc đẩy mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ đang là mối quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta. Phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ là một mục tiêu quan trọng được Nhà nước đặt ra để phát triển nền kinh tế theo định hướng mới trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề mà đề tài giải quyết sẽ giúp chúng ta hiểu thêm những yếu tố liên quan đến việc phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Biết rõ thực trạng và những nhân tố chính góp phần xây dựng phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ trong nước để từ đó đưa ra giải pháp cần thiết.
Đề tài gồm có 4 nội dung chính:Những điều kiện phát triển thị trường, những nhân tố tác động đến thị trường hàng hoá dịch vụ, những nhân tố giúp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; việc phát triển thị trường bị ảnh hưởng bởi các vấn đề khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường trong nước và được sự thống nhất của các thành viên, nhóm 11 lớp KTCT 22 đã quyết định chọn đề tài này để có thể rừ đó đưa ra giải pháp phù hợp.
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Đỗ Thị Kim Thoa đã nhiệt tình giúp chúng em hoàn thành tiểu luận này.
Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ.
Điều kiện xuất hiện thị trường hàng hoá và dịch vụ.
a. Việc chuyển dần từ mua bán hàng hoá với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%). Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đại hội toàn quốc lần VI năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt phát tiển trong nền kinh tế của Việt Nam. Nước ta chuyển hướng phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng hướng. Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1986-1990) được ủy ban Kế hoạch Nhà nước tổ chức nghiên cứu ngay từ năm 1982 bằng việc thành lập và tổ chức lại công tác kế hoạch hóa dài hạn trong nội bộ cơ quan. Tháng 4 năm 1986, trước Đại hội Đảng lần thứ VI, ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng báo cáo "Tư tưởng chỉ đạo xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990". Báo cáo đã đánh giá toàn diện việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, đồng thời xác định những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1986-1990 là: ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; đồng bộ hóa sản xuất và tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới XHCN, sử dụng tốt các thành phần kinh tế khác, hình thành cơ chế quản lý mới; và bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.Chính phủ đã áp dụng các biện pháp ổn định tài chính và tiền tệ để chống lạm phát; áp dụng cơ chế thị trường trong lĩnh vực giá cả, tỷ giá, lãi suất, xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá; xác lập cơ chế giá cả do thị trường định (hiện giá cả hàng hóa và dịch vụ hầu hết do thị trường định, chỉ còn một số giá như điện, nước, bưu chính, viễn thông, vận tải, hàng không... do các tổng công ty ấn định); thực hiện tự do hóa thương mại; bãi bỏ chế độ Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa và dịch vụ, cho phép mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh doanh thương mại...Việc phát triển hàng hoá, dịch vụ trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong chính sách thay đổi của Nhà nước.
Mục tiêu của việc thay đổi chính sách, cơ chế là: tập trung phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; ưu tiên 3 chương trình kinh tế mới: chương trình lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng nhất của đường lối đổi mới của Đảng.Chuyển đổi từ chính sách đơn thnàh phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu. Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn dưới 30%.
Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ theo cả chiều rộng và chiều sâu. Cơ cấu thành phần kinh tế đã tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Công tác của ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã từng bước được đổi mới theo phương hướng chung của nền kinh tế, nhất là tập trung vào tăng cường kế hoạch hóa vĩ mô, tiếp tục chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa định hướng, bảo đảm những cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh tế.. Hoạt động của các Vụ, Viện trong ủy ban đã chuyển dần sang nghiên cứu các chuyên đề, dự án phân tích... Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1990-2003 tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ 38,7% xuống còn 21,7%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% lên 40,5%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,5%
Chính sách đổi mới đặc biệt ưu tiên 3 chương trình kinh tế: chương trình lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Quán triệt các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng, ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã triển khai cụ thể hóa thành các kế hoạch và chương trình hành động, trong đó nổi bật là ba chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình xuất khẩu. Nền kinh tế đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ như sản lượng lương thực đã đủ ăn, có dự trữ và còn có phần để xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 2 lần hơn so với kế hoạch 5 năm trước, bước đầu đã giải phóng được lực lượng sản xuất xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia vào sản xuất kinh doanh, các mặt xã hội và đời sống dân cư có nhiều tiến bộ.
b. Việc chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt , khép kín theo địa giới hành chính “tự cấp, tự túc” sang tự do lưu thông.
Cùng với nhiều biện pháp khác , Nhà nước đã thực hiện đổi mới các chính sách về giá cả, tài chính. Về giá cả thì thực hiện chính sách định giá cứng cho từng loại hàng, duyệt chiết khấu cho từng khâu lưu thông, ấn định giá bán riêng cho từng đối tượng hưởng thụ, giá cả riêng biệt theo từng chính sách phân phối cụ thể.
Giá cả được hình thành chủ yếu theo quan hệ cung cầu nhưng đối với một số vật tư quan trọng để giữ ổn định thị trường, Nhà nước quy định giá bán lẻ tối đa xăng dầu, xi măng, thép, phân bón, giấy viết, hoá chất, ... và quy định giá sàn đối với một số nông sản để tránh ép giá gây thiệt thòi cho người nông dân. Nhà nước còn bảo đảm cân đối vật tư hàng hoá thiết yếu của nền kinh tế như xăng dầu, lương thực, đường, xi măng, thép, phân bón, để tránh tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa trên thị trường. Việc quy giá trần bán lẻ, giá sàn thu mua cũng như các cân đối này chỉ mang tính định hướng để các doanh nghiệp chủ động xác định kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu kinh doanh chứ không mang tính pháp lệnh như trước đây.
Ngoài ra, các xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện hoạch toán độc lập. Đại hội đã chỉ rõ: đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho Nhà nước.
Phát triển nhiều chiến lược hướng ngoại ra thị trường khu vực và quốc tế cũng là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình đẩy mạnh tự do hoá lưu thông. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO...
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ, giao thông vận tải, thông tin liên lạc...sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tiếp cận với thị trường trong nước và thế giới. Ưu tiên phát triển các nghành này là mối quan tâm lớn của nước ta nhằm phát triển cơ sở hạ tầng,thúc đẩy dao dịch, chuyển đổi hàng hoá. Việc phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, không chỉ trong nước mà còn giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực.
c. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, đội ngũ các nhà quản lý được đào tạo theo cơ chế mới.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI đã thực sự mở đầu cho công cuộc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước một cách cơ bản, mạnh mẽ và toàn diện. Từ đây đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đặt trong tổng thể đổi mới nền kinh tế nói chung.Trên cơ sở phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ theo hướng đa dạng hoá, toàn cầu hoá thì việc phát triển trong chính các doanh nghiệp, các công ty đang là một mối quan tâm sâu sắc.
Để tạo sức cạnh tranh, phát triển nhiều loại hình hàng hoá,Nhà nước đã thực hiện sáp nhập khoảng 3.000 doanh nghiệp vào các doanh nghiệp khác có liên quan về công nghệ, thị trường và giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp. Nhờ đó đã nâng quy mô vốn bình quân của DNNN từ 3,1 tỷ lên 11,5 tỷ đồng, giảm bớt tài trợ của ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp bị thua lỗ và thúc đẩy các DNNN phải hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp, công ty đẩy mạnh sản xuất, tạo sản phẩm mới phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Đây là yếu tố chính để đẩy mạnh phát triển chất lượng cũng như giảm giá thành của sản phẩm.
Mạng lưới của công ty, doanh nghiệp được mở rộng đến nhiều tỉnh thành trong cả nước mở rộng hơn thị trường hàng hoá, dịch vụ. Phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của người dân, cũng chính vì thế mà số lượng sản phẩm sản xuất được ngày càng nhiều và chất lượng cũng được khắc phục hơn.Khi đã phát triển được thị trường trong nước, Nhà nước còn quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển thị trường hàng hoá ở nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh và thu ngoại tệ. Chính vì vậy cần chú trọng hơn đến việc xây dựng thương hiệu, đổi mới, quảng bá hình ảnh của sản phẩm.
Để đáp ứng nhu cầu thực tế của người tiêu dùng cũng như chất lượng của hàng hóa, dịch vụ thì đội ngũ quản lý cũng cần phải được quan tâm chú trọng hơn nữa. Quản lý được đẩy mạnh, phát triển trình độ theo nhu cầu mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lưu thông hàng hoá, phát triển dịch vụ.
d. Ngành du lịch, dịch vụ là một nghành chính được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh trong thời kì phát triển CNH- HĐH.
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp đã tạo điều kiện tốt cho việc phát triển du lịch trong nước. Đổi mới, quan tâm phát triển, khai thác tiềm năng các điểm du lịch trong nước.
Các nghành hàng không, vận tải , bưu chính viễn thông…cũng được sự quan tâm phát triển của nhà nước. Nhiều chính sách đổi mới đã được áp dụng triệt để, nhằm đáp ứng nhu cầu phân phối hàng hoá trong nước, đẩy mạnh chất lượng dịch vụ.
Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm. Về cơ chế tạo nguồn vốn đầu tư phải huy động bằng nhiều nguồn, nhưng trong đó phải kể đến nguồn vốn từ ngân sách ưu đãi đầu tư của nhà nước và các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, vốn đầu tư nước ngoài. Có nhiều chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu (hàng không, tàu biển).
Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá và dịch vụ.
a. Thị trường gắn liền với phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá.
Để phát triển và mở rộng thị trường hàng hoá thì vấn đề nâng cao chất lượng hàng hoá được quan tâm chú ý, năng suất lao động được đẩy mạnh. Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, cơ hội nhiều hơn nhưng thách thức cũng không phải là ít. Chính vì vậy mà quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất cần được áp dụng triệt để, tạo chất lượng sản phẩm cao và đồng bộ. Nhưng thực tế quá trình chuyên môn hoá chưa thực sự thu được kết quả như mong muốn. Nhà nước vẫn đang nỗ lực để có thể thay đổi được tình hình trên. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng được chú ý. Nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên nên việc phát triển xuất khẩu hàng nông sản trở thành thế mạnh, đặc biệt là: gạo, cà phê, hồ tiêu, cá tra, cá ba sa... Xuất khẩu hàng lương thực, thực phẩm của nước ta ngày càng phát triển, mở ra một thị trường hàng hoá, dịch vụ rộng lớn. Bên cạnh đó, quá trình xuất khẩu còn gặp một số trục trặc khi các nước nhập khẩu ngày càng sử dụng nhiều rào cản trong quan hệ thương mại quốc tế, cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt, dẫn đến sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng giảm xuống. Ngoài ra thị trường giá thế giới biến động phức tạp, tăng giảm thất thường (gạo, dầu thô...), thông tin thị trường thế giới thiếu và không chính xác đã tác động nhiều tới kim ngạch xuất khẩu.
b. Gắn liền nhu cầu cuộc sống xã hội với nhu cầu của nền kinh tế.
Việc đặt nhu cầu của người tiêu dùng lên hàng đầu là yếu tố quan trọng nhất giúp phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ. Nhiều mặt hàng mới được thay đổi hình thức mẫu mã cũng như chất lượng. Đa dạng hoá loại hình dịch vụ tạo điều kiện cạnh tranh phục vụ nhu cầu cuộc sống.
Quan tâm sản xuất nhiều sản phẩm thiết thực, phong phú hơn, gần gũi hơn với đời sống của người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh của các sản phẩm đã đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, giá thành sản phẩm cũng được thay đổi treo chiều hướng tốt cho người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình xây dựng quảng bá hình ảnh, thương hiệu, từ đó Marketing ở Việt Nam được quan tâm chú trọng phát triển.
Quá trình tiếp cận khách hàng được đẩy mạnh, đây là một dấu hiệu tốt cho quá trình phát triển thị trường hàng hoá trong nước. Dịch vụ du lịch được mở rộng hơn, gắn liền với nhu cầu thiết thực của xã hội, chất lượng dịch vụ được đưa lên hàng đầu. Dịch vụ du lịch phát triển góp phần tăng ngoại tệ, phát triển nền kinh tế trong nước.
c. Công tác quản lý của cơ quan có thẩm quyền ảnh hưởng trực tiếp đến hàng hoá, dịch vụ.
Quá trình quản lý hàng hoá của nhà nước ảnh hưởng một cách trực tiếp đến sự phát triển chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường.
Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hoạt động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Các thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ.
Dù những đổi mới trên đây còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng những tác động tích cực cuả những thay đổi đó với thị trường đã thấy rõ và đặt ra sự đòi hỏi cấp thiết hơn . Vấn đề kiểm soát hàng lậu, hàng trốn thuế, hàng nhái hành giả, hàng kém chất lượng được chú trọng quan tâm. Có nhiều biện pháp trong quá trình kiểm tra, thu hồi và sử lý sản phẩm kém chất lượng sẽ tạo điều kiện an toàn thuận lợi hơn cho thị trường hàng hoá trong nước.
Quan hệ kinh tế giữa các cá nhân , giữa các doanh nghiệp trên thị trường.
Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối phần lớn khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ giảm xuống trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa. Điều đó đã tạo một môi trường cạnh tranh ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như số lượng hàng hoá.
Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm.
Nhóm các chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu. Nhiều loại hình sản xuất, phân phối được áp dụng hơn trong quá trình lưu thông hàng hoá.
Những vấn đề ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ.
Bước đầu còn sơ khai, non trẻ nên chưa có sự thống nhất trong toàn quốc.
Tình hình cơ sở hạ tầng trong nước còn rất thấp kém, rời rạc. Đây chính là yếu tố kìm hãm sự phát triển của thị trường hàng hoá trong nước cũng như việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Sản xuất chưa thực sự được quy hoạch, đầu tư chuyên môn hóa nên chất lượng sản phẩm và cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. Nền kinh tế ban đầu theo cơ chế kinh tế kế hoạch, giao dịch chỉ là giao dịch chỉ là việc giao và nhận các sản phẩm nhằm thực hiện các nghĩa vụ có tính pháp lệnh của nhà nước lập kế hoạch.
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên thị trường chưa xuất hiện và gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vốn đầu tư.
Trước tình hình đó, việc đầu tư vào các khu trung tâm du lịch, giải trí cũng chưa được quan tâm phát triển
Việc xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch chưa được quan tâm thích đáng, ngược lại do lợi nhuận trước mắt trong nghề kinh doanh khách sạn dẫn đến đầu tư và cấp giấy phép xây dựng, nâng cấp khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ tràn lan gây nên tình trạng cung về buồng khách sạn vượt quá cầu, giá thuê phòng hạ , công suất sử dụng buồng, phòng thấp , đặc biệt là ở Tp HCM và Hà nội .
Công tác tuyên truyền quảng bá du lich còn yếu kém. Đến nay, toàn ngành đã có 90 công ty lữ hành quốc tế, nhưng số công ty có văn phòng, chi nhánh ở nước ngoài còn quá ít chưa nói đến quy mô và chất lượng hoạt động. Công tác phối hợp thông tin giữa ngành du lịch Việt Nam với các ngành khác để tuyên truyền, quảng bá cho du lịch Việt Nam còn chưa chủ động và hiệu quả chưa cao.
b. Các thành phần kinh tế rất đông đảo, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Hiện nay, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối 70- 75% khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ chỉ còn 20- 21% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ.Sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chưa được chặt chẽ . Hệ thống hợp tác xã vẫn còn phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi song chỉ còn chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa, chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Số liệu thống kê chi tiết ở bảng 1 bên dưới.
Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế
(giá hiện hành)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Tổng số
Trong đó
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
1990
19031,2
5788,7
30,4
519,2
2,7
519,2
66,9
1991
33403,6
9000,8
26,9
662,4
2,0
662,4
71,1
1992
51214,5
12370,6
24,2
563,7
1,1
563,7
74,7
1993
67273,3
14650,0
21,8
612,0
0,9
612,0
77,3
1994
93940,0
22921
24,4
751,5
0,8
751,5
74,8
1995
121160,0
27367,0
23,6
1060,0
0,9
1060,0
75,5
1996
145874,0
31123,0
23,3
1358,0
0,9
1358,0
75,8
1997
161899,7
32369,2
22,0
1244,6
0,8
1244,6
77,2
1998
185598,7
36093,8
19,4
1212,6
0,7
1212,6
79,9
1999
200923,7
37500,0
18,6
1400,0
0,7
1400,0
80,7
2000
220400
39231,2
17,8
1763,2
0,8
1763,2
81,4
2001
245300
40965,1
16,7
2453,0
1,0
2453,0
82,3
2002
277000
45428
16,4
3601
1,3
3601
82,3
2003
310500
50301
16,2
4036,5
1,3
4036,5
82,5
Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003-
c. Ảnh hưởng bởi quan hệ cung cầu trên thị trường
Đây là một yếu tố hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, quy luật cung- cầu trong quá trình tự do hoá.Trước đây nhiều mặt hàng phải nhập khẩu thì hiện nay nước ta đã có thể đáp ứng được các nhu cầu trong nước và còn có thể tiến tới xuất khẩu. Nhu cầu đa dạng, phát triển và thu nhập tăng lên đã làm cho cầu thị trường phong phú và biến đổi khôn lường.
Tác động cung- cầu đã tác động trực tiếp đến vấn đề phát triển hàng hoá và dịch vụ trong nước. Những nhà kinh doanh thành đạt đều phải xuất phát từ đòi hỏi của khách hàng, bảo đảm chất lượng hàng hoá, giá cả phù hợp và có dịch vụ tối ưu. Cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả từng bước nhường chỗ cho cuộc cạnh tranh bằng dịch vụ. Từ chỗ dịch vụ chỉ là hoạt động yểm trợ bán hàng đã phát triển thành địa hạt của các nhà đầu tư kinh doanh. Ngành kinh doanh dịch vụ ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, quá trình thương mại hoá cũng ảnh hưởng tích cực đến thị trường sản xuất.
d. Việc phát triển thị trường quốc tế cả về chất và lượng.
Sự kiện Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế trên thế giới là một tiền đè quan trọng trong quá trình phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, tạo nhiều cơ hội đẩy mạnh sản xuất hàng hoá trong nước. Hàng hoá trong nước được quan tâm hơn về nhiều lĩnh vực, tạo sức cạnh tranh lớn của hàng hoá trong nước với hàng hoá trên thế giới, chính những điều kiện ấy đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến giá cả và chất lượng hàng hoá.
Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa. Đó là tín hiệu tốt lành với nền kinh tế vì nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh Việt Nam, đồng thời nó cũng tạo ra áp lực và nguy cơ lớn cho sản xuất và kinh doanh trong nước. Điều này cũng cho thấy rằng sự hội nhập của thị trường trong với thị trường khu vực và quốc tế là tất yếu. Vấn đề là chủ động đón nhận và có phương thức ứng xử thích hợp để chuyển từ ngoại lực thành nôị lực.
Trong điều kiện hiện tại của nước ta vấn đề chiếm lĩnh thị trường nội địa, chính sách thay thế hàng nhập khẩu có vị trí đặc biệt quan trọng. Do chính sách của nền kinh tế, hàng hoá ngoại nhập tràn ngập thị trường nội địa. Hàng ngoại đang có ưu thế so với hàng sản xuất trong nước. Thêm vào đó là sự yếu kém về chất lượng, giá cả, quy cách, chủng loại của hàng nội địa và tâm lý sùng bái hàng ngoại đã làm cho hàng nội yếu thế. Vấn đề này tác động trực tiếp đến giá cả của hàng hoá trên thị trường.
e. Sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước đối với thi trường.
Trước những năm 1990, quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại được kế hoạch hoá tập trung. Còn về giá cả thì thực hiện chính sách định giá cứng cho từng loại hàng, duyệt chiết khấu cho từng khâu lưu thông, ấn định giá bán riêng cho từng đối tượng hưởng thụ, giá cả riêng biệt theo từng chính sách phân phối cụ thể.,chính thức tuyên bố chính sách đổi mới, ra đời hệ thống « giá kinh doanh chính thức ».Chế độ tem phiếu được xoá br với một số lượng lớn hàng hoá, giá chính thức của hàng hoá không thiết yếu được nâng lên mức gâng với thị trường tự do.
Chính sách tiền tệ thắt chặt năm 1990-1992 được áp dung, sử dụng sự sai lệch về lãi xuất và miễn thuế nhằm hỗ trợ khu vực quốc doanh. Các nguồn lực có thể được phân bổ cho các đơn vị quốc doanh sau đó nguồn lực này được sử dụng để tạo ra những hàng hoá mang lại lợi nhuận cao.Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường.
Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hạot động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Bộ máy quản lý Nhà nước về thị trường, thương mại đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, hiệu quả. Các thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ. Kết hợp đồng hành cùng chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định giá tiêu dung, đảm bảo nhu cầu thiết thực của người tiêu dùng.
Nhà nước áp dụng chính sách tăng thuế nhập khaaur và phí về các dịch vụ công cộng. Điều này ảnh hưởng một cáh trực tiếp đến giá cả hàng hoá, giảm hàng lậu, hnàg kém chất lượng trên thị trường. Mặc dù những thay đổi trên còn châm chạp nhưng đã ít nhiều tác động tích cực dến nền kinh tế hàng hóa trong nước, đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cấp thiêt hơn đối với thị trường trong nước.
f. Ngành dịch vụ cũng có một vị trí quan trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào sản xuất hàng hoá được quan tâm chú trọng và có định hướng rõ ràng. Nguồn vốn đầu tư vào giao thông vận tải và bưu chính viễn thông tương đối lớn, đạt 142 nghìn tỉ.Trong năm 2004, vốn đầu tư ttoàn ngành giao thông vận tải thực hiện 14816 tỷ đông(125,46% kế hoạch), giải ngân 11378 tỷ đồngtrong đó :
Vốn ngân sách( gồm cả ODA) thực hiện 8040 tỷ, giải ngân 7054 tỷ
Vốn tín dụng ưu đãi thực hiện và giải ngân 473 tỷ
Vốn trái phiếu chính phủ thực hiện 4347 tỷ, giải ngân khoảng 2500 tỷ( 64,02% kế hoạch).Huy động 1028 tỷ từ các dự án BOT.( Nguồn : tài liệu Kinh tế xã hội Việt Nam trước thềm hội nhập- NXB Bộ kế hoạch và đàu tư)
Nguồn vốn đặt ra được dùng vào viẹc phát triển thị trường hàng hóa, giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng.
Xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển mạng viễn thông với cấu trúc mạng thế hệ mới, tiếp tục cáp quang hoá 100% các tuyến trục liên tỉnh ,và nội tỉnh, hình thành xa lộ thông tin trục Quốc gia, cung cấp các dịch vụ thoại và truyền số liệu trên cơ sở hạ tầng thông tin thống nhất, tiếp tục phát triển điện thoại di động truyền thống, phát triển di động băng hẹp CDMA nội tỉnh, Phổ cập dần dịch vụ Internet công cộng, phóng và khai thác hiệu quả vệ tinh viễn thông Việt nam.
Báo cáo ghi lại những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược có sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó có con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng khoảng thời gian, số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khoa học kĩ thuật, áp dụng khoa học kĩ thuật vào tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá. Công tác này đang dần được hoàn thiện, hầu hết việc thanh toán ở các siêu thị, trung tâm buôn bán đều được giao dịch nhờ hệ thống thông tin công nghệ cao.
Xây dựng, nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Áp dụng vận chuyển, lưu thông hàng hoá dịch vụ và ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin để giảm giá thành, kích thích sức mua, kinh doanh có hiệu quả .
Đối với thị trường hàng không: Tăng hệ số sử dụng ghế trên máy bay. Tiếp tục hoàn thiện các dich vụ tại sân bay, trên máy bay để thu hút thêm khách quốc tế, khắc phục tình trạng chậm chuyến, bỏ chuyến...
Đối với dịch vụ hàng hải: Tăng nhanh năng lực của đội tàu biển. Khuyến khích việc đóng tàu trong nước, nếu không đủ năng lực và công xuất đóng trong nước thì cho phép mua mới ở nước ngoài với việc hộ trợ lãi suất sau đầu tư
Đặt thêm văn phòng đại diện quảng bá dịch vụ hàng không ở các nước, nhất là những nước có nhiều khách đến Việt Nam. Thiết lập thêm các đường bay mới và các chuyến bay như Hà Nội - Bắc Kinh, Hà Nội -Tôkyô, Hà Nội đi Châu âu và các nước làng giềng để cạnh tranh với các nước trong khu vực .
Dịch vụ đô thị phát triển mạnh, xuất hiện nhiều trung tâm thương mại, siêu thị, dịch vụ du lịch , nhà hàng , khách sạn…
Việc đầu tư vào phát triển dịch vụ ở Việt Nam đạt được nhiều thành tích tuy nhiên vấn đề khắc phục và cải thiện cơ sở ạh tầng vẫn luôn được coi trọng để ngày càng đáp ứng đâỳ đủ hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Những nhân tố để phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Cơ sở lý luận thực tiễn.
Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá.
Cơ cấu thị trường còn sơ khai chưa đồng bộ xét về trình độ và quy mô. Thị trường trong nước phát triển theo hướng đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và tiêu dùng, hỗ trợ tiêu thụ hàng hoá trong nước, đảm bảo ổn định nguồn hàng, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và giữ vững thị trường xuất khẩu. Tổ chức hoạt động thương mại theo hướng là cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùngvà hỗ trợ phát triển xuất khẩu, đảm bảo hnàg hoá kưư thông thông thoáng, kiềm chế những biến động giá cả bất lợi đối với những mặt hàng nhạy cảm.
Có thể lấy ví dụ như thị trường dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây :
Số liệu ước tính của bộ công thương, năm 2007 xuất khẩu dệt may đạt 7.8 tỉ USD , vượt 450 triệu so với kế hoạch và tăng tới 31% so với năm 2006. Bộ công thương dự báo , năm 2008 xuất khẩu dệt may Việt Nam sẽ tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh. Xuất khẩu dệt may đạt mục tiêu xuất khẩu 9.5 tỉ USD tăng 21% so với năm 2007.
Thực trạng của phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Nhìn chung tình hình phát triển thị trường hàng hoá trong nước đã đạt được nhiêu thành tựu to lớn
Thị trường hàng hoá và dịch vụ có bước đột phá mạnh từ khi Việt Nam áp dụng chế độ khoán trong nông nghiệp và kế hoạch 3 phần. Từ những năm 1980, hình thức khoán hộ đã được áp dụng, sau đó chính sách giao đất, giao rừng cho nông dân kinh doanh lâu dài được phổ biến. Hiện nay các hộ gia đình đang là những đơn vị kinh doanh nông nghiệp phổ biến, đã xuất hiện hàng ngàn trang trại trồng trọt, chăn nuôi với quy mô khác nhau ở cả đồng bằng và miền núi. Thị trường đã đáp ứng hầu như đầy đủ nhu cầu của cuộc sống xã hội và kinh tế.
Sản phẩm du lịch đa dạng và đã có chất lượng tốt hơn. Nhiều sản phẩm du lịch được hình thành như các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, cả ở miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Ngoài các loại hình du lịch truyền thống, đã hình thành các loại hình du lịch mới như đi bộ, leo núi , lặn biển, thăm dò hang động, du lịch xuyên Việt, xuyên Đông Dương bằng xe đạp,ôtô, môtô... Trong đó ta đã chú trọng khai thác các giá trị nhân văn giàu bản sắc văn hoá dân tộc và được du khách đón nhận.
Chất lượng phục vụ được nâng cao, giải quyết được nhiều việc làm. Đến năm 1998 đã có trên 130 nghìn lao động, tăng trung bình hàng năm khoảng 25% năm.Tuy nhiên, do phát triển nhanh, các doanh nghiệp du lịch, các khách sạn, nhà hàng đã thu hút lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu; mới có 7% đạt trình độ đại học, 50% được đào tạo qua các trướng dạy nghề, các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, còn lại chưa qua đào tạo.
Hợp tác quốc tế, tuyên truyền quảng bá du lịch được tăng cường. Đến nay Việt Nam đã ký 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước, có quan hệ bạn hàng với 800 hãng của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN, trở thành thành viên chính thức của hiệp hội Du lịch Đông Nam á ( ASEANTA ); khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với liên bang Nga; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với Pháp; bước đầu xây dựng quan hệ hợp tác du lịch với Hoa Kỳ.
Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch ngày càng được quan tâm. Tổng Cục Du lịch đã xuất bản sách hướng dẫn, sản xuất phim Video và đĩa CD-Rom, nối mạng Internet quốc tế tạo điều kiện đưa thông tin du lịch Việt Nam đến các nước trên thế giới. Đã có 13 doanh nghiệp lữ hành quốc tế đặt 23 văn phòng đại diện ở 23 nước.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình cải cách thay đổi còn nhiều hạn chế cần được khắc phục :
Việc thông thương với thị trường quốc tế còn hạn chế. Thị trường đang còn tồn tại những ách tắc và mâu thuẫn lớn. Về cơ bản, nói chung thị trường còn manh mún và nhỏ lẻ. Thị trường xuất khẩu phát triển nhưng không ổn định, thiếu bền vững, khả năng cạnh tranh còn ở mức thấp. Sự chậm trễ và thiếu đồng bộ trong ban hành các chính sách kinh tế. Thị trường hàng hoá và dịch vụ ở Việt Nam còn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát và bất ổn.
Những hạn chế đó có nhiều nguyên nhân khác nhau ảnh hưởng đến :
Bản thân nền kinh tế phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất yếu, kết cấu hạ tầng còn bất cập…Cung cấp cơ sở hạ tầng nhìn chung đem lại những lợi ích xã hội cao, nhưng khi càng nhiều người được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản thì lại càng khó để tìm ra các hình thức đầu tư “dễ” có lợi nhuận cao. Sẽ cần thiết phải cải thiện các quy trình lập kế hoạch để xác định các cơ hội đầu tư mang lại lợi ích lớn xã hội. Để tối đa hóa lợi nhuận cho những đầu tư đã lựa chọn, cần phải cải cách điều hành, giải quyết vấn đề động cơ doanh nghiệp và tham nhũng.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc quy hoạch chưa thực sự được đồng bộ và còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vốn đàu tư, chuyển giao công nghệ...
Giá cả chưa tương xứng với chất lượng phục vụ, sức cạnh tranh yếu, sản phẩm du lịch chưa độc đáo. Tuy có nhiều tiềm năng du lịch nhưng do nền kinh tế mới phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém; các khu du lịch, tuyến điiểm du lịch chưa được đầu tư thích đáng nên chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp chưa có sức cạnh tranh.
Các khu, điểm du lịch đang được khai thác chủ yếu ở dạng tự nhiên; Sản phẩm du lịch đặc trưng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc còn ít, chưa tạo ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc và sự hấp dẫn với khách du lịch. Chương trình du lịch còn nghèo. Các khu du lịch, vui chơi giải trí còn ít. Giá cả và một số phí còn cao ( giá thuê phòng, giá vé máy bay, điện thoại, ăn uống trong khách sạn) trong lúc chất lượng dịch vụ thấp làm cho sức cạnh tranh yếu, hầu hết khách du lịch quốc tế đến Việt Nam một lần, chưa có nhiều nơi để thăm quan, vãn cảnh nên thời gian lưu lại ngắn và không đến lần tiếp theo.
Công tác quy hoạch yếu, tình trạng xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch tuỳ tiện, chắp vá. Việc xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch chưa được quan tâm thích đáng, ngược lại do lợi nhuận trước mắt trong nghề kinh doanh khách sạn dẫn đến đầu tư và cấp giấy phép xây dựng, nâng cấp khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ tràn lan gây nên tình trạng cung về buồng khách sạn vượt quá cầu, giá thuê phòng hạ , công suất sử dụng buồng, phòng thấp , đặc biệt là ở Tp HCM và Hà nội .
Công tác tuyên truyền quảng bá du lich còn yếu kém. Đến nay, toàn ngành đã có 90 công ty lữ hành quốc tế, nhưng số công ty có văn phòng, chi nhánh ở nước ngoài còn quá ít chưa nói đến quy mô và chất lượng hoạt động. Công tác phối hợp thông tin giữa ngành du lịch Việt Nam với các ngành khác để tuyên truyền, quảng bá cho du lịch Việt Nam còn chưa chủ động và hiệu quả chưa cao.
Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém trên trước hết về là quản lý Nhà nước của ngành du lịch chưa tốt, hệ thống chính sách cơ chế chưa đồng bộ; cơ sở hạ tàng còn yếu kém, sự phối hợp giữa các ngành liên quan để giải quyết các khó khăn chưa tốt ( lệ phí Visa, giá cước điện thoại,...).
Hệ thống pháp luật chính sách kinh tế thị trường mới hình thành chưa theo kịp thực tế và luật pháp quốc tế. Chưa có những chính sách phù hợp, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước. Chính phủ đã áp dụng các biện pháp ổn định tài chính và tiền tệ để chống lạm phát; áp dụng cơ chế thị trường trong lĩnh vực giá cả, tỷ giá, lãi suất, xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá; xác lập cơ chế giá cả do thị trường định (hiện giá cả hàng hóa và dịch vụ hầu hết do thị trường định, chỉ còn một số giá như điện, nước, bưu chính, viễn thông, vận tải, hàng không... do các tổng công ty ấn định); thực hiện tự do hóa thương mại; bãi bỏ chế độ Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa và dịch vụ, cho phép mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh doanh thương mại... Nhưng tất cả những giải pháp trên chưa thu được hiệu quả như mong muốn.
Các giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá. Đây là biện pháp rất cơ bản để thúc đẩy phát triển thị trường. Phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung chuyên môn hoá cao vào các ngành có lợi thế so sánh. Nghiên cứu lựa chọn sản phẩm có lợi thế so sánh của quốc gia, của từng địa phương và từng ngành để xây dựng chiến lược phát triển. Bố trí nghiên cứu các thông tin về thị trường đầu ra, khả năng cạnh tranh. Tránh tình trạng làm phong trào, tràn lan như thời gian qua.
Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và tri thức khoa học công nghệ cho thương mại dịch vụ. Đây là nền tảng để phát triển thị trường cả trong nước và quốc tế. Ưu tiên đầu tư hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và xây dựng chợ, trung tâm thương mại. Bảo đảm cơ sở hạ tầng tốt cho lưu thông hàng hoá thông suốt, thuận lợi và nhanh chóng. Chính điều này sẽ góp phần chuyển biến cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng năng động, hiệu quả. Để phát triển kết cấu hạ tầng phải có chính sách hợp lý để thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài nước.
Quá trình đầu tư cần được quản lý chặt chẽ:
Phải khắc phục ngay cơ chế ‘‘xin cho’‘, đây là nguyên nhân gây ra những tiêu cực trong việc nhận dự án và công trình xây dựng. Tệ nạn ‘‘chạy vốn - lại quả’‘ đang khá phổ biến và công khai. Thực hiện quy chế đấu thầu chưa được nghiêm túc, tỷ lệ chỉ định thầu chiếm tỷ trọng cao, việc phá giá đấu thầu, bỏ giá quá thấp để được trúng thầu đang là mối nguy cơ lớn ảnh hưởng đến chất lượng công trình cần khắc phục tình trạng đấu thầu giả, xét thầu thiếu trong sáng, sự can thiệp bằng thư tay... Để tháo gỡ chuyện này, tháng 8/2003 vừa qua Chính phủ đã ban hành Quyết định số 890/QĐ-TTg quy định: Từ 2004 không chấp nhận việc bố trí kế hoạch và cấp vốn đầu tư cho các dự án không thực hiện đúng quy định theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành
Công khai hóa vốn đầu tư bằng vốn NSNN
Có thể tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng điều cơ bản là phải đảm bảo sự giám sát của nhân dân. Vì thiếu đi yếu tố này nên đã xảy ra nhiều vụ công trình vừa làm xong đã hư hỏng. Do đó việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một biện pháp có hữu hiệu và thiết thực nhất.
Các biện pháp để đảm bảo chất lượng công trình cần được tăng cường
Trong rất nhiều trường hợp những nguyên tắc về xây dựng cơ bản không được thực hiện nghiêm túc, mặt khác công tác thanh kiểm tra không chặt chẽ đã tạo ra kẽ hở cho thất thoát, tham nhũng và đục khoét
Không trả nợ thay: Tình hình nợ XDCB và hoàn trả tạm ứng đang trở nên gì gắt, diễn ra ở một số bộ và địa phương. Các khoản nợ XDCB vượt quá khả năng cân đối của NSNN, ảnh hưởng tiêu cực đến SXKD, dẫn đến chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ ngân hàng quá hạn tăng.
Nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo thị trường và xúc tiến thương mại. Cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm và phối hợp giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, nhà kinh doanh trong công tác thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế). ở tầm vĩ mô Nhà nước cần đầu tư nâng cao chất lượng dự báo thị trường và phát triển thương mại của Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại và một số Bộ, địa phương trọng điểm. Đặc biệt là vấn đề dự báo dài hạn và hàng năm để giúp các doanh nghiệp định hướng kinh doanh và cảnh bảo thị trường.
Can som hình thành và phát triển cơ cấu thương mại của nền kinh tế phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nhằm khai thác lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế.
Hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, tự do hoá thương mại. Triệt để tuân thủ nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những thứ mà luật pháp cho phép và luật pháp không cấm. Thường xuyên rà soát hệ thống luật pháp hiện hành để bảo đảm tính hệ thống tính pháp lý và môi trường thông thoáng cho các chủ thể kinh doanh. Đồng thời phải nghiêm trị các hành vi vi phạm luật thương mại nhất là buôn lậu, hàng rởm và hàng giả.
Tổ chức hệ thống kinh doanh thương mại hợp lý. Phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất với lưu thông. Chủ động điều tiết khối lượng cung cho phù hợp với cầu thị trường. Hướng tới sản xuất và bán hàng theo yêu cầu thị trường.
Đây là vấn đề quan trọng trong các giải pháp phát triển thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO và HNKTQT của Việt Nam. WTO hoạt động dựa trên các luật lệ và các quy tắc tương đối phức tạp, bao gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản của WTO: 1, không phân biệt đối xử (Đãi ngộ, tối huệ quốc - MFN, Đãi ngộ quốc gia - HT); 2, mở cửa thị trường; 3, thông thoáng và có khả năng dự báo; 4, minh bạch hoá chế độ thương mại; 5, đối xử ưu đãi đối với các nước đang phát triển
Xoá bỏ hệ thống hai giá; giảm dần các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước; các quy định hành chính không nhất quán
Ban hành các quy định về chống bán phá giá trên thị trường nội địa, đồng thời quan trọng hơn là việc thiết kế các chính sách có thể chứng minh không vi phạm pháp luật chống bán phá giá ở nước nhập khẩu.
Chủ động và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc té của Việt Nam. Tích cực đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với các nước và tổ chức kinh tế quốc tế. Tạo lập môi trường và điều kiện để sớm gia nhập tổ chức thương mại quốc tế. Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại phù hợp với yêu cầu phát triển của một nền thương mại hiện đại.
Thực hiện các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào sự nghiệp phát triển hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại của nền kinh tế
Hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại trong nước đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại ở nước ngoài (văn phòng đại diện, chi nhánh công ty, các siêu thị bán các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm,…) thông qua các quỹ hỗ trợ, chính sách tín dụng và các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia,…
Đối với những hạng mục cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại quan trọng của nền kinh tế, quy mô vốn đầu tư lớn, yêu cầu trình độ kỹ thuật cao, nhưng chưa thể mang lại hiệu quả trực tiếp cho nhà đầu tư thấp, thường không hấp dẫn các doanh nghiệp tư nhân trong nước hay các nhà đầu tư nước ngoài thậm chí họ cũng không thể đảm nhận được thì Nhà nước cần có chính sách đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và cho thuê với chi phí thấp.
Trên cơ sở xác định các kênh thương mại của nền kinh tế gắn với yêu cầu hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu để xác lập quy hoạch hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật thương mại của nền kinh tế (cả về quy mô, trình độ và loại hình cơ sở vật chất) một cách tương ứng. Trong đó, chú trọng đến việc hình thành và phát triển hệ thống phân phối hàng hoá toàn cầu của Việt Nam, nhất là tại các thị trường Hoa Kỳ, EU,…, hình thành và phát triển các trung tâm giao dịch, mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có tầm cỡ khu vực và thế giới ở Việt Nam; xây dựng cơ sở vật chất cho thương mại điện tử…
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống quản lý nhà nước đối với thị trường. Đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia. Coi trọng khâu đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài trong kinh doanh và quản lý thị trường, thương mại. Nâng hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với thương mại, dịch vụ.
Xây dựng và ban hành văn bản luật điều chỉnh hoạt động dịch vụ: Quy chế Tối huệ quốc (MFN), quy chế Đối xử quốc gia (NT) áp dụng cho thương mại dịch vụ; bổ sung các điều luật về thương mại dịch vụ trong Luật Thương mại Việt Nam.
Ban hành Luật Cạnh tranh và chống độc quyền
Các quy định về đăng ký và quản lý nhãn hiệu hàng hoá, về bảo hộ thương hiệu.
Hoàn thiện hệ thống các quy định về tiêu chuẩn sản phẩm, rà soát các quy định có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá và thương mại nội địa.
Phát triển nhanh và bền vững kinh tế xã hội là mục tiêu chiến lược. Sự phát triển mạnh mẽ và ổn định của thị trường hàng hoá, dịch vụ là yếu tố quan trọng để thực hiện được mục tiêu nói trên
DỰ KIẾN TÀI LIỆU VÀ SỐ LIỆU THAM KHẢO.
1. Các trang web điện tử.
www.baothuongmai.com.vn
www.vienkinhte.gov.vn
www.mpi.gov.vn (web của bộ Kế hoạch và Đầu tư)
www.gso.gov.vn ( tổng cục thống kê)
- www.na.gov.vn
2. Các tạp chí kinh tế.
Phát triển kinh tế
Tạp chí cộng sản.
Tạp chí kinh tế và dự báo- NXB Thống kê. T.S Đinh Quý Xuân
Sách Kinh tế xã hộ Việt Nam trước thềm hội nhập - NXB Bộ Kế hoạch và Đầu tư
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34941.doc