LỜI NÓI ĐẦU
Trong những thập niên vừa qua, đầu tư trực tiếp gia tăng một cách nhanh chóng không những ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, với bối cảnh kinh tế quốc tế đã và đang chiếm vị trí quan trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội trở thành đối tác với các doanh nghiệp nước ngoài đủ mọi quy mô và quốc tịch, trở thành điểm thu hút đầu tư khá lớn từ nước ngoài. Việc dỡ bỏ những ưu thế xuất phát từ hành động bảo hộ, trợ cấp của chính phủ Việt Nam sẽ là một trong những động thái đầu tiên để Việt Nam chính thức và bình đẳng bước vào sân chơi cạnh tranh toàn thế giới. Và Hiệp định TRIMS , Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đối với các nước thành viên WTO đã và đang dần dần nhanh chóng áp dụng một cách toàn diện tại Việt Nam theo lộ trình cam kết.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về hiệp định TRIMs cũng như những quy định xung quanh hiệp định này trở nên rất bức thiết. Vậy, TRIMs ra đời như thế nào, những quy định cụ thể của Hiệp định bao gồm những gì? Mục đích của TRIMs hướng đến là gì và tác động của TRIMs đến mỗi quốc gia nói chung, đến Việt Nam nói riêng và cụ thể đến từng doanh nghiệp như thế nào?
Đó cũng chính là nội dung của đề tài này: HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI (TRIMs).
Bố cục tiểu luận gồm 3 phần :
Phần I : Sơ lược về “Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại – TRIMs”
Phần II : Tác động của việc thực hiện hiệp định TRIMs đến các ngành công nghiệp của Việt Nam.
Phần III : Một số nhóm giải pháp để giúp Việt Nam thích nghi hơn với hiệp định TRIMs
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1845 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những thập niên vừa qua, đầu tư trực tiếp gia tăng một cách nhanh chóng không những ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, với bối cảnh kinh tế quốc tế đã và đang chiếm vị trí quan trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội trở thành đối tác với các doanh nghiệp nước ngoài đủ mọi quy mô và quốc tịch, trở thành điểm thu hút đầu tư khá lớn từ nước ngoài. Việc dỡ bỏ những ưu thế xuất phát từ hành động bảo hộ, trợ cấp của chính phủ Việt Nam sẽ là một trong những động thái đầu tiên để Việt Nam chính thức và bình đẳng bước vào sân chơi cạnh tranh toàn thế giới. Và Hiệp định TRIMS TRIMs - Trade Related Investment Measures – Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
, Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đối với các nước thành viên WTO WTO – World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới
đã và đang dần dần nhanh chóng áp dụng một cách toàn diện tại Việt Nam theo lộ trình cam kết.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về hiệp định TRIMs cũng như những quy định xung quanh hiệp định này trở nên rất bức thiết. Vậy, TRIMs ra đời như thế nào, những quy định cụ thể của Hiệp định bao gồm những gì? Mục đích của TRIMs hướng đến là gì và tác động của TRIMs đến mỗi quốc gia nói chung, đến Việt Nam nói riêng và cụ thể đến từng doanh nghiệp như thế nào?
Đó cũng chính là nội dung của đề tài này: HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI (TRIMs).
Bố cục tiểu luận gồm 3 phần :
Phần I : Sơ lược về “Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại – TRIMs”
Phần II : Tác động của việc thực hiện hiệp định TRIMs đến các ngành công nghiệp của Việt Nam.
Phần III : Một số nhóm giải pháp để giúp Việt Nam thích nghi hơn với hiệp định TRIMs.
I. SƠ LƯỢC VỀ “HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI - TRIMs”
Trong thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài là hoạt động đem vốn, tài sản từ nước này sang một nước khác để kinh doanh, thu lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài gồm cả đầu tư trực tiếp (đầu tư thành lập hoặc mua lại doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp (chủ yếu qua thị trường chứng khoán). Quy định về đầu tư nước ngoài của nước nhận đầu tư có thể cản trở hoặc thúc đẩy việc đầu tư và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lợi nhuận của hoạt động đầu tư của nhà đầu tư đến từ các nước khác. Thương mại quốc tế từ đó cũng có thể được khuyến khích hoặc bị hạn chế vì các quy định về đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, để đảm bảo rằng các biện pháp của nước nhận đầu tư không cản trở bất hợp lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và dòng lưu chuyển vốn, tài sản trong thương mại quốc tế, các nước thành viên WTO đã thống nhất thông qua một Hiệp định về vấn đề này, gọi là Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs). Biện pháp đầu tư ở đây được hiểu là bất kỳ một quy định, điều kiện hay thủ tục nào mà nước nhận đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiệp định TRIMs
Cùng với quá trình phát triển của thương mại thế giới, dòng lưu chuyển vốn đầu tư cũng tăng không ngừng, thực tế đã vượt xa tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các nước. Cho đến nay, 1/3 thương mại trên thế giới là trao đổi giữa các công ty có liên hệ với nhau về sở hữu, hay nói một cách khác, 1/3 thương mại thế giới ngày nay gắn liền với đầu tư. Cuối thập niên 40 khi xây dựng nên hệ thống thương mại đa biên, người ta cũng nghĩ đến cơ chế điều tiết đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên ý tưởng trên khi đó chưa thực hiện được. Cho đến tận Vòng đàm phán Uruguay thì vấn đề đầu tư mới được đề cập như là vấn đề riêng trong WTO.
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/04/1994. Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là một trong các hiệp định của WTO mà các thành viên gia nhập tổ chức này phải ký kết. Hiệp định TRIMS có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Năm 1995, các nước thành viên WTO ký kết Hiệp định TRIMS chấp nhận ràng buộc rằng các biện pháp TRIMS của nước mình phải phù hợp với GATT (tiền thân của WTO).
Hiệp định TRIMs ra đời là một bước tiến lớn. Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng Hiệp định này chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước phát triển và đang phát triển, nó được coi là bước thoả hiệp ban đầu giữa quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế.
2. Mục đích của Hiệp định TRIMs
Là một trong 16 Hiệp định đa phương của WTO, Hiệp định TRIMs quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm sử dụng đối với các nước thành viên.
Mục tiêu chính của hiệp định là thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. Vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Do đó, Hiệp định này cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại và khả năng tài chính của các nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém phát triển. Với các điều khoản đưa ra, mục tiêu của Hiệp định TRIMs là tạo ra công bằng mậu dịch. Các công cụ khuyến khích đầu tư (như ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và các hỗ trợ khác của Chính phủ) sẽ giảm dần và được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa lớn. Thực hiện nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến nông sản, xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI). Việc điều chỉnh chính sách nhằm xoá bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng đáp ứng nhu cầu trong nước. Thực tiễn ở nhiều quốc gia, khi thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở những ngành mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi thế cạnh tranh. Đây cũng chính là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO.
Thực hiện cam kết của hiệp định TRIMs, nhìn chung sẽ tạo thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trong duy trì mục tiêu khuyến khích sử dụng nguồn lực trong nước (tỷ lệ nội địa hoá), tăng cường xuất khẩu (tỷ lệ xuất khẩu) và thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp, đây cũng là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs ngay khi trở thành thành viên chính thức của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước.
3. Nội dung chính của Hiệp định TRIMs
Có thể nói, Hiệp định TRIMs không bao quát đầy đủ các yếu tố của một Hiệp định đầu tư quốc tế mà chỉ là cơ chế pháp lý điều chỉnh các biện pháp đầu tư có tác động đến hoạt động thương mại hàng hóa và các hoạt động có liên quan của các doanh nghiệp. Hiệp định không quy định cụ thể khái niệm thế nào là một biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà chỉ đưa ra Danh mục minh họa một số biện pháp đầu tư không phù hợp với nghĩa vụ dành đối xử quốc gia (Điều III) và loại bỏ hạn chế về định lượng (Điều XI) của GATT 1994. Trong GATT 1994 đã quy định việc cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMs các quy định trở nên rõ ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO. Theo đó, tất cả các biện pháp được mô tả trong Danh mục minh họa, cho dù được áp dụng như là điều kiện để thành lập, mở rộng doanh nghiệp hay là điều kiện để doanh nghiệp đó hưởng ưu đãi đầu tư đều không được phép áp dụng.
Hiệp định về TRIMs gồm phần mở đầu, 9 điều và một phụ lục kèm theo qui định những biện pháp đầu tư của nước tiếp nhận không phù hợp với các điều III và XI khoản 1 của GATT. Những biện pháp đó là :
Khối lượng nhập khẩu chỉ được giới hạn ở mức tương đương với khối lượng hàng xuất khẩu của công ty.
Qui định về tỷ lệ các phụ kiện được sản xuất tại chỗ trong thành phẩm (tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm), đòi hỏi này trái với điều III của GATT là không được phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
Những hạn chế liên quan đến sử dụng nguồn ngoại tệ. Khối lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu chỉ hạn chế ở mức tương đương với khối lượng ngoại tệ mà công ty có được thông qua xuất khẩu hoặc các nguồn khác.
Những yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu đối với các sản phẩm được sản xuất trên thị trường nội địa.
Theo quy định của Hiệp định, tính từ ngày thành lập WTO (01/01/1995), các biện pháp nói trên phải được loại bỏ trong vòng 2 năm đối với thành viên phát triển, 5 năm đối với thành viên đang phát triển và 7 năm đối với thành viên chậm phát triển. Thời hạn này được áp dụng đối với các thành viên sáng lập WTO; các nước chưa phải là thành viên có thể thỏa thuận thời gian quá độ trên cơ sở đàm phán song phương. Đến nay, các thành viên mới gia nhập WTO từ sau năm 1995 đã cam kết thực hiện Hiệp định mà không yêu cầu bất kỳ ngoại lệ nào hoặc chỉ bảo lưu ở mức độ tối thiểu.
Ngoài ra, nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp đã thành lập đang chịu tác động của một số biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định TRIMs có một điều khoản quy định cho phép nước thành viên trong giai đoạn chuyển đổi được áp dụng những biện pháp đó đối với các doanh nghiệp mới thành lập nếu sản phẩm của những doanh nghiệp này là tương tự với những sản phẩm của các doanh nghiệp đã thành lập, và việc áp dụng những biện pháp đó là cần thiết để tránh làm méo mó điều kiện cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã thành lập và các doanh nghiệp mới thành lập. Những biện pháp áp dụng đối với cả 2 loại doanh nghiệp này sẽ được loại bỏ đồng thời.
Các nước thành viên phải thông báo cho WTO tất cả các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với Hiệp định TRIMs, cũng như các tài liệu, thông tin liên quan, kể cả các biện pháp được áp dụng ở cấp chính quyền địa phương.
Nước thành viên có trách nhiệm cung cấp thông tin và tạo điều kiện để tiến hành tham vấn nếu có nước thành viên khác yêu cầu. Một Ủy ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đã được thành lập nhằm giám sát việc thực hiện Hiệp định TRIMs.
II. Thực hiện Hiệp định TRIMs tác động đến các ngành công nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, cơ khí - điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi.
Do đó, việc đàm phán thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs của Việt Nam hoàn toàn không phải là một điều mới mẻ. Theo Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ BTA - Bilateral Trade Agreement – Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ
(BTA) có hiệu lực từ tháng 12/2001, trừ 2 yêu cầu phải thực hiện ngay tại thời điểm nói trên (xóa bỏ yêu cầu cân đối xuất - nhập khẩu và cân đối ngoại tệ), Việt Nam đã cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs vào thời điểm chậm nhất cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO (gồm việc xóa bỏ yêu cầu xuất khẩu, nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước). Trong gần 05 năm thực hiện BTA, hệ thống pháp luật Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng hầu hết các nghĩa vụ theo BTA. Đặc biệt, Luật Đầu tư có hiệu lực từ 01/07/2006 đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam bằng việc loại bỏ toàn bộ các biện pháp TRIMs được áp dụng như những điều kiện bắt buộc để cấp phép đầu tư, nhưng cũng là điều kiện để cấp ưu đãi đầu tư (bao gồm các yêu cầu bắt buộc xuất khẩu, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước cũng như các ưu đãi đầu tư gắn với việc thực hiện các yêu cầu này).
Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành minh bạch hóa chính sách về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, đồng thời hoàn thành Thông báo và Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TRIMs. Theo đó, Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ hoàn toàn các biện pháp không phù hợp với Hiệp định TRIMs ngay tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Cụ thể, Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ các biện pháp sau như là điều kiện để cấp phép đầu tư hay là điều kiện để cấp ưu đãi đầu tư, gồm:
- Yêu cầu về nội địa hóa đối với dự án sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, và các mặt hàng cơ khí, điện – điện tử.
Cấp ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng cơ khí, điện – điện tử và phụ tùng ô tô.
Yêu cầu về đầu tư phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với dự án đầu tư nước ngoài chế biến các sản phẩm: sữa, dầu thực vật, mía đường, gỗ.
Liên quan đến yêu cầu về nội địa hóa đối với dự án sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và các mặt hàng cơ khí, điện – điện tử.
Thời gian qua, chiến lược và chính sách phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã kêu gọi đầu tư và dành nhiều ưu đãi cho ngành này. Tuy nhiên, đến nay Việt Nam vẫn chưa thể thực sự nội địa hoá ôtô. Nguyên nhân cơ bản là do các ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp nói chung và cho ôtô nói riêng ở Việt Nam còn manh mún, thô sơ, thiếu tính kỹ thuật chuyên sâu, thực tế những năm qua cho thấy tỷ lệ nội địa hoá chỉ đạt được từ 2% - 7% và chỉ tập trung chủ yếu vào các công đoạn sản xuất đơn giản như hàn lắp khung, thân xe, sơn, tẩy rửa, lắp ráp thiết bị kiểm tra kèm theo. Và với Hiệp định TRIMs, rõ ràng ngành ô tô Việt Nam đang đứng trước khó khăn.
Chương trình nội địa hoá ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy tại Việt Nam thời gian qua là một ví dụ điển hình về sự thành công và phát triển ban đầu. Tỷ lệ nội địa hoá được quy định ngay trong Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã đáp ứng được tiến độ và tỷ lệ nội địa hoá như quy định. Một số Công ty đạt tỷ lệ nội địa hoá cao như Honda Việt Nam (64-66%), VMEP (43-77%)… và một số Công ty có tỷ lệ được coi là thấp như Công ty Vina – Siam 40,8%, Lifan 41,2%... Song, phần lớn sản phẩm nội địa được sử dụng là những chi tiết, linh kiện sản xuất với kỹ thuật công nghệ đơn giản, rất ít bộ phận chính, quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật cao thuộc cụm động cơ.
Trong điều kiện kỹ thuật sản xuất ở nước ta còn lạc hậu, các ngành sản xuất, lắp ráp các sản phẩm và phụ tùng điện tử và cơ khí - điện cần được nội địa hoá để từng bước tạo ra các ngành công nghiệp cơ bản trong nước. Thời gian qua, việc thực hiện chương trình nội địa hoá đối với các ngành công nghiệp này chưa đạt mục tiêu đề ra. Sáu doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lớn nhất trong ngành này mới chỉ đạt mức nội địa hoá khoảng 30%. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp trong nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật trong việc cung cấp các linh kiện và phụ tùng, đặc biệt là các ngành sản xuất, lắp ráp đòi hỏi công nghệ cao. Do đó, việc dỡ bỏ yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc theo như cam kết trong hiệp định TRIMs sẽ có tác động không nhỏ tới các ngành này. Với thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ của nước ta vẫn còn yếu và thiếu, các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc đa dạng hóa nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là những nguyên liệu có hàm lượng kỹ thuật cao. Thêm vào đó, việc dỡ bỏ rào cản tạo ra môi trường cạnh tranh hơn cho các doanh nghiệp sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý.... Hiệp định TRIMs tháo gỡ vướng mắc cho các ngành công nghiệp ô tô, xe máy trong vấn đề nguyên vật liệu đầu vào nhưng lại gây khó khăn không nhỏ cho các ngành công nghiệp phụ trợ. Việt Nam sẽ không thể tiếp tục thực hiện chương trình nội địa hóa bắt buộc để bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước, đặc biệt là các ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng phải đối mặt với mức độ cạnh tranh cao, vốn đã yếu nay còn gặp khó khăn gấp bội.
Liên quan đến việc cấp ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng cơ khí, điện – điện tử và phụ tùng ô tô.
Từ năm 1999 nhà nước đã áp dụng chính sách thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm, phụ tùng ngành cơ khí – điện – điện tử. Cụ thể biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo Quyết định số 1944/1998/QĐ/BTC ngày 25/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Sản phẩm điện tử, sản phẩm ngành cơ khí - điện:
Tỷ lệ nội địa hóa đạt được
(%)
Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa (%)
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
30%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
40%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
50%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
60%
1. Trên 0 đến 20
20
30
40
40
2. Trên 20 đến 35
15
20
30
30
3. Trên 35 đến 50
10
10
15
15
4. Trên 50 đến 60
5
5
10
10
5. Trên 60
3
3
3
3
Xe máy (thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của sản phẩm nguyên chiếc: 60%)
Tỷ lệ nội địa hóa đạt được (%)
Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa (%)
1. Trên 0 đến 20
60
2. Trên 20 đến 30
50
3. Trên 30 đến 40
30
4. Trên 40 đến 50
15
5. Trên 50 đến 60
10
7. Trên 60
5
c) Phụ tùng ô tô, xe máy, phụ tùng ngành điện tử, phụ tùng ngành cơ khí - điện:
Tỷ lệ nội địa hóa đạt được
(%)
Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa
%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
30%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
40%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
50%
Phụ tùng có thuế NK ưu đãi
60%
1. Trên 0 đến 15
20
20
30
40
2. Trên 15 đến 30
15
15
20
20
3. Trên 30 đến 40
10
10
10
10
4. Trên 40 đến 50
5
5
5
5
5. Trên 50
3
3
3
3
Theo Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TRIMs, các ưu đãi thuế nhập khẩu dựa trên tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp xe máy và các sản phẩm, linh kiện trong ngành công nghiệp cơ khí, điện – điện tử đã được bãi bỏ dần dần. Chính sách ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hóa dành cho xe hai bánh gắn máy, động cơ xe hai bánh gắn máy chính thức bãi bỏ từ ngày 01/01/2003. Và đến ngày 01/10/2006, chính sách ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hóa chính thức bãi bỏ. Tỷ lệ xuất khẩu cũng không còn là điều kiện để được cấp phép đầu tư hay được hưởng các ưu đãi đầu tư.
Việc bãi bỏ cấp ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa có tác động trực tiếp tới ngành sản xuất và lắp ráp hàng cơ khí, vì đây là ngành công nghiệp nền tảng, sản xuất các linh kiện và phụ tùng phục vụ cho các ngành công nghiệp ô tô, xe máy…. Trong những năm qua, ngành cơ khí nước ta cũng đã có nhiều nỗ lực tạo sự chuyển biến, nâng cao khả năng thiết kế, năng lực thiết bị và công nghệ. Giá trị sản xuất công nghiệp ngành cơ khí năm 2009 đạt 154.870 tỷ đồng, đáp ứng khoảng 35% nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, những kết quả đó không làm cho bức tranh về nội địa hóa của ngành này có được một gam màu sáng. Ngành cơ khí nước ta hiện nay vẫn là quy mô nhỏ, trình độ phát triển còn thấp, máy móc thiết bị lạc hậu, tỷ lệ đổi mới thấp, năng lực tư vấn, thiết kế yếu, chủ yếu là gia công, lắp ráp, tỷ lệ sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao còn thấp…
Do đó, bên cạnh những thuận lợi mà việc thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs đem lại như: xóa bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Việt Nam, tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất, chế biến các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam thì cũng khiến cho các ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của Việt Nam, mà điển hình là ngành cơ khí chịu tác động không nhỏ.
Liên quan đến yêu cầu dự án đầu tư nước ngoài chế biến các sản phẩm về sữa, gỗ, dầu thực vật, mía đường phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước
Đối với ngành công nghiệp chế biến gắn với tạo nguồn nguyên liệu, việc thực hiện Hiệp định TRIMs cũng gây ra các tác động ngược chiều. Điển hình như ngành chăn nuôi bò sữa. Trong số các doanh nghiệp nước ngoài (chiếm 25% thị phần Việt Nam), chỉ có 4 doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư gắn với phát triển đàn bò sữa. Trong điều kiện nguồn nguyên liệu cung cấp còn hạn chế (dự kiến đến năm 2020 chỉ đáp ứng 35% nhu cầu) và tốc độ tăng trưởng chậm của đàn bò sữa (11% so với tốc độ tăng lượng sữa tiêu dùng khoảng 20%), việc thực hiện Hiệp định TRIMs sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp hoạt động trong ngành chủ động quyết định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến sữa, trong đó chủ yếu sẽ là nguồn nhập khẩu, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất khẩu. Điều này sẽ làm gia tăng nhập khẩu nguyên liệu sữa, không tạo điều kiện để Việt Nam thúc đẩy chương trình phát triển đàn bò sữa ở nông thôn, và gây khó khăn không nhỏ đối với những người nông dân chăn nuôi bò sữa.
Đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ, yêu cầu dự án phải gắn với đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội gắn với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lại thiếu các chính sách hỗ trợ kèm theo và điều kiện hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện yêu cầu này. Thiếu gỗ nguyên liệu, các doanh nghiệp phải nhập khẩu nguồn gỗ từ bên ngoài. Việc các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ để chế biến hàng xuất khẩu cũng tạo điều kiện bảo vệ môi trường và nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.
Như vậy, việc thực hiện các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIMs có ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam. Các công cụ khuyến khích đầu tư (như ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và các hỗ trợ khác của Chính phủ) cũng sẽ giảm dần và được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Việc giảm hoặc loại bỏ các công cụ bảo hộ theo Hiệp định TRIMs sẽ tất yếu ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam, tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực này sẽ được bù đắp bởi những tác động tích cực do Hiệp định này mang lại.
III. Các nhóm giải pháp giúp Việt Nam thích nghi hơn với hiệp định TRIMs
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO và phải thực hiện Hiệp định TRIMs, những giải pháp mang tính bảo hộ sản xuất trong nước sẽ không thể được áp dụng. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần tiến hành một cách gián tiếp. Về thực chất, đây là việc tạo dựng một môi trường kinh doanh, mà ở đó các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều được “hưởng lợi” hơn từ môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh hơn. Điều này sẽ thu hút được đầu tư nước ngoài và thúc đẩy đầu tư trong nước.
1. Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp
- Phát triển cơ sở hạ tầng tạo tiền đề thuận lợi cho các ngành công nghiệp: Để có thể phát triển cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn. Muốn huy động đủ vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cần có quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá các nguồn vốn trong đó cần cố gắng giảm vốn nhà nước, tăng các nguồn vốn từ các thành phần khác như vốn nước ngoài, vốn tư nhân (PPI – Private Participation Infrastrycture) theo phương thức BOT BOT – Built Operation Transfer - Chính Phủ có thể kêu gọi các công ty bỏ vốn xây dựng trước (Built) thông qua đấu thầu, sau đó khai thác vận hành một thời gian (Operation) và sau cùng là chuyển giao (Transfer) lại cho nhà nước sở tại.
, BT BT – Built Transfer - là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước và chính phủ sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong BT.
…. Đối với nguồn vốn nhà nước dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu nhằm tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở.
- Phát triển các khu công nghiệp và công nghệ cao để góp phần thu hút đầu tư nước ngoài: Đầu tư trong các khu vực này, các nhà đầu tư không những được đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên dụng, dịch vụ thuận lợi… mà sản phẩm của họ còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Khi đầu tư có quy mô tăng lên thì yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao của Việt Nam cần được quy hoạch và có những chính sách thu hút đầu tư hợp lý cả về xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Việt Nam cần có chiến lược khuyến khích chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia: Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp, việc đầu tư vốn đổi mới công nghệ ở quy mô lớn rất khó thực hiện. Do đó, việc hướng đến kỹ thuật và công nghệ từ đầu tư nước ngoài trở thành yêu cầu tất yếu cho quá trình phát triển, nhất là việc tiếp cận công nghệ nguồn từ các nước phát triển.
- Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như là điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao công nghệ và cải tiến kỹ thuật: Việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và đội ngũ kỹ sư có trình độ cao, có khả năng ứng dụng và cải tiến công nghệ cao là vấn đề cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay.
- Quy hoạch vùng nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành và các dự án đầu tư: Việt Nam cần có quy hoạch phát triển ngành, vùng căn cứ vào các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành, vùng đó. Trong quy hoạch cần xác định rõ quy mô các vùng nguyên liệu để từ đó đề ra các giải pháp đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu phù hợp. Sớm khắc phục triệt để tình trạng “quy hoạch treo”, “đền bù treo”, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch mang tính chủ quan, dàn trải…. như thời gian qua, làm kém hiệu quả đầu tư nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung.
2. Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
- Xây dựng quy hoạch phát triển cho các ngành, trong đó định hướng sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ: Chẳng hạn, khi xây dựng quy hoạch cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; các nhà máy sản xuất phôi thép, thép tấm, thép lá; nhà máy sản xuất các chế phẩm từ cao su tự nhiên.
- Nhà nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển bằng cách tạo các điều kiện về đầu vào: như đất đai và nguyên vật liệu, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm; không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Đối với các doanh nghiệp trong nước, cần tạo dựng các sản phẩm chủ đạo, nổi trội. Bên cạnh đó, cần tạo dựng hình ảnh sản phẩm của mình nhằm thu hút các nhà đầu tư (người mua) như xây dựng thương hiệu, khuếch trương sản phẩm. Một giải pháp quan trọng nữa là cần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý cho ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài cùng loại.
3. Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược của doanh nghiệp.
- Tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật: Ngoài việc công khai lộ trình cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cần công bố các chương trình luật pháp có liên quan cho tất cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kế hoạch xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ các rào cản trái với quy định của WTO.
- Xây dựng quy chế phê duyệt và quản lý dự án đầu tư thông thoáng đơn giản và hiệu quả. Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách mạnh mẽ hành chính, nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền liên quan, tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cả cơ quan chức năng và nhà đầu tư… từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng đồng thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơ hội đầu tư thuận lợi, nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư.
- Về phía các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp trong nước cần chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Hội nhập là con đường phát triển tất yếu nhưng không dễ dàng, bằng phẳng. Các chính sách biện pháp hỗ trợ (nếu có) của Chính phủ chỉ đóng vai trò là chất “xúc tác”, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Bản thân mỗi doanh nghiệp mới thực sự là người đóng vai trò quyết định đối với sự thành bại của chính mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp cần xác định đúng đắn chiến lược đầu tư phát triển của mình phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của nền kinh tế. Trước hết, cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất, tạo nên bước đột phá về chất lượng và giá cả sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đáp ứng tốt yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất từ đó phát huy được lợi thế cạnh tranh và có thể tồn tại bền vững trong điều kiện hội nhập.
KẾT LUẬN
Tính đến giờ phú này, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO được bốn năm, và theo như lộ trình mà ta đã cam kết, chúng ta không còn nhiều thời gian để hoàn thiện tất cả, vấn đề áp dụng hiệp định TRIMs và thích nghi với nó quả thật là một bài toán cấp bách.
Trên đây là toàn bộ nỗ lực của nhóm 7 trong việc nghiên cứu và tìm hiểu đề tài: HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI (TRIMs).
Trong quá trình thực hiện, với kiến thức chuyên ngành còn chưa sâu và sự hạn chế về tài liệu tham khảo, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, cũng như sự không nhất quán trong những quan điểm trái chiều nhau, nhóm đề tài hy vọng rằng đã cung cấp cho các bạn một cách nhìn sơ lược và tổng quan nhất về Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoá trong WTO.
Thiết nghĩ, bản thân mỗi công dân trẻ hãy tự trang bị cho mình thật vững những kiến thức sơ khởi khi chúng ta đồng hành cùng đất nước bước vào kỷ nguyên Toàn cầu hoá sâu rộng.
Qua đó, nhóm đề tài nhận thức được tầm quan trọng của các đề tài môn Chính sách thương mại quốc tế mang lại cho mỗi học viên chuyên ngành Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế, một lần nữa, nhóm đề tài xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của TS Nguyễn Xuân Nữ đã hướng dẫn nhóm trong môn học này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt:
Giáo trình Kinh tế ngoại thương – Tác giả: TS Bùi Xuân Lưu - NXB Lao động Xã hội, 06-2006
Pháp lệnh Ngoại hối Việt Nam, số 28/2005/PL-UBTVQH11 do Chính Phủ nước CHXHCN VIỆT NAM ban hành
II. Tài liệu tham khảo qua website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HI7878P 2727882NH QUY 2727882NH V7872 CC BI7878N PHP 272amp78.doc