Tiểu luận Hình ảnh người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Du nhìn dưới góc độ văn hóa
LỜI MỞ ĐẦU
Nhân vật văn học là con người. Để hiểu nhân vật văn học không thể không tìm hiểu quan niệm về con người của tác giả cũng như quan niệm của cả thời đại và sự chi phối của quan niệm ấy đến việc khắc họa tính cách nhân vật.
Hình ảnh người phụ nữ tài hoa mệnh bạc là chủ đề trở đi trở lại nhiều lần. Ta đã nhận ra điều đó trong Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí, Bài ca người gảy đàn ở Long Thành. Nhìn từ góc độ văn hóa chúng ta sẽ đánh giá vấn đề người phụ nữ tài sắc trên cả hai phương diện là thân và tâm.
Có nhiều biểu hiện của một quan niệm khá mới mẻ về thân xác của con người trong Truyện Kiều. Nhìn chung quan niệm này khác với quan niệm coi thường thân của truyền thống văn hóa và văn học. Nguyễn Du có khuynh hướng đề cao thân xác, coi thân xác là một phạm trù giá trị. Ông luôn trân trọng thân xác của họ, trong sáng tác của mình ông chú trọng đến bản thân nỗi đau đớn, nhục nhã của việc thân xác con người bị giày xéo, chà đạp. Đã là người ai cũng có thân, Nguyễn Du cảnh tỉnh sự bàng quan, vô cảm đáng sợ của toàn xã hội trước chuyện đánh đạp, giày xéo thân xác. Tôn trọng con người trước hết phải tôn trọng thân xác của họ. Không thể nhân danh đạo đức, luật pháp để chà đạp lăng nhục con người. Cuộc đời Kiều là chuỗi ngày đày đọa tấm thân. Ý thức về thân mình chính là ý thức về cái phần riêng tư nhất, thực tại nhất của con người Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất.
“Rằng tôi bèo bọt chút thân”
Thân lươn bao quản tấm đầu”.
Trong sáng tác của mình Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tư tưởng đề cao vẻ đẹp thân xác con người, trước hết là của người phụ nữ đã được nêu từ Kim Vân Kiều truyện và trong các tiểu thuyết tài tử giai nhân.
KẾT LUẬN
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3725 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hình ảnh người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Du nhìn dưới góc độ văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
TIỂU LUẬN
HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN DU NHÌN DƯỚI GÓC ĐỘ VĂN HÓA
Giảng viên hướng dẫn : Trần Nho Thìn
Học viên thực hiện : Khổng Thị Huyền
Lớp : Cao học Văn K51
Hà Nội -2008
Nhân vật văn học là con người. Để hiểu nhân vật văn học không thể không tìm hiểu quan niệm về con người của tác giả cũng như quan niệm của cả thời đại và sự chi phối của quan niệm ấy đến việc khắc họa tính cách nhân vật.
Hình ảnh người phụ nữ tài hoa mệnh bạc là chủ đề trở đi trở lại nhiều lần. Ta đã nhận ra điều đó trong Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí, Bài ca người gảy đàn ở Long Thành. Nhìn từ góc độ văn hóa chúng ta sẽ đánh giá vấn đề người phụ nữ tài sắc trên cả hai phương diện là thân và tâm.
Có nhiều biểu hiện của một quan niệm khá mới mẻ về thân xác của con người trong Truyện Kiều. Nhìn chung quan niệm này khác với quan niệm coi thường thân của truyền thống văn hóa và văn học. Nguyễn Du có khuynh hướng đề cao thân xác, coi thân xác là một phạm trù giá trị. Ông luôn trân trọng thân xác của họ, trong sáng tác của mình ông chú trọng đến bản thân nỗi đau đớn, nhục nhã của việc thân xác con người bị giày xéo, chà đạp. Đã là người ai cũng có thân, Nguyễn Du cảnh tỉnh sự bàng quan, vô cảm đáng sợ của toàn xã hội trước chuyện đánh đạp, giày xéo thân xác. Tôn trọng con người trước hết phải tôn trọng thân xác của họ. Không thể nhân danh đạo đức, luật pháp để chà đạp lăng nhục con người. Cuộc đời Kiều là chuỗi ngày đày đọa tấm thân. Ý thức về thân mình chính là ý thức về cái phần riêng tư nhất, thực tại nhất của con người Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất.
“Rằng tôi bèo bọt chút thân”
Thân lươn bao quản tấm đầu”.
Trong sáng tác của mình Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tư tưởng đề cao vẻ đẹp thân xác con người, trước hết là của người phụ nữ đã được nêu từ Kim Vân Kiều truyện và trong các tiểu thuyết tài tử giai nhân.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du cực tả vẻ đẹp ngoại hình, nói đúng hơn là tả khuôn mặt của Thúy Vân và Thúy Kiều.
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Và “Làn thu thủy nét xuân sơn.
Hoa den thua thắm liều hờn kém xanh”.
Cái đẹp trang nghiêm phúc hậu hồn nhiên của Thúy Vân báo hiệu cho ta biết một cuộc đời bình thản của người vợ hiền. Cái đẹp sắc sảo mặn mà mà tài hoa của Kiều báo hiệu một cuộc đời ê chề sau này của một thiếu nữ đa tình đa cảm.
Nguyễn Du không chỉ tả vẻ đẹp khuôn mặt, ông còn tả vẻ đẹp của thân thể Kiều nữa, tả Kiều tắm như một cái cớ để bộc lộ thân thể đẹp đẽ mê hồn của nàng. Thủ pháp này rất quen thuộc trong văn học cưa nay, chuyện Kiều tắm không phải là ngoại lệ. Nguyễn Du tả:
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Nhà thơ Xuân Diệu đã tinh tế phát hiện sự phối hợp màu sắc do không gian ấy đem lại như sau “Giữa cái chế độ phong kiến Á Đông đè xuống tinh thần, thể xác con người, lại giả dối che đậy lên hàng tạ quần áo, Nguyễn Du giải y, giải thoát cho mọi người được chiêm ngưỡng thán phục cái tòa thiên nhiên thuyệt mĩ của tạo vật, là thân thể lành đẹp của con người. Không một chút dâm; không có một nửa sáng, nửa tối nào có thể khêu gợi chuyện sáng, mà một ánh sáng rõ ràng, mà ngọc ngọc mà ngà, mà trong mà trắng, lại rủ một bức trướng hồng trang trọng
Thân xác của nhân vật còn được tác giả đề cập đến trên phương diện quyền được sống, quyền được thực hiện như tự nhiên cấp cho nó. Mức độ và quyền sống của thân xác ở nhân vật Truyện Kiều có thể quan sát qua ứng xử.
Thân xác của Kiều cũng như các nhân vật khác trong tương quan với Kiều. Ứng xử thân xác của Thúy Kiều được phân loại theo ba nhóm: ứng xử thân xác trong quan hệ đạo đức (sự kiện bán mình), ứng xử trong tình yêu nam nữ, vấn đề sống chết.
Trong sự kiện Kiều bán mình, ta đề cập đến vấn đề sống chết của nàng. Một số nhà nho đã kết tội Kiều “tà dâm”, trách nàng không chọn cái chết để bảo toàn danh tiết. Các ông cho rằng, sự việc bán mình chuộc cha (tức Kiều trao thân cho kẻ khác không giữ được đạo lý “tùng nhất chi chung” với Kim Trọng nữa) có thể thông cảm được. Nhưng sau đó Kiều đã sống suốt mười lăm năm ô nhục ở chốn thanh lâu mà không tự tử Đứng trên quan điểm Nho gia về tình tiết của người phụ nữ, chuyện Kiều sống như vậy là điều không thể chấp nhận được nhưng đây lại là cái mối của Nguyễn Du.
Như vậy có thể nói: Với Truyện Kiều, lần đầu tiên trong văn học trung đại, các nhân vật chính diện được cực tả trong những chân dung có màu sắc thân xác với cảm hứng khẳng định rõ nét. Thân xác không phải là nguồn gốc khổ đau, cũng không phải là dấu hiệu của sự thấp hèn. Thân xác là một phần quan trọng của nhân cách.
Tầm quan trọng của thân trong Truyện Kiều còn được thể hiện qua sự cảm thụ thế giới bằng giác quan. Thế giới âm thanh trong Truyện Kiều rất phong phú nhưng ta nhấn mạnh hơn đến khía cạnh âm nhạc mà cụ thể hơn là tiếng đàn khi nói tới tài năng của người phụ nữ. Tiếng đàn của người phụ nữ thiên về giải trí chứ không mang chức năng giáo hóa và được tả qua những hình tượng âm thanh riêng biệt (vật chất hóa tiếng nhạc và sự tiếp nhận âm nhạc qua tai thẩm ẩm) chứ không chỉ được nhắc đến chung chung như các từ đàn, nhạc. Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du tả tiếng đàn của người ca nữ gảy đàn ở đất Long Thành, cái tiếng đàn ấy đã tạo một hiệu ứng tâm lý rất mạnh ở các tướng lĩnh Tây Sơn.
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sở phong độ tùng lâm.
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như tiến phúc bi đầu toái tích lịch
Ai như trang tịch bệnh trung vi Việt âm
… Tây Sơn chủ thần mãn tọa tận khuynh đảo,
Triêt hạ truy hoan bất tri bão.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thư thảo thảo
(Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya.
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến phúc.
Tiếng buồn như trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau.
… Các quan Tây Sơn trong tiệc thảy đều nghiêng ngả.
Suốt đêm vui chơi không biết chán.
Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn).
Hình ảnh người ca kĩ lộng lẫy tuổi xuân và tiếng đàn điệu nghệ cũng gần giống với hình ảnh nàng Kiều. Tiếng đàn ấy là một thứ “tâm đàn” chứ đâu phải được gẩy lên bằng tiểu xảo. Tính độc nhất vô nhị này được khẳng định: so với tài đàn ấy, hài hoa, phú quý của các bậc công hầu chỉ còn là rơm rác, bởi ở đó, cái đẹp của nhan sắc, của tài hoa là không gì sánh nổi.
Tiếng đàn của Kiều cũng được Nguyễn Du miêu tả theo nguyên tắc vật chất hóa như thế
So lần dầy vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới ra nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Điều đáng chú ý là Nguyễn Du tả phản ứng của người nghe đàn - Tiếng đàn của Kiều không thuộc về lễ, không khơi gợi xúc cảm đạo đức mà chạy đến phần thẳm sâu của tâm thức con người. Tiếng đàn có thể gợi lên những cảm xúc ai oán nhất.
Bốn dây như khóc như than
Khiến lòng trên tiệc cũng tan nát lòng.
Tiếng đàn có thể gợi lên cảm giác đầm ấm, vui vầy
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy hồn hồ điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ Quyên?
Nếu như tiếng đàn của nữ cầm giả đất Long Thành quá vui thì tiếng đàn Kiều quá buồn thương ai oán.
Nhân vật người phụ nữ trong sáng tác Nguyễn Du đề cao những cảm xúc tự nhiên, những thanh âm gây xúc động, không quan tâm tới mục đích đầy duy lí của việc trình diễn âm nhạc. Các giác quan đã có vai trò trong sự nhất định trong sự xác định tương quan giữa con người và thế giới. Đó cũng là biểu hiện của sự trọng thân quý thân của Nguyễn Du và thời đại.
Bên cạnh chữ thân không thể không nói tới tâm. Tâm là tình, là cảm xúc nhiều hơn lí trí. Nguyễn Du đã nhiều lần thống thiết kêu thương cho số phận tài tình “Ta là cõi phúc, tình là dây oan”.
Người phụ nữ trong sáng tác Nguyễn Du thường tả những con người tài hoa mà bạc mệnh phải chăng vì họ nặng tình. Thúy Kiều đi tảo mộ nhưng thấy nấm mồ Đam trên bên đường nhỏ lệ khóc. Khiến Thúy Vân lên tiếng “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”, gia đình gặp gia biến Kiều bán mình chuộc cha, tai họa ập xuống gia đình mình trong khi Thúy Vân vẫn ngủ rất say Thúy Kiều khóc nức nở, Vân tỏ ra ngạc nhiên. Đây là một biểu hiện của tâm duy lý. Kiều không phải không có lí trí tỉnh táo nhưng ở nàng tình văn chiếm ưu thế so với lý. Có phải vì nàng đa tình nên cuộc đời lắm truân chuyên?
Cái bi kịch của cuộc đời nàng Kiều, người đàn bà gảy đàn đất Long Thành, cũng như Tiểu Thanh là: “Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”. Họ đều là những con người tài sắc mà bất hạnh. Đây là một sợi dây liên hệ nhiều chiều trong thời gian và không gian với bao kẻ cùng hội cùng thuyền. Trong Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du cảm xúc trước cuộc đời tài hoa mà mệnh bạc của Tiểu Thanh:
Sơn phấn có thần chôn văn hận.
Văn chương không mệnh đốt còn vương”.
Son phấn tượng trưng cho nhan sắc của nàng. Văn chương tượng trưng cho tài năng, Hai vật thể vô tri đã được nhà thơ nhân cách hóa để có thần có hồn. Nguyễn Du không chỉ sót thương mà còn trân trọng khẳng định: Số phận Tiểu Thanh cũng như bao người phụ nữ khác tài hoa thì bất hạnh “Chữ tài liền với chữ tai một vần”, “tài mệnh tương đố”. Lẽ ra họ phải được xứng đáng được hưởng hạnh phúc với tài sắc mình, vậy mà đều chịu số phận chung giống Tiểu Thanh? Tiểu Thanh vốn là cô gái xinh đẹp tài sắc. Vốn thông minh nên từ nhỏ đã không hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô làm lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả ghen bắt cô sống riêng trên Cô Sơn. Vì đau buồn mà sinh bệnh rồi chết.
Nàng Kiều Đạm Tiên và Tiểu Thanh đều là những người có tài năng? Họ đều là kĩ nữ; sống bằng sắc đẹp và tài thi ca, âm nhạc, những “tài mệnh tương đố” (tài không tách rời tình) điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân xã hội. Đây là một hiện tượng có thực của xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII trở đi, gắn liền với ả đào đã xuất hiện thành một tầng lớp xã hội đông đảo, Tài năng của Kiều gợi liên tưởng đến tài nghệ các kĩ nữ ả đào thời xưa. Triết lý nêu lên trong Truyện Kiều về “Tài mệnh tương đố”, hẳn bắt nguồn từ những quan sát và suy ngẫm lâu dài của Nguyễn Du, về thân phận người ả đào mà ông từng chứng kiến,
Tài năng luôn gắn liền với tình cảm khi tả tài thơ tài đàn của Kiều, Nguyễn Du nhấn mạnh tới sự tác động về mặt cảm xúc. Người có tài trước hết là người có tình, ngưới sống thiên về cảm xúc hơn lí trí, có khả năng phô diễn truyền đạt các cảm xúc đó thành thi ca. Nguyễn Du đau đớn thấy tài tình là nguồn gốc của bất hạnh là nguyên nhân gây ra sự ghen ghét của trời đất.
“Tài tinh chi lắm cho hờn đất ghen.
“Hại thay mang lấy sắc tài mà chi”
Nguyễn Du đã nghĩ đến những người nghệ sĩ của thời đại mình, những người theo đuổi văn chương nghệ thuật mà coi trọng cảm xúc.
Tóm lại hình tượng người phụ nữ tài sắc trong sáng tác Nguyễn Du nhìn dưới hệ quy chiếu của chữ thân và tâm mới thấy hết được vẻ đẹp toàn vẹn. Nếu như trong văn học quá khứ chỉ quan tâm tới nhu cầu vật chất, phủ nhận quyền sống về mặt bản năng, phủ nhận đời sống nội tâm phong phú của con người… thì sự thành công của Nguyễn Du là đã cho chúng ta một cái nhìn nhân đạo toàn diện về con người. Lịch sử văn học Việt Nam về mặt này trên thực tế là lịch sử tìm hiếm mô hình nhân cách hoàn thiện thực tiễn lúc nghiêng về phương diện này (lí, tình) lúc nghiêng về phương diện kia (bản năng, cảm xúc) nhưng chỉ những khi nào kết hợp hài hòa cả hai phương diện mới đem lại vẻ đẹp thực sự hiện thực cho con người.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHDOCS 15.doc